Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

TIỂU LUẬN:VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LENIN TRONG CÔNG TÁC GIẢNG DẠY pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.05 KB, 13 trang )






































BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT






Họ Và Tên : NGUYỄN HỒNG SƠN


TÊN ĐỀ TÀI :

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮÙC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊ NIN TRONG CÔNG TÁC GIẢNG DẠY

(Tiểu luận triết học chương trình cao học và nghiên cứu sinh không
chuyên triết)















TP. Hồ Chí Minh, năm 2006
































MỤC LỤC

MỤC LỤC


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT







TÊN ĐỀ TÀI :

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮÙC THỐNG NHẤT

GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA


MÁC – LÊ NIN TRONG CÔNG TÁC GIẢNG DẠY

(Tiểu luận triết học chương trình cao học và nghiên cứu sinh không
chuyên triết)




Họ và Tên : Nguyễn Hồng Sơn
Chức danh : P.GĐ Trung tâm TNTH Ô TÔ
Học vò : Kỹ sư ô tô
Đơn vò công tác : Trường ĐH Công Nghiệp TPHCM









TP. Hồ Chí Minh, năm 2006






MỞ ĐẦU


Quá trình dạy học là một biến thể của quá trình nhận
thức diễn ra trong các điều kiện đặc thù, nó là cơ sở tạo
nên một khoa học mới thuộc về phạm trù nhận thức, đó là
khoa học giáo dục. Lý luận dạy học là lónh vực giáo dục
học nghiên cứu các quy luật của quá trình dạy học .
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
có ý nghóa rất lớn về mặt phương pháp luận cho mỗi một
giáo viên để áp dụng vào công tác giảng dạy.
Nghiên cứu các vấn đề thuộc về lý luận, từ đó soi
sáng vào thực tế công tác của mình là phương pháp và
cũng là nội dung của bản tiểu luận này, Do trình độ có hạn
nên khó tránh khỏi những hạn chế, rất mong sự đóng góp
ý kiến của Quý Thầy Cô và các bạn .
















MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


Phạm trù thực tiễn:
Các nhà duy vật trước Mác đã có công lao lớn trong việc phát triển thế
giới quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghóa duy tâm, tôn giáo và thuyết
không thể biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều khuyết điểm, mà trong đó
khuyết điểm lớn nhất là không thấy được hoạt động có tính chất lòch sử – xã hội
đối với nhận thức, do đó chủ nghóa duy vật của họ manh tính
trực quan
. Mác chỉ
rõ : “
Khuyết điểm chủ yếu, từ trước cho đến nay của mọi chủ nghóa duy vật (kể
cả chủ nghóa duy vật của Feuerbach) là không thấy dượcvai trò của thực tiễn
”.
Phơbách, nhà triết học duy vật lớn nhất trước Mác, tuy có đề cập tới thực
tiễn, song ông không thấy được thực tiễn như là một hoạt đông vật chất cảm
tính, có tính năng động của con người. Do đó, ông coi thường hoạt động thực
tiễn, xem tực tiễn là cái gì đó có tính chất
con buôn, bẩn thỉu
, ông không hiểu
được vai trò của thực tiễn . ng không hiểu dược vai trò, ý nghóacủa thực tiển
đối với việc nhận thức và cải tạo thế giới. Đối với ông chỉ có hoạt động lý luận
mới là quan trọng và mới là hoạt động
đích thực
của con người .
Các nhà duy tâm tuy đã thấy được mặt năng động, sáng tạo trong hoạt
động của con người nhưng lại phát triển lên một cách trừu tượng, thái quá. Vì
vậy, chủ nghóa duy tâm cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần chứ
không hiểu nó như là một hoạt động hiện thực, hoạt độngvật chất cảm tính của
con người . Khi đề cập đến “
ý niệm thực tiễn

”, Heghen, nhà triết học duy tâm
lớn nhất trước Mác đã có tư tưởng hợp lý sâu sắc là : bằng thực tiễn, chủ thể tự

nhân đôi”
mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên
ngoài. Song do quan điểm duy tâm nên ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở
hoạt động tư tưởng. Đối với Hêghen, thục tiễn là một “
logic
” .
Quan niệm của Mac và Angel về thực tiễn và vai trò của nó đối với
nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người
Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan
điểm của các nhà triết học trức mình về thực tiễn, Mác và ngghen đã đem lại
một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò củ nó đối với nhận


thức cũng như sự tồn tại và phát triển của của xã hội loài người . Các ông không
những tham gia trực tiếp vào hoạt động thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản
mà còn dựa trên thực tiễn xã hội để khái quát, phát triển lý luận cách mạng.
Nhờ đó, làm cho lý luận gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, trở thành vũ khí nhận
thức thế giới và cải tạo thế giới. Với việc đưa ra phạm trù thực tiễn và lý luận
của mình, Mác và ngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng
trong lý luận nói chung và lý luận nhận thức nói riêng. Lênin nhận xét rằng :

Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của
lý luận nhận thức
” .

Vậy Thực tiễn là gì ?
Thực tiễn là những hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính

lòch sử xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội .
Thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà chỉ
là những hoạt động vật chất (để phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý
luận), hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động
cảm tính
của con người.
Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện, công cụ
vật chất , sức mạmh vật chất của mình tác động vào tự nhiên, xã hội để cải tạo,
biến đổi chúng phù hợp vớ nhu cầu của mình. Bằng hoạt động thực tiễn, con
người làm biến đổi bản thân sự vật trong hiện thực, từ đó làm cơ sở để biến đổi
hình ảnh của sự vật trong nhân thức. Do đó, hoạt động thực tiễn la hoạt động có
tính năng động, sánh tạo, là hoạt động đối tượng hóa, là quá trình chuyển hóa
cái tinh thần thành cái vật chất. Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa
chủ thể và khách thể, trong đó chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể; trên
cơ sở đó nhận thức khách thể. Vì vậy, thực tiễn trở thành khâu trung gian nối
liền ý thức con người với thế giới bên ngoài .
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là hoạt động
đặc trưng cho con người. Nếu động vật chỉ hoạt động theo bản năng, nhằm thích
nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ vào thực tiễn
– như là một hoạt động có ý thức, có mục đích của mình mà cải tạo thế giới để
thoả mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách có chủ động, tích cực với thế
giới và để làm chủ thế giới. Con người không thể thỏa mãn với những gì mà tự


nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động
sản xuất để làm ra của cài vật chất để nuôi sống mình . Để lao động và lao
động có hiệu quả, con người phải biết chế tạo ra công cụ và sử dụng công cụ
lao động. Bằng hoạt động thực tiễn , trức hết là lao động sản xuất, con người
tạo nên những vật phẩm vốn không có sẵn trong thiên nhiên. Không có hoạt
động đó, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Vì

vậy, có thể nói rằng. thực tiễn là
phương thức tồn tại cơ bản
của con người và
xã hội, là
phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người với
thế giới
.
Tuy trình độ và các hình thức của hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các
giai đoạn lòch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn luôn luôn là hoạt động
cơ bản và phổ biến
nhất của xã hội loài người. Thực tiễn là một hoạt động có
tính chất cộng đồng, không phải chỉ là hoạt động của một vài cá nhân riêng lẻ,
mà là hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Do đó, về nội
dung cũng như phương thức thực hiện, thực tiễn có tính chất
lòch sử - xã hội
.
Thực tế cũng có quá trình vận động và phát triển của nó, trìng độ phát triển của
thực tiễn nói nên trình độ chinh phục giới tự nhiên, trình độ làm chủ xã hội của
con người .
Thực tiễn có cấu trúc phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt
động. Bất kỳ quá trình hoạt động thực tiễn nào cũng gồm các yếu tố như nhu
cầu, lợi ích, mục đích phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó liên hệ với nhau,
quy đònh lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn không thể diễn ra
được.
Hoạt động thực tiễn đa dạng, song có thể chia làm ba hình thức cơ bản :
- Hình thức cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất.
Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì
nó quyết đònh sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người và quyết
đònh các dạng hoạt động thực tiễn khác; nó tạo thành cơ sở của tất cả
các hình thức khác của hoạt động đời sống con người, giúp con người

thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật.


- Hình thức cơ bản thứ hai của thực tiễn là hoạt động chính trò – Xã hội
nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã
hội.
- Với sự ra đời và phát triển của khoa học, hình thức cơ bản thứ ba của
thực tiễn cũng xuất hiện – đó là hoạt động thực nghiệm khoa học .
Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng trở nên quan trọng do sự phát
triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại.
Trên cơ sở những hình thức cơ bản, những hình thức khác, không cơ bản
của thực tiễn được hình thành, chúng là các
hình thức thực tiễn phát sinh
ngay
trong các hình thức cơ bản. Đó là mặt thực tiễn của các hoạt động trong một số
lónh vực như đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo, Sở dó gọi là không cơ
bản không phải là những hình thức này kém quan trọng mà chỉ vì chúng được
hình thành và phát triển từ các hình thức cơ bản.

Lý luận là gì ?
Theo Mác, lý luận là“
sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là
sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích lũy lại trong quá trình lòch
sử

Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng, nhận thức là quá trình con người
phản ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lòch sứ –
xã hội. Quá trình nhận thức diễn ra không đơn giản, thụ động, máy móc, nhận
thức không có sẵn, bất di bất dòch, mà là quá trình phản ánh hiện thực khách
quan vào bộ óc con người một cách năng động sáng tạo , biện chứng. Đó là quá

trình đi từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ
không đầy đủ và không chính xác tớ đầy đủ hơn và chính xác hơn .
Quá trình nhận thức của con người và loài người nói chung trải qua hai
giai đoạn là
nhận thức cảm tính

nhận thức lý tính
. Nhận thức cảm tính là giai
đoạn đầu của quá trình nhận thức, là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động
hiện thực khách quan vào các giác quan của con người. Nhận thức cảm tính bao
gồm các h2nh thức cảm giác, tri giác và biểu tượng. Nhận thức lý tính hay tư
duy trừu tượng là giai đoạn cao của nhận thức, nó là sự phản ánh trừu tượng,
khái quát và gián tiếp hiện thực. Nhận thức lý tính được hình thành dựa vào


những tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại vàthể hiện dưới các hình thức là
khái niệm, phán đoán và suy luận. Nếu nhận thức cảm tính mới dừng lại ở cái
bề ngoài, chưa phân biệt được cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng . .
. thì nhận thức lý tính có thể giúp ta đi sâu vào những mối liên hệ bản chất, phổ
biến, tất nhiên, bên trong của sự vật, do đó nhận thức sự vật sâu sắc hơn và đầy
đủ hơn .
Sự phát triển của nhận thức loài người tất yếu dẫn đến sự xuất hiện của
lý luận . Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời
thể hiện nhận thức của con người đã ở một trình độ cao.
Xét về bản chất, lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ
thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, nhữnh tính quy luật của thế
giới khách quan. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn, mà
trong mối quan hệ với thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện
chứng với nhau, tác động qua lại với nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết
đònh. Lênin nhận xét rằng “Thực tiễn cao hơn nhận thức vì nó có ưu điểmkhông

những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp” .
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề cơ bản của
chủ nghóa Mác-Lê nin nói chung và của lý luận nhận thức mácxít nói riêng
.
Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực
tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới, trí tuệ con
người được phát triển, được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học. Lý
luận, khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con
người. Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức, lý luận sau khi
ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, phải biến
thành hành động thực tiễn của quần chúng. Giữa lý luận và thực tiễn có quan hệ
biện chứng với nhau, tác động qua lại nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát
triển.
Trong mối quan hệvới lý luận, thực tiễn đóng vai trò quyết đònh vì thực
tiễn hoạt động vật chất, còn lý luận là sản phẩm của hoạt động tinh thần. Với
vai trò quyết đònh, thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức (lý


luận). Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức chân lý (của lý luận). Thông qua
hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ
những thuộc tính, những quy luật và tính quy luật để con người nhận thức chúng.
Trong hoạt động thực tiễn, con người tiến hành biến đổi thế giới và đồng thời
cũng biến đổi bản thân mình, phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của
mình. Nhận thức không phải chỉ để nhận thức mà có mục đích cuối cùng là giúp
con người biến đổi thế giới. Tri thức thu nhận được trong quá trình nhận thức
phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn chỉ đạo và được tổ chức thực hiện
trong thực tiễn. Như vậy, thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được kiểm
nghiệm, được vật chất hoá, hiện thực hoá, mới có sức mạnh cải tạo hiện thực.
Thực tiễn có vai trò quyết đònh đối với lý luận. Song, lý luận cũng có sự

tác động trở lại đối với thực tiễn. Lý luận có vai trò trong việc xác đònh mục
tiêu, phương hướng cho hoạt động thực tiễn. Lý luận là kim chỉ nam cho hoạt
động thực tiễn, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn có
hiệu quả hơn.
Nói đến sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, chúng ta thấy rất rõ sự
cần thiết phải quán triệt quan điểm thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải gắn liền
với thực tiễn, “học đi đôi với hành”. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến các sai lầm
của bệnh chủ quan duy ý chí, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ
nghóa xét lại. Tuy nhiên việc coi trọng thực tiễn không có nghóa là coi nhẹ lý
luận, hạ thấp vai trò của lý luận. Nếu hạ thấp vai trò của lý luận sẽ rơi vào chủ
nghóa thực dụng, chủ nghóa kinh nghiệm.








VẬN DỤNG NGUYÊN TẮÙC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN TRONG CÔNG TÁC GIẢNG
DẠY .



Trong dạy học đề hoàn thành các chức năng về giáo dục, giáo dưỡng và
phát triển nhằm giúp học sinh trở thành những người phát triển toàn diện , mỗi
giáo viên cần quán triệt quan điểm kết hợp giữa lý luận với thực tiễn trong quá
trình dạy học . Đó là dạy học kết hợp với đời sống và xã hội, với sản xuất; học
phải đi đối với hành.

Nguyên tắc dạy học kết hợp với đời sống và xã hội,là dựa trên những
luận điểm quan trọng có tính chất quy luật của học thuyết Mác – Lênin về sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, về những điều kiện và nhu cầu xã hội quy
đònh quá trình dạy học,về tính Đảng, tính giai cấp và nội dung học tập trong nhà
trường, về sự cần thiết phải kết hợp dạy và học với các nhiệm vụ của công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghóa.
Việc thực hiện nguyên tắc dạy học này có một ý nghóa thế giới quan vô
cùng to lớn, vì nó tạo điều kiện nắm vững tư tưởng duy vật biện chứng về mối
quan hệ giữa khoa học với thực tiễn. Trong bất cứ môn học nào cũng phải giúp
cho học sinh thấy được nhu cầu của sản xuất và đời sống xã hội quyết đònh sự
phát triển những học thuyết khoa học và ngược lại các học thuyết khoa học này
cũng mở ra những triển vọng mới để hoàn thiện thực tiễn sản xuất xã hội .
Việc thực hiện nguyên tắc dạy học này còn đòi hỏi mỗi giáo viên phải
lựa chọn những ví dụ có sức thuyết phục cao, minh họa việc áp dụng một khái
niệm, một quy luật khoa học vào trong các lãnh vực công nghiệp, nông nghiệp
hay trong đời sống xã hội. Đặc biệt quan trọng là phải đưa ra các ví dụ mang
tính chất điển hình, có nghóa là phải chọn trong vô số các ví dụ, ví dụ nào là phổ
biến nhất, có ý nghóa khái quát nhất, tổng hợp nhất , có triển vọng nhất . Việc
theo dõi các thông tin mang nội dung chính trò xã hội hay các thông tin khoa
học sẽ giúp giáo viên làm tốt các yêu cầu trên. Giáo viên cũng có thể yêu cầu
học sinh lấy ví dụ của bản thân hay bổ sung cho minh họa của thày bằng những
quan sát của các em.
Trong thực tế dạy học cho chúng ta thấy sự biến đổi của thưc tiễn dạy học
thể hiện ở hai mặt : Lượng tri thức của nhân loại và khả năng nhận thức của học
sinh . Lượng tri thức của nhân loại tăng lên nhanh chóng trong những năm cuối
của thập kỷ 20 cả về số lượng và chất lượng . Nếu như ngày trước, người lao


động chỉ cần biết cộng trừ, nhân, chia và thậm trí có thể không biết làm tính thì
vẫn có thể làm việc trong một vài hoạt động sản xuất, thì tương lai sẽ không

còn chỗ đứng đó cho họ trong các hoạt động sản xuất.
Để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, nhiều môn học cũng ra đời. Chẳng
hạn cùng với sự ra đời của máy tính, khoa học về thông tin ra đời, kéo theo sự
ra đời của rất nhiều môn học : phân tích hệ thống, cơ sở dữ liệu, thuật toán,
ngôn ngữ lập trình, tin học dùng trong văn phòng Có thể nói do nhu cầu của
nền kinh tế tri thức rất cần một lớp người lao động mới có tri thức mà khối
lượng học tập của học sinh so với các thế hệ trước tăng nên rất lớn .
Phương pháp dạy học hiện nay là phương pháp dạy học tích cực, lấy học
sinh làm trung tâm, các phương pháp dạy học hiện đại như : dạy học nêu vấn đề
, chương trình hóa, thuật toán hóa phải được cải tiến và sử dụng nhiều hơn.
Thay vì giải thích kiến thức theo lối “giảng”, nên hướng dẫn học sinh cách thức
tiếp cận và nắm tri thức, cách lấy các tri thức mới từ sách giáo khoa và các tài
liệu tham khảo (trên cơ sở tri thức đã có); Thay vì các bài kiểm tra, các bài thi
mang tính học thuộc nên thay bằng các bài kiểm tra mang tính suy luận, các
tham luận, tiểu luận, khóa luận có tính tổng hợp cao, đồng bộ tạo ra cho các em
một phong cách học tập mới.
Bản thân mỗi giáo viên phải là một sự thể hiện tốt nhất về “mối quan hệ
giữa lý luận và thực tiễn ” - lời nói phải đi đôi với việc làm; Không thể có sự
ngụy biện “Hãy nghe những điều tôi nói, đừng xem những việc tôi làm” trong
các trường học (điều này có thể thấy trong giai đoạn cực kỳ khó khăn của
chúng ta về kinh tế, khi mà giáo viên cũng phải làm một số công việc “ngoài
thiên chức” có những tác động không tốt tới uy tín nghề nghiệp để có thể tiếp
tục sống và dạy học). Trong dạy học, cũng như trong cuộc sống hàng ngày, mỗi
giáo viên phải là những tấm gương sáng về đạo đức, tác phong, có như vậy thì
lời nói mới “thống nhất” với việc làm được .








TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
Giáo trình triết học Mác-Lênin
, Nhà xuất bản chính trò quốc gia, Hà Nội -
2002
2.
Triết học 1,2,3
Nhà xuất bản chính trò quốc gia
,
Hà Nội - 2001
3. Tài liệu tham khảo dùng cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác – Lênin































Mở đầu
Trang 1

Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
2


Thực tiễn 3


Lý luận 5

Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn 6


Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghóa Mác-

Lênin trong công tác giảng dạy 8

Tài liệu tham khảo 10


















×