Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

VẤN đề THỜI cơ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG tám năm 1945 ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.96 KB, 31 trang )

“Vấn đề thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam”
Trong cuộc sống dù thành công hay thất bại thì ngoài những kiến thức hay
hiểu biết tự trang bị, thời cơ là một phần quan trọng. Chọn đúng thời cơ không chỉ
là một khoa học mà còn là một nghệ thuật. Có thể khẳng định, thành công lớn nhất
trong khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám là nhờ nghệ thuật chỉ đạo tài tình của
Đảng ta và của chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chuẩn bị và khi thời cơ đến thì
biết chớp lấy thời cơ để ra quyết định tổng khởi nghĩa đúng lúc. Bài học về chọn
thời cơ trong cách mạng tháng Tám còn có giá trị đến tận hôm nay trong giai đoạn
hội nhập với thế giới.
II. NỘI DUNG
1. Lý luận chung về vấn đề thời cơ.
1.1. Khái niệm thời cơ.
Thời cơ là một hoàn cảnh thuận lợi đến trong một thời gian ngắn, đảm bảo
một việc nào đó có thể tiến hành có kết quả. Do đó, nó là một khái niệm rất quan
trọng, gắn liền với sự thành bại của mỗi cá nhân, của các đảng phái chính trị và của
mỗi cộng đồng với những quy mô khác nhau. Thời cơ là một thành tố khách quan,
hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân nào, của một tổ
chức chính trị nào. Nó xuất hiện một cách bất ngờ và tồn tại trong một khoảng thời
gian nhất định. Nói như vậy không có nghĩa là thời cơ là một cái gì đó không thể
biết trước được, không thể đoán định được. Tuy nhiên, điều lý thú là ở chỗ, nó có
mà không có và ngược lại. Vì thế, không phải ai cũng có thể dự báo được thời cơ,
theo dõi, nắm bắt nó và cuối cùng là lợi dụng nó để đạt tới cái đích của mình.
1.2. Vai trò của thời cơ.Như đã nêu trong khái niệm, thời cơ là một thành tố
khách quan, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân
nào, của một tổ chức chính trị nào. Nó xuất hiện một cách bất ngờ và tồn tại trong
một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết dự báo, theo dõi nắm
bắt và tận dụng thời cơ một cách hợp lý thì thời cơ sẽ là bệ phóng, là một yếu tố


quan trọng mang lại thành công cho cá nhân, tổ chức cũng như cho xã hội.Thời cơ
có vai trò rất quan trọng trong rất nhiều vấn đề của rất nhiều lĩnh vực. Theo chủ


nghĩa Mác – Lê nin thì có 3 nhân tố chủ yếu để hợp thành tình thế cách mạng đó
là:Thứ nhất: Giai cấp và tầng lớp thống trị bên trên đã lâm vào một cuộc khủng
hoảng trầm trọng, không thể kiểm soát nổi tình hình, trở nên bất lực, không còn có
chế độ thống trị như cũ nữa.
Thứ hai: Các giai cấp và tầng lớp bị trị bên dưới cũng rơi vào tình trạng cơ
cực, bị bần cùng không thể chịu đựng được nữa, không thể sống nổi nữa. Mâu
thuẩn đã gay gắt đến cực độ và quần chúng đã sẵn sàng đi tới một hành động giải
phóng.Thứ ba: tầng lớp, bộ phận trung gian, những người trí thức yêu nước, có tư
tưởng dân chủ, tiến bộ, những người có tinh thần dân tộc, kể cả một bộ phận trong
giai cấp hữu sản nhưng gần với quần chúng, nhận thức được xu thế lịch sử, ngả về
phía cách mạng, tương quan lực lượng có lợi cho phía cách mạng.Hội đủ những
điều kiện đó, về cơ bản, tình thế cách mạng đã chín muồi” .
Như vậy, một cuộc khởi nghĩa diễn ra thành công không phải dựa vào một âm
mưu, một đảng phái mà phải dựa vào cao trào cách mạng của nhân dân, dựa vào
một chuyển hướng lịch sử quyết định.Xét trên bình diện đó, chúng ta có thể nhận
thấy ở Việt Nam vào đầu những năm 1940, đặc biệt sau khi cuộc khởi nghĩa Nam
Kỳ nổ ra thất bại thì vấn đề thời cơ được bàn luận đến rất nhiều (trước đó, sự thất
bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng vào đầu tháng 21930 là một ví dụ điển hình về việc thời cơ chưa xuất hiện. Khi đó, những người
đứng đầu Việt Nam Quốc dân Đảng đã coi khởi nghĩa như một giải pháp tình thế,
như một trò chơi - “không thành công cũng thành nhân”. Thế hệ cách mạng Việt
Nam tiếp theo liền rút ra bài học: Không được đùa với khởi nghĩa). Vào tháng 51941, trong Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VIII tại
Pắc Bó, Cao Bằng dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và quyền Tổng Bí
thư Trường Chinh. Nghị quyết đã dự báo một cách chính xác về cuộc chiến tranh


thế giới thứ hai và hệ lụy của nó: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đẻ ra
Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra
nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó cách mạng nhiều nước thành công ” . Như
vậy, thời cơ sẽ đến với nhiều nước trên thế giới khi chiến tranh thế giới thứ hai kết
thúc, phần thắng nghiêng về Liên Xô và phe dân chủ. Đó là một khả năng làm xuất

hiện thời cơ có lợi cho cách mạng nhiều nước, trong đó có cách mạng nước ta. Hội
nghị còn nhận định rằng cuộc cách mạng Đông Dương là một bộ phận của phong
trào cách mạng thế giới và lúc đó là một bộ phận của phong trào dân chủ chống
phát-xít. Vận mệnh của dân tộc Đông Dương gắn liền với vận mệnh của Liên xô,
đồng thời cũng gắn liền với cách mạng Trung Quốc. Bài học thời cơ trong Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn là bài học đi cùng năm tháng, nếu chúng ta muốn
thành công và không muốn tụt hậu. Hồ Chí Minh đã xác định tầm quan trọng có
tính khái quát của khái niệm thời cơ qua hai câu thơ của bài thơ “Học đánh cờ”
trong tác phẩm “Nhật ký trong tù”:Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,Gặp thời, một tốt
cũng thành công.Ngày nay, khi mà đất nước chúng ta đang hội nhập toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực thì vấn đề thời cơ càng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nếu
như chúng ta biết nhận biết, theo dõi và tận dụng tốt thì thời cơ sẽ mạng lại rất
nhiều lợi ích về kinh tế, chính trị - ngoại giao, văn hóa – xã hội, Ngược lại nếu như
chúng ta không vận dụng hợp lý hay bỏ sót thì sẽ gây ra những thiệt hại đáng tiếc,
thậm chí sẽ trở thành vật cản trên con đường phát triển của đất nước. Thời cơ
không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với những vấn đề của dân tôc, của đất nước,
của các tổ chức mà nó còn rất có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân, đặc biệt là trong bối
cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay. Một cá nhân nếu biết nắm bắt thời cơ kết hợp
với những kiến thức vốn có thì sẽ sớm vươn đến thành công và ngược lại nếu chỉ
có những kiến thức thôi mà không biết nắm bắt thời cơ thì rất khó để thành công.
2. Thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
2.1. Xác định thời cơ trong cách mạng Tháng Tám năm 1945.


Trong tất cả các cuộc cách mạng, đặc biệt là cách mạng giải phóng dân tộc,
vấn đề xác định thời cơ, chuẩn bị lực lượng cách mạng để chớp thời cơ khởi nghĩa
là những yếu tố hết sức quan trọng, quyết định thành công. Cuộc Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là
minh chứng sinh động về sự nhạy bén trong nhận định và chỉ đạo chớp thời cơ
khởi nghĩa của Đảng ta.Nghệ thuật khởi nghĩa của Đảng trong Cách mạng Tháng

Tám trước hết là nghệ thuật dự kiến thời cơ, chuẩn bị sẵn sàng mọi điều kiện cho
Tổng khởi nghĩa. Với nhận định thời cơ Cách mạng gắn với chiến tranh đế quốc,
Đảng theo dõi sát từng bước phát triển của chiến tranh thế giới thứ hai để dự kiến
thời cơ khởi nghĩa. Trong các nghị quyết hội nghị Trung ương và nhiều tài liệu,
Đảng đã dự kiến thời cơ Cách mạng nước ta ngày càng cụ thể và chính xác. Tháng
11/1939. Đảng nhận định: chiến tranh đế quốc sẽ nung nấu Cách mạng Đông
Dương bùng nổ và tiền đồ Cách mạng giải phóng Đông Dương nhất định sẽ quang
minh, rực rỡ. Ngay từ tháng 11/1940, Đảng dự kiến: một cao trào Cách mạng nhất
định sẽ nổi dậy. Tháng 5/1941, Đảng đã dự kiến những điều kiện cụ thể của Tổng
khởi nghĩa. Đảng đã phân biệt rõ các loại thời cơ: thời cơ bộ phận và thời cơ toàn
cục; thời cơ khởi nghĩa địa phương, thời cơ khởi nghĩa từng phần và thời cơ khởi
nghĩa toàn quốc, thời cơ chưa chín muồi và thời cơ chín muồi. Tuy nhiên, tầm vóc
tư duy chiến lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ: Sớm nhìn
thấy quy luật vận động cách mạng, dự báo thời cơ cách mạng, nhanh chóng triển
khai thực hiện để thúc đẩy tiến trình cách mạng. Tức là không thụ động chờ thời
cơ, mà tích cực, chủ động tiến hành đấu tranh cách mạng để tạo ra thời cơ cách
mạng, mà nổi bật là chủ trương xây dựng các tổ chức Việt Minh, các đoàn thể yêu
nước trên phạm vi cả nước. Từ tháng 3/1945, Đảng đã dự kiến những điều kiện cụ
thể của Tổng khởi nghĩa, trong đó quân Nhật thất bại đầu hàng là thời cơ quan
trọng nhất cho Tổng khởi nghĩa bùng nổ. Để nắm được thời cơ, Đảng tích cực
chuẩn bị lực lượng to lớn- lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xây dựng và


phát triển Mặt trận Việt Minh, thống nhất trong toàn quốc Về chuẩn bị điều kiện
khởi nghĩa, ngoài dự kiến thời cơ, tổ chức lực lượng toàn dân, Đảng xác định rõ
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề khởi nghĩa. Đảng đã xác định đỉnh cao
của nghệ thuật khởi nghĩa là chớp đúng thời cơ thuận lợi nhất, huy động toàn dân
khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh chóng. Thắng lợi của Cách mạng Tháng tám đã
chứng tỏ Đảng đã chớp rất đúng thời cơ nghìn năm có một. Đó là thời điểm giữa
tháng 8/1945, khi bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ

ngay kho Nhật đầu hàng, cao trào cách mạng của nhân dân đã lan rộng ra toàn
quốc và hàng triệu nhân dân đã lên trận tuyến đấu tranh, các thế lực đế quốc với
những ý đồ xâm lược nước ta chưa kịp vào Đông Dương, Đảng đã chuẩn bị sẵn
sàng các điều kiện chủ quan về chủ trương và lực lượng. Đúng thời điểm đó, Đảng
hạ lệnh Tổng khởi nghĩa, nhanh chóng giành chính quyền trong cả nước, lập ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945
chứng tỏ, Ðảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn vượt trước thời
gian, xác định đúng thời cơ, cho nên đã chuẩn bị tốt lực lượng, sẵn sàng chủ động,
chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Ðây là
sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách mạng,
khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi cách mạng.
2.2. Kết quả việc chớp thời cơ của Đảng ta trong Cách mạng Tháng Tám năm
1945.
Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1945 là cuộc Tổng khởi nghĩa vũ
trang của toàn dân, diễn ra đồng thời trong cả nước từ đêm 13/8 và kết thúc vào
cuối tháng 8/1945. Có thể khẳng định, thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi
nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám: Ðảng ta đã chọn đúng thời cơ "nổ ra đúng
lúc". Việc chớp đúng thời cơ của Đảng ta trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945
đã góp phần mang lại thắng lợi vẻ vang cho dân tộc, đánh dấu một trong những
bước ngoặt vĩ đại vô cùng quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam


trong thể kỉ XX. Thắng lợi ấy đã đập tan ách thống trị của phát xít Nhật trong 5
năm, ách thống trị của thực dân Pháp 90 năm, lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn
năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân dựa
trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo đầu tiên ở Đông
Nam Á. Trong suốt quá trình nhận định, theo dõi, nắm bắt và vận dụng thời cơ
Đảng ta đã có những quyết định đúng đắn không những góp phần mang lại kết quả
thắng lợi to lớn mà còn giúp cho chúng ta tránh được những tổn thất về lực lượng,
đánh mất những điều kiện thuận lợi cũng như là mất đi cơ hội khởi nghĩa.Cách

mạng Tháng Tám là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mac-Lênin ở các nước thuộc
địa nửa phong kiến, góp phần làm phong phú kho tàng lý luận Mac-Lenin, khẳng
định sức sống vô địch của chủ nghĩa Mac-Lenin.Ðây là sự vận dụng sáng tạo quy
luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách mạng, khôn khéo trong nghệ thuật
chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi cách mạng.
3. Vận dụng.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã hơn 70 năm trôi qua nhưng những bài
học của thắng lợi này đặc biệt là bài học về nhận định thời cơ và chớp thời cơ cách
mạng của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám 1945, vẫn còn nguyên giá trị thời sự
không chỉ với hiện nay mà trong cả tương lai. Vì vậy, việc nhận định, theo dõi,
nắm bắt và vận dụng thời cơ là hết sức cần thiết nhất là trong điều kiện nước ta
đang thực hiện cách mạng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước, khoa học
công nghệ phát triển mạnh mẽ, thời đại nền kinh tế tri thức với hội nhập kinh tế
quốc tế, xu hướng toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay. Biết
cách nhận định, theo dõi, nắm bắt và vận dụng thời cơ một cách hợp lý trên tất cả
các lĩnh vực sẽ tạo ra một sức mạnh to lớn để đưa đất nước phát triển và ngày càng
tiến xa trên bản đồ vị thế quốc tế.Đầu tiên, chúng ta có thể thấy vai trò của thời cơ
đối phát triển kinh tế hiên nay là thực sự rất cần thiết và trong nhiều trường hợp nó
còn mang tính chất quyết định nếu ta biết chớp lấy thời cơ đó. Việt Nam là một


nước có nền kinh tế đang phát triển, nhưng thực chất vẫn còn tụt hậu so với nhiều
nước phát triển trên thế giới. Vì thế vấn đề về kinh tế ngày nay đang không chỉ là
mối quan tâm lớn của Nhà nước, Chính phủ mà còn thu hút sự quan tâm của các
chuyên gia, các nhà doanh nghiệp và những người quan tâm đến lĩnh vực này.
Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng theo dõi và nắm bắt
những chuyển biến của nền kinh tế thế giới và khu vực từ đó có những chính sách
và chiến lược phù hợp nhằm chớp lấy thời cơ quý giá để phát triển đất nước.Lướt
qua về tình hình hiện nay của nền kinh tế, các chuyên gia, nhà khoa học đều nhận
định rằng tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp theo xu hướng xấu đi. Dự

báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2011 thấp hơn năm 2010 và năm 2012 cũng
chỉ phục hồi nhẹ.Về tình hình trong nước, tăng trưởng kinh tế trong 6 tháng đầu
năm 2011 đạt 5,6%. Lạm phát có xu hướng giảm. Bên cạnh đó, nông nghiệp được
mùa được giá, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống xã
hội. Một số ngành kinh tế khác cũng có những dấu hiệu tăng trưởng khả quan như
đóng tàu, chế biến lâm sản, khai thác khoáng sản Điều này tạo ra nhiều cơ hội phát
triển cho nền kinh tế nước ta: Đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là xuất khẩu các sản phẩm
nông nghiệp; đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư, cho phép chúng ta tranh thủ được
những nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế; sự tiến bộ của khoa học
công nghệ cho ra đời ngày càng nhiều những máy móc, dây chuyền sản xuất, thiết
bị hiện đại giúp cho chúng ta có thể vận dụng máy móc vào sản xuất, nâng cao chất
lượng sản xuất, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước; việc
nền kinh tế thế giới đang phải đối phó với những chao đảo thời kỳ hậu khủng
hoảng trong khi nền kinh tế trong nước lại hồi phục khá nhanh và bước đầu tăng
trưởng trở lại sẽ giúp cho chúng ta có cơ hội để đẩy mạnh phát triển kinh tế dần thu
hẹp khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, các chuyên gia,
nhà khoa học cũng chỉ ra những điểm yếu của nền kinh tế, bất cập trong chỉ đạo,
điều hành. Đó là lạm phát có xu hướng giảm những vẫn ở mức cao. Việc cắt giảm


đầu tư công chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra. Lãi suất ở mức cao, gây khó khăn
cho sản xuất kinh doanh. Điều này bắt buộc chúng ta phải thực hiện tập trung kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Tiếp tục thực hiện
chính sách tiền tệ chặt chẽ và có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực nông nghiệp – nông thôn. Bên cạnh đó, cần
kiểm soát hoạt động của ngân hàng thương mại, đề phòng nguy cơ nợ xấu tăng
cao, đe dọa tính an toàn của hệ thống tài chính – ngân hàng. Bên cạnh đó phải tập
trung nghiên cứu, theo dõi, cập nhật thường xuyên tình hình thế giới và trong nước
để ứng phó kịp thời, hiệu quả. Việc tính tới các bước đi cơ bản lâu dài cũng quan
trọng không kém, đó là tái cấu trúc nền kinh tế. Trước hết là phải bắt tay làm ngay

việc tái cấu trúc đầu tư công, gắn với kiểm soát nợ công, tái cấu trúc doanh nghiệp
nhà nước mạnh mẽ hơn, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, tái cấu trúc thể chế gồm
quy hoạch, việc phân cấp- phân quyền cũng như tái cấu trúc thị trường Nói một
cách cụ thể hơn trong môi trường doanh nghiệp, thời cơ thường có thể tái diễn
trong tương lai, vì vậy nên các doanh nghiệp nếu có thể dự đoán, chuẩn bị trước thì
sẽ đạt được kết quả cao. Và để làm được diều này, họ cần phải biết mở rộng ngoại
giao cũng như đầu tư về khoa học công nghệ để có thể làm ra được sản phẩm phù
hợp với nhu cầu thị trường khi thời cơ đến.Ví dụ: Ra đời vào giữa năm 1996
-Trung Nguyên là 1 nhãn hiệu cà phê non trẻ của Việt Nam, nhưng đã nhanh chóng
tạo dựng được uy tín và trở thành thương hiệu cà phê quen thuộc nhất đối với
người tiêu dùng cả trong và ngoài nước.Sự xuất hiện của Trung Nguyên đã mang
lại một không khí thưởng thức cà phê mới tại Việt Nam, và ở nhiều nơi trên thế
giới giờ đây nói đến cà phê Việt Nam là người ta đều biết tới thương hiệu Trung
Nguyên. Với những ý nghĩ: Tại sao nông dân trồng cà phê vẫn nghèo trong khi
trên thế giới có Quốc Gia không trồng được cây cà phê nào vẫn giàu vì cà phê? Tại
sao cà phê mình chỉ để xuất hạt thô mà không chế biến để xuất khẩu? Việt Nam có
thế mạnh trong sản xuất cà phê vậy tại sao không biến thế mạnh đó thành lợi ích?


Và điều quan trọng đó là vào thời điểm mà Trung Nguyên ra đời thì ở Việt Nam
chua có một công ty nào kinh doanh trong lĩnh vực này thực sự tạo được một văn
hóa riêng – văn hóa cà phê, . Chính những điều này đã thôi thúc chàng sinh viên y
khoa cùng những người bạn làm nên những ý tưởng độc đáo, dù không phải mọi
thứ đều suôn sẻ nhưng với sự sáng tạo, đầy lòng nhiệt huyết trong thời cơ đó, ông
Đặng Lê Nguyên Vũ đã làm cho làng cà phê Việt Nam vươn ra tầm thế giới.Cũng
như kinh tế thì vấn đề thời cơ cũng đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực
chính trị - ngoại giao.Ngày nay, Ngoại giao Việt Nam luôn tích cực, chủ động hội
nhập quốc tế vì sự phát triển bền vững của đất nước. Nhìn lại năm 2010, mặc dù
những chuyển biến nhanh chóng của tình hình thế giới và khu vực đã đặt ra không
ít thách thức nhưng chúng ta vẫn vững vàng vượt qua mọi khó khăn thử thách, tận

dụng thành công những nhân tố thuận lợi để vươn lên trong quá trình hội nhập và
phát triển. Một thế giới “đa trung tâm” đang định hình ngày càng rõ nét; quá trình
sắp xếp lại các cơ chế quốc tế và cấu trúc khu vực đang diễn ra sôi động. Hợp tác
đa phương được coi là phương thức hữu hiệu để xử lý các vấn đề chung của thế
giới như các thách thức kinh tế, biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống ., trong
đó vai trò và tiếng nói của các nền kinh tế mới nổi ngày càng được nâng cao. Về
chính trị - an ninh, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, mặc dù
xung đột cục bộ, các điểm nóng ở khu vực vẫn diễn biến phức tạp, thậm chí có lúc
rất gay gắt. Châu Á – Thái Bình Dương là khu vực hội tụ nhiều cơ hội lớn với môi
trường chính trị - an ninh cơ bản ổn định, kinh tế phục hồi mạnh mẽ, các nước lớn
và các trung tâm chính trị - kinh tế của thế giới dành sự quan tâm ngày càng cao
đến khu vực này. Trong bối cảnh đó, Việt Nam xác định nhiệm vụ hàng đầu của
đối ngoại năm 2010 là tranh thủ tối đa mọi cơ hội, hóa giải những thách thức đặt ra
nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; tận dụng các nguồn lực bên ngoài để
phục vụ thiết thực cho đất nước bước sang giai đoạn phát triển nhanh và bền vững,
đồng thời không ngừng nâng cao vị thế quốc tế, phục vụ các mục tiêu an ninh và


phát triển. Việt Nam đã ghi đậm dấu ấn của mình bằng những đóng góp, sáng kiến
có giá trị trong nhiều vấn đề quan trọng của Hiệp hội, đáng chú ý là Việt Nam đã
góp phần tạo chuyển biến về chất trong tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN,
các sáng kiến về kết nối ASEAN, thúc đẩy đồng thuận về sự cần thiết phải duy trì
hòa bình, ổn định ở khu vực, thúc đẩy các bên liên quan đi vào triển khai Tuyên bố
ASEAN – Trung Quốc về ứng xử ở Biển Đông (DOC) và hướng tới bộ Quy tắc
ứng xử trên biển Đông (COC), củng cố vững chắc vai trò trung tâm của ASEAN
trong các cấu trúc khu vực đang định hình, thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa ASEAN
với các đối tác quan trọng trong tất cả các lĩnh vực. Trong xử lý những vấn đề
phức tạp ở khu vực, Việt Nam đã thể hiện vai trò là một chủ tịch có trách nhiệm,
tích cực vì lợi ích chung trong nỗ lực nâng cao vị thế quốc tế của Hiệp hội.Không
chỉ dồn sức cho năm Chủ tịch ASEAN, ngoại giao đa phương còn được triển khai

rộng khắp trên nhiều lĩnh vực từ cấp độ tiểu khu vực, liên khu vực đến cấp độ toàn
cầu. Việt Nam đã tích cực và chủ động tham gia các hoạt động trong khuôn khổ
Liên Hợp Quốc, tại các hội nghị, diễn đàn đa phương về hợp tác sông Mê-công,
Diễn đàn Á – Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình
Dương (APEC), G-20 . Những đóng góp của chúng ta trong việc giải quyết các vấn
đề khu vực và toàn cầu như an ninh hạt nhân, biến đổi khí hậu, thực hiện các mục
tiêu phát triển thiên niên kỷ . phản ánh nỗ lực và vai trò của Việt Nam với tư cách
là một “thành viên chủ động, tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Trong năm 2010, ngoại giao song phương đã có những bước tiến vững chắc trong
quá trình đưa các mối quan hệ đối tác đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững; đã tận
dụng tốt các cơ hội mà ngoại giao đa phương mang lại, nhất là trong vai trò Chủ
tịch ASEAN, để làm sâu sắc thêm khuôn khổ quan hệ với các đối tác, nhất là với
các nước láng giềng, các nước ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và các nước
lớn.Với Trung Quốc, mối quan hệ "đối tác hợp tác chiến lược toàn diện" tiếp tục
phát triển với nhiều hoạt động đa dạng, thiết thực trong "Năm hữu nghị Việt -


Trung", kỷ niệm 60 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Quan hệ hữu nghị
và hợp tác với Mi-an-ma đã bước sang một giai đoạn mới về chất với việc hai nước
thống nhất thúc đẩy hợp tác trên 12 lĩnh vực ưu tiên. Quan hệ với các nước In-đônê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Xinh-ga-po, Thái Lan, Phi-lip-pin và Bru-nây không ngừng
được củng cố và phát triển.Việt Nam đang từng bước thiết lập và hoàn thiện các
khuôn khổ hợp tác mang tính chất chiến lược với các nước lớn trên thế giới, đồng
thời đưa quan hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới đi
vào chiều sâu. Quan hệ "đối tác chiến lược" với Liên bang Nga đi vào giai đoạn
thực chất với việc hai nước nhất trí triển khai danh mục các vấn đề hợp tác ưu tiên,
đặc biệt là dự án điện hạt nhân, dầu khí, hợp tác kỹ thuật quân sự . Quan hệ với
Liên minh châu Âu (EU) có bước đột phá với việc hai bên ký tắt Hiệp định đối tác
và hợp tác toàn diện (PCA) sau 9 vòng đàm phán và tuyên bố sẽ khởi động đàm
phán Hiệp định thương mại tự do (FTA), mở ra cơ hội mới cho hai bên phát triển
quan hệ toàn diện và sâu rộng trong thời gian tới. Việc chúng ta duy trì tốt các

kênh đối thoại về dân chủ, nhân quyền với EU, cùng với những bước đi phù hợp
trong quan hệ với Va-ti-căng và hiệu ứng lan tỏa từ sự tham gia của Việt Nam tại
Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, Cơ quan liên chính phủ về nhân quyền của
ASEAN . đã góp phần đề cao thiện chí của Việt Nam, giảm thiểu những tác động
bất lợi trong quá trình triển khai quan hệ với EU cũng như với những đối tác khác.
Quan hệ “đối tác chiến lược” với Nhật Bản và Hàn Quốc tiếp tục được cụ thể hóa
với trọng tâm là hợp tác kinh tế và phát triển. Việt Nam đã chọn Nhật Bản là đối
tác hợp tác xây dựng nhà máy điện hạt nhân số 2 và thăm dò, khai thác, chế biến
đất hiếm tại Việt Nam, đồng thời Nhật Bản cam kết sẽ tiếp tục dành cho Việt Nam
trên 1,7 tỷ USD vốn viện trợ phát triển cho năm tài khóa tới. Các mối quan hệ đối
tác chiến lược với Ấn Độ, đối tác toàn diện với Ốt-xtrây-lia và Niu Di Lân tiếp tục
được triển khai với nhiều dự án thiết thực, cụ thể.Trong triển khai chính sách đa
dạng hóa, đa phương hóa, Việt Nam luôn coi trọng và quan tâm thúc đẩy quan hệ


với các nước bạn bè truyền thống, tăng cường sự gắn bó, đoàn kết, tin cậy và hợp
tác. Quan hệ với Cu-ba tiếp tục được thúc đẩy và ngày càng gắn bó. Quan hệ với
các đối tác tiềm năng ở Trung Đông, vùng Vịnh và khu vực Mỹ La-tinh ngày càng
đi vào thực chất hơn với các dự án hợp tác cụ thể về kinh tế, đầu tư, lao động
.Ngoại giao toàn diện được triển khai mạnh mẽ, ngoại giao kinh tế được triển khai
năng động và hiệu quả, góp phần tranh thủ các nguồn lực cho đất nước trong bối
cảnh kinh tế thế giới tiếp tục gặp khó khăn. Trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều
khó khăn, chúng ta vẫn đạt được các con số về kinh tế đối ngoại đầy ấn tượng như
tốc độ tăng trưởng đạt 6,7%, kim ngạch xuất nhập khẩu trong năm 2010 là 171,38
tỷ USD, cam kết viện trợ ODA cho Việt Nam năm 2011 đạt mức 7,88 tỷ
USD.Ngoại giao văn hóa năm 2010 đã tích cực quảng bá hình ảnh đất nước Việt
Nam trong các sự kiện lớn của đất nước. Đáng chú ý, trong dịp Đại lễ 1000 năm
Thăng Long – Hà Nội, Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Trong quá trình
đi lên cùng đất nước, vai trò của ngoại giao Việt Nam ngày càng được nâng cao,
không chỉ về chính trị đối ngoại, mà còn mở rộng ra các lĩnh vực kinh tế đối ngoại,

văn hóa đối ngoại . Công tác ngoại giao toàn diện đã được triển khai mạnh mẽ với
sự hài hòa, gắn bó chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, Quốc hội, ngoại giao Nhà nước
và ngoại giao nhân dân, cũng như sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa Bộ Ngoại
giao với các ngành, các cấp, các địa phương, đặc biệt là giữa ngoại giao, quốc
phòng và an ninh. Phát huy thế mạnh của mạng lưới hơn 90 cơ quan đại diện tại
khắp 5 châu lục, ngoại giao kinh tế đã có những đóng góp tích cực, nhất là trong
công tác tham mưu cho Chính phủ về những chủ trương, quyết sách hội nhập quan
trọng như quyết định tham gia đàm phán Hiệp ước đối tác kinh tế xuyên Thái Bình
Dương (TPP) với tư cách thành viên chính thức cũng như chủ trương tham gia các
Hiệp định thương mại tự do (FTA) khác. Không những thế, ngoại giao kinh tế còn
làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo về kinh tế thế giới, tìm hiểu kinh nghiệm các
nước về quá trình phục hồi và tái cấu trúc kinh tế để phục vụ công tác hoạch định


chính sách và điều hành kinh tế vĩ mô của chính phủ. Kinh tế đối ngoại được lồng
ghép trong chính trị đối ngoại, nội dung kinh tế được tăng cường trong các chuyến
thăm và tiếp xúc cấp cao. Việc chúng ta chủ động đăng cai và tổ chức thành công
nhiều diễn đàn kinh tế quan trọng như Diễn đàn Kinh tế Đông Á, các Hội nghị Bộ
trưởng Mê công – Mỹ và Mê công – Nhật Bản cũng như tích cực đóng góp với
nhiều sáng kiến có chất lượng tại các diễn đàn khác như G-20, Diễn đàn Kinh tế
thế giới Đa-vốt . đã góp phần thu hút sự chú ý của thế giới đến Việt Nam, một nền
kinh tế mở cửa, năng động và có nhiều tiềm năng hợp tác. Ngoại giao cũng góp
phần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến kinh tế đối ngoại nhằm mở rộng thị trường
xuất khẩu, thúc đẩy hợp tác đầu tư, du lịch, phối hợp xử lý các tranh chấp quốc tế,
vận động, đấu tranh với các nước, các đối tác nhằm loại bỏ những biện pháp bảo
hộ mậu dịch bất công nhằm vào các sản phẩm của Việt Nam .
Phát huy những thắng lợi của “Năm Ngoại giao Văn hóa 2009”, công tác ngoại
giao văn hóa đã có nhiều khởi sắc, hỗ trợ hiệu quả cho việc triển khai các hoạt
động của năm ASEAN cũng như các sự kiện chính trị lớn của năm 2010.


Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được triển khai mạnh mẽ, tạo
không khí phấn khởi, tin tưởng trong cộng đồng và tăng thêm tình cảm cũng như
sự gắn bó của bà con kiều bào với đất nước. Từ hội nhập kinh tế, việc chúng ta mở
rộng sang hội nhập trên các lĩnh vực khác là một tiến trình tất yếu. Để phát triển,
nước ta không thể đứng ngoài quá trình toàn cầu hóa mà phải chủ động và tích cực


hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực
khác theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác, bảo đảm
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường. Có được những thành
quả trên là do chúng ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của ngoại giao toàn
diện với sự tham gia tích cực, chủ động nắm bắt thong tin và thời cơ, hiệu quả và
thiết thực của các kênh đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, quốc phòng - an
ninh, các Bộ, ngành, địa phương cũng như các đoàn thể quần chúng dưới sự lãnh
đạo và chỉ đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng ta. Những thành tựu đó đã góp phần
tạo dựng và duy trì môi trường hòa bình, ổn định thuận lợi cho phát triển, đồng
thời đóng góp trực tiếp vào quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước.
Hội nhập đã tranh thủ nguồn lực bên ngoài rất quan trọng cho công cuộc xây đựng
đất nước. Đồng thời, việc chúng ta tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề
chung của cộng đồng quốc tế, đóng góp vào quá trình xây dựng luật lệ và các
chuẩn mực quốc tế đã và đang góp phần bảo đảm hòa bình và an ninh cho chính
mình. Năm 2010 sôi động đi qua với bao sóng gió, thách thức, đối ngoại Việt Nam
đã giành được những thành tựu rất có ý nghĩa và đáng tự hào, cả trên bình diện
song phương và đa phương. Những thành tựu đó là cơ sở quan trọng để chúng ta
vững tin tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi đường lối đối
ngoại của Đại hội XI và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm tới.Văn hóa
Việt Nam dưới quan niệm là văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa sắc thái văn
hóa tộc người được thể hiện ở ba đặc trưng chính.Đặc trưng thứ nhất: Việt Nam có
một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên tất cả các khía cạnh, người Việt cùng

cộng đồng 53 dân tộc anh em có những phong tục tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ
hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng,
sự khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ
trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hiện đại của văn học,


nghệ thuật.Đặc trưng thứ hai: Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố
dân tộc, dân cư đã tạo ra những vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng tại Việt
Nam. Từ cái nôi của văn hóa Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng của người Việt
chủ đạo với nền văn hóa làng xã và văn minh lúa nước, đến những sắc thái văn hóa
các dân tộc miền núi. Từ những vùng đất mới ở Nam Bộ với sự kết hợp văn hóa
các tộc người Hoa, người Khmer đến sự đa dạng trong văn hóa và tộc người ở Tây
Nguyên.Đặc trưng thứ ba: Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt
cùng với những hội tụ về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của người
Việt cổ từ thời Hồng Bàng đến những ảnh hưởng từ bên ngoài trong trong hàng
nghìn năm nay. Với những ảnh hưởng từ xa xưa của Trung Quốc và Đông Nam Á
đến những ảnh hưởng của Pháp từ thế kỷ 19, phương Tây trong thế kỷ 20 và toàn
cầu hóa từ thế kỷ 21. Việt Nam đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ
lịch sử, có những khía cạnh mất đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác
bổ sung vào nền văn hóa Việt Nam hiện đại.Nhà nước ta coi giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với cuộc cách mạng về khoa học
công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới hiện nay, khoa học và
công nghệ đã trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", trong đó tri thức và thông tin
trở thành yếu tố quan trọng và nguồn tài nguyên đặc biệt, có giá trị cao. Do đó, vai
trò của các yếu tố truyền thống trong sản xuất và cạnh tranh đã có sự thay đổi lớn:
yếu tố trí tuệ có vai trò quyết định nhất trong mối tương quan với các yếu tố tài
nguyên thiên nhiên, vốn và sức lao động. Đồng thời cũng chính từ nó đã hình
thành nên nguồn lực nội sinh cho sự phát triển.Để nước ta có thể rút ngắn được
khoảng cách đối với các nước tiên tiến, tiến thẳng lên trình độ hiện đại, để thúc đẩy

mạnh mẽ sự phát triển nền kinh tế, hội nhập được vào một thế giới đầy biến động
có nhiều thời cơ, nhưng cũng lắm thử thách, chúng ta cần phải có một đội ngũ cán
bộ và nhân viên kỹ thuật được đào tạo tốt. Đặc biệt là phải hết sức chú trọng bồi


dưỡng các nhân tài làm nhiệm vụ chủ trì những hướng, ngành và lĩnh vực khoa học
và công nghệ quan trọng, then chốt của đất nước. Làm cho đất nước ta trở thành
đất nước của những người hiền tài, ở đó , mọi năng lực trọng dụng và tạo điều kiện
để phát triển mọi sáng tạo được khuyến khích và phát huy, giúp phần thực hiện
được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xa hội công bằng, dân chủ văn minh", sánh
vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước khẩn trương của thời đại.Thành
quả trong nhiều năm qua của nền giáo dục của chúng ta là đã tạo nên một đội ngũ
cán bộ khoa học - công nghệ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức cơ bản
vững chắc và gắn bó chặt chẽ với thực tiễn. Đội ngũ này là lực lượng nòng cốt
đáng tin cậy, đã và đang tích cực góp phần tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước cơ bản theo hướng hiện đại.Cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại đang tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng
nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội; các quốc gia lớn, họ tham gia
ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh
tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Tình hình đó đã tạo nên thời cơ thuận lợi để
các nước có điều kiện phát triển; sự hợp tác giữa các nước ngày càng tăng nhưng
cạnh tranh cũng trở nên gay gắt Việc nhận thức rõ và xác định đúng thời đại có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng vì nó giúp ta biết được những nấc thang phát triển của xã
hội, nắm được yếu tố có tính ổn định trong một thế giới đầy biến động, tìm thấy xu
hướng tất yếu trong vô vàn những hiện tượng phức tạp mang tính ngẫu nhiên của
đời sống xã hội.Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc cần phải biết mình đang sống ở thời đại
lịch sử nào với những đặc điểm, tính chất, nội dung, xu thế phát triển của nó ra sao.
Biết được như vậy cũng là hiểu rõ ta đang sống ở đâu và sẽ đi tới đâu, giúp ta nhìn
xa trông rộng, nắm bắt khuynh hướng phát triển và quy luật xoay vần của nhân loại

để vừa có thể lựa chọn được hướng đi phù hợp với sự phát triển của lịch sử; vừa dự
báo, và đoán định tới mức lường trước được những thách đố phức tạp, tránh được


những vấp váp sai lệch trên đường đi, từ đó sẽ không bị chao đảo hoặc bị cuốn trôi
trước phong ba bão táp của đời sống chính trị quốc tế. Có như vậy, đất nước sẽ
phát triển mạnh mẽ, thoát được khó khăn nghèo đói; bình yên cho đất nước, hạnh
phúc cho nhân dân.Quá trình toàn cầu hóa, tạo điều kiện cho sự hội nhập và vươn
lên của tất cả các nước. Trong đó có Việt Nam, với việc tham gia vào các tổ chức
thế giới như WTO, APEC, AFTA, . Chúng ta đã dần khẳng định được chổ đứng
của mình trên trường quốc tế, sánh ngang tầm với các nước khác trong khu vực và
thế giới. Mở rộng quan hệ giao lưu, buôn bán và hội nhập với các nước trên toàn
thế giới, thu hút các nhà đầu tư từ nước ngoài. Hơn nữa, nền văn hoá lâu đời, đậm
đà bản sắc dân tộc của nước ta cũng được bạn bè thế giới biết đến. Đồng thời,
chúng ta tiếp cận và thừa hưởng những cái mới của các nền văn hoá khác nhau trên
thế giới để làm phong phú thêm nền văn hoá nước nhà.Tóm lại, chúng ta cần nắm
vững xu hướng vận động và phát triển nền giáo dục dưới tác động của cách mạng
khoa học và công nghệ thế giới cũng như xu thế hội nhập khu vực và quốc tế hiện
nay để tận dụng thời cơ, vượt qua thử thác, phấn đấu xây dựng một nền giáo dục
Việt Nam tiên tiến, có bản sắc dân tộc đậm nét và tính định hướng xã hội chủ nghĩa
rõ ràng, xứng đáng ngang tầm và đáp ứng đầy đủ yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
I. KẾT BÀI

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là một dấu son chói lọi và hào hùng


trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, mặc dù 66 năm đã qua đi nhưng những
bài học kinh nghiệm từ cuộc Cách mạng vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt là bài học
về chớp thời cơ của Đảng ta - đỉnh cao của nghệ thuật khởi nghĩa. Hiện nay, nước

ta đã có những buớc tiến thần kỳ trong thời kỳ đổi mới, đạt được những thành tựu
nhất định trong tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị - ngoại giao, văn hóa – xã hội,
Và mục tiêu trong tương lai của chúng ta đó là: Phát triển bền vững; xây dựng dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; hòa mình với năm châu;
ngày càng rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới; vươn lên
khẳng định thế và lực của mình trên trường quốc tế. Để làm được điều này cũng
như trong Cách mạng Tháng Tám, công cuộc đổi mới hiện nay đòi hỏi Đảng và
Nhà nước ta phải phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đó là một trong những bài học quyết
định thành công.
“lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy
trường sơn cũng kiên quyết dành cho được độc lập”
(Hồ Chí Minh)
*

*

*
Chiều sâu của cách mạng tháng Tám tiềm ẩn trong truyền thống quật
cường bất khuất mấy nghìn năm của dân tộc . Từ khí phách huyền thoại của em bé
làng Gióng, mới lên 3 tuổi đã đánh đuổi giặc nước mà vẫn cho là muộn , giận chín
tầng trời còn thấp khi bay tận mây xanh. Chiều sâu ấy tiềm ẩn trong câu thơ “Nam
quốc sơn hà Nam đế cư”của Lý Thường Kiệt, Từ “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc
Tuấn đến “Bình Ngô đại cáo” Của Nguyễn Trãi. Có thể nói, cách mạng tháng Tám
là một trong những trang sử vẻ vang chói lọi nhất, là một trong những bước ngoặt


vĩ đại nhất của dân tộc . Thắng lợi ấy là sự kết tinh của nhiều nhân tố khác nhau.
Trong đó, vấn đề thời cơ có ý nghĩa tiên quyết. Vấn đề thời cơ trong cách mạng
tháng Tám là một sự xâu chuỗi logic từ việc tạo thời cơ, xác định thời cơ và dũng

cảm chớp thời cơ .
*

*

*
I-lý luận về thời cơ
Theo thuật ngữ khái niệm lịch sử phổ thông, thời cơ là “thời gian, điều
kiện hoàn cảnh chủ quan, khách quan thuận lợi để tiến hành thắng lợi một việc
gì…”.
Trong chiến tranh, thời cơ là một vấn đề có ý nghĩa then chốt. Hiểu được
thời cơ, nắm được vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của thời cơ và biết vận dụng
linh hoạt nó sẽ có tác dụng xoay chuyển và đảo lộn toàn bộ cục diện của cuộc
chiến. Nói như Nguyễn Trãi: “được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra
lớn. Mất thời không thế thì mạnh hoá ra yếu, yên lại thành nguy. Sự thay đổi ấy chỉ
ở trong khoảng trở bàn tay”.Trong một bức thư viết cho Đô Đốc Thái Phúc ,
Nguyễn Trãi cũng nói: “Ngày xưa, Bách Lý Hề ở Ngu thì Ngu mất nước , mà sang
Tần thì Tần làm nên nghiệp bá. Lý Tả Xa ở Triệu thì Triệu bị diệt mà theo Hán thì
Hán dấy nghiệp vương. Nào phải ở nơi này thì ngu , nơi kia thì trí đâu, chỉ tại gặp
thời hay không gặp thời mà nên thế”. Ông lại viết: “ Tôi từng xem kinh dịch 384
hào , mà cốt yếu ở chữ thời. Cho nên , người quân tử theo thời thông biến, nghĩa
chữ thời to tát sao”. Trong bài phú núi Chí Linh nổi tiếng, Nguyễn Trãi một lần
nữa nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của chữ thời. Ông viết:


“Đã do trời mà biến thời
Lại có chí để công thành”
Ở một chỗ khác của bài phú ấy Nguyễn trãi viết:
“Bởi biết người, biết mình , hay yếu, hay mạnh
Đợi thời chờ dịp

Giấu sức, giấu tài
Ăn thường nếm mật
Ngủ thường nằm gai”
Theo Nguyễn Trãi, người chí giả phải là người biết thời, nắm được thời “Người
quân tử theo thời thông biến”.
Xưa nghe chuyện Lã Vọng ngồi câu cá chờ thời , rồi sau lập nên nghiệp
lớn. Nay được thấy Nguyễn Trãi và nghĩa quân lam Sơn phải chịu “ nếm mật nằm
gai” khi quân thù đang mạnh để đợi thờ chờ dịp thuận lợi thì giáng những đòn chí
tử vào đầu giặc:
"Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”
Rõ ràng , chữ thời ấy đâu phải lý luận suông , mà được chứng minh bởi
thực tế.
Chân lý luôn là điểm dừng của mọi sự nhận thức và hành động đúng đắn.
Ví như việc nhìn nhận về chữ thời, không phải chỉ Nguyễn Trãi, chỉ người Việt
Nam nói riêng hay phương Đông nói chung mới nhìn thấy tầm quan trọng của nó,
mà cả phương Tây, đai biểu là Mác cũng khẳng định vai trò của chữ thời. Trong
một bức thư gửi Cughenman, Mác viết: “tất nhiên là sẽ rất dễ dàng làm ra lịch sử
thế giới , nhưng cuộc đấu tranh chỉ tiến hành trong điều kiện có những thời cơ chắc
chắn. Mặt khác , nếu những sự ngẫu nhiên không có tác dụng gì cả thì sự sáng tạo
ra lịch sử sẽ mang một tính chất rất thuần tuý. Đương nhiên , những sự ngẫu nhiên
này là một bộ phận trong quá trình phát triển chung và được những sự ngẫu nhiên


khác bù trừ lại . Nhưng phát triển nhanh hay chậm là phụ thuộc rất nhiều vào
những sự ngẫu nhiên như vậy. Kể cả sự ngẫu nhiên như tính cách những người
lãnh đạo phong trào”
Tiếp theo Mác , Lê-nin cũng cho rằng : không thể có cách mạng nếu không
có cuộc khủng hoảng trong toàn quốc lay chuyển cả đám người bóc lột lẫn đám
người bị bóc lột . Cuộc khủng hoảng ấy sẽ tạo ra tình thế cách mạng mà theo

người, tình thế cách mạng có mấy đặc điểm sau:
Thứ nhất: giai cấp thóng trị không thể thống trị như cũ được nữa, nó đang lâm
vào cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng.
Thứ hai: giai cấp bị trị không muốn sống như cũ nữa và đang nổi dậy đấu
tranh mạnh mẽ.
Thứ ba: quần chúng được tổ chức, tập hợp, lãnh đạo
Đến thời đại Hồ Chí Minh, một lần nữa chữ thời lại nổi bật lên như sợi chỉ
xanh chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử nhân loại .Trong nghị quyết TW VIII, Hồ Chí Minh
đã có những luận điểm đúng đắn về thời cơ cách mạng. Người và trung ương đã
chỉ ra những điều kiện thuận lợi cho cách mạng tháng Tám thắng lợi:
Điều kiện trong nước:
Một là: Mặt trận dân tộc thống nhất phát triển trong toàn quốc , công cuộc
chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám thành công đã hoàn tất.
Hai là: nhân dân sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa theo sự lãnh đạo của Đảng ta
Ba là: kẻ thù cách mạng suy yếu , tầng lớp trung gian ngả theo cách mạng
Đảng cộng sản sẵn sàng lãnh đạo nhân dân tổng khởi nghĩa.
Điều kiện bên ngoài:
Một là: Liên- xô và phe Đồng minh thắng phát xít.
Hai là: cách mạng Nhật , Pháp nổ ra thắng lợi .
Ba là: quân Đồng minh kéo vào Đông Dương giải giáp quân Nhật


Có thể nói , cuộc cách mạng xã hội nổ ra là một tất yếu lịch sử. Nhưng
muốn thắng lợi phải có những điêù kiện thuận lợi , hay nói đúng hơn, phải có thời
cơ cách mạng . Do đó. Hiểu được chữ thời và tầm quan trọng đặc biệt của nó sẽ có
tác dụng thúc đẩy cách mạng nhanh chóng thành công.
II-Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng Tám
Trong cuộc chiến vấn đề thời cơ có ý nghĩa quyết định sự thành bại và
tất nhiên cách mạng tháng Tám cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
Nói đến thời cơ trong cách mạng tháng Tám là nói đến một vấn đề có

tính liên hoàn từ việc tạo thế để chớp thời , đến việc nắm bắt ,xác định được thời
cơ và cuối cùng là phải dũng cảm quyết tâm chớp thời cơ.
1.Tạo thời cơ cho cáh mạng tháng Tám-nhân tố quan trọng thúc đẩy cách mạng
tháng Tám thành công.
Tạo thời là tạo ra thế mạnh cho bản thân mình để chớp lấy thời
Không phải ngẫu nhiên chúng ta đề cập đến vấn đề tạo thời cho cách mạng
tháng Tám. Mà ở đây, xuất phát từ mặt lý luận “được thời có thế thì mất biến thành
còn, nhỏ hoá ra lớn”(Nguyễn Trãi) . Rõ ràng với cách lập luận ấy, Nguyễn Trãi đẫ
chỉ ra hai vấn đề của chữ thời:
Một là: chữ thời xuất hiện từ phía địch
Hai là:chữ thời xuất hiện từ phía ta
Thời ở đây là những điều kiện thuận lợi do địch suy yếu, khủng hoảng. Còn thế ở
đây là thế mạnh của bản thân ta đã tạo ra để chớp lấy thời.Nói như Bác , thời cơ
chín muồi là khi: kẻ thù suy yếu, tầng lớp trung gian ngả theo cách mạng ;Mặt trận
dân tộc thống nhất phát triển trong toàn quốc, công cuộc chuẩn bị cho cách mạng
thành công đã hoàn tất; Đảng cộng sản đã sẵn sàng lãnh đạo nhân dân tổng khởi
nghĩa và nhân dân cũng đã sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa theo sự lãnh đạo của
Đảng .


Rõ ràng, có thời mà không có thế thì thời ấy cũng qua đi nhanh chóng. Vì
thế, tạo thời cho cách mạng tháng Tám có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Để tạo thời, chúng ta đã chuẩn bị chu đáo đầy đủ những yếu tố cần thiết cho
cách mạng thắng lợi. Cụ thể:
a. Chuẩn bị về đường lối cách mạng
Như chúng ta đã biết, đường lối cách mạng và lí luận cách mạng quyết
định sự thành bại của cách mạng. Nói như Lê-nin “ không có lí luận cách mệnh thì
không có cách mệnh vận động…”, lý luận luôn đi trước, mở đường cho phong
trào cách mạng . Chính vì thế, lý luận cách mạng có đúng thì phong trào cách
mạng mới giành thắng lợi.

Căn cứ vào thực tiễn tình hình thế giới và trong nước , Đảng đã quyết định
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng cho phù hợp và sát với tình hình thực
tế. Sự chuyển hướng ấy được bắt đầu ở Hội nhgị Trung ương lần thứ VI (11/1939),
khẳng định qua Hội nghị VII(11/1940) và hoàn chỉnh ở Hội nghị VIII(5/1941) với
nội dung chủ yếu: xác định mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn dân tộc, kẻ thù chính là
phát xít Pháp- Nhật và phản động tay sai. Vì thế, đề cao nhiệm vụ giải phóng dân
tộc , hạ thấp nhiệm vụ phản phong , nhiệm vụ cách mạng ruộng đất nhằm phân hoá
kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào bọn đế quốc phát xít và tay sai của chúng dể đánh đổ
chúng, lôi kéo, tập hợp những hàng ngũ trung gian (tư sản, địa chủ yêu nước…) về
với hàng ngũ cách mạng, nhằm đoàn kết toàn dân đánh đế quốc giành chính quyền,
giành độc lập thực hiện từng bước khẩu hiệu “người cày có ruộng”, tiến tới làm
cách mạng xã hội chủ nghiã , kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ dân tộc , dân chủ với chủ
nghĩa xã hội , vận dụng sáng tạo phương pháp bạo lực cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin vào hoàn cảnh thực tiễn của nước ta. . Theo người, bạo lực cách mạng
là bạo lực của quần chúng nhân dân cách mạng gồm lực lượng chính trị, lực lượng
vũ trang , kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang , tiến hành khởi nghĩa


từng phần giành chính quyền bộ phận , tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong cả nước.
Nhờ có chủ trương đúng đắn, khoa học, đáp ứng được yêu cầu của lịch sử
và phù hợp với nguyện vọng , quyền lợi thiết thân của mọi tầng lớp nhân dân
,Đảng đã tập hợp được đông đảo quần chúng , tạo thành sức mạnh vô song để đánh
thắng bọn đế quốc tay sai giành độc lập khi thời cơ đến.
b. Chuẩn bị lực lượng cách mạng.
Cách mạng muốn thành công, ngoài vạch đường lối đúng còn phải tổ chức
lực lượng thực hiện . Lực lượng cách mạng bao gồm lực lượng chính trị của quần
chúng và lực lượng vũ trang nhân dân.
Về lực lượng chính trị : Đảng thành lập Mặt trận Việt Minh (19/5/1941) với
cương lĩnh 10 điểm , Việt Minh nhanh chóng trở thành nơi tập hợp khối đoàn kết

toàn dân đứng lên cứu nước , cứu nhà. Việt Minh có thành phần rất rộng rãi bao
gồm tất cả các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội , không phân biệt giàu nghèo,
sang hèn già trẻ, gái trai…Mặt trận việt minh bao gồm nhiều tổ chức quần chúng ,
được thành lập theo lứa tuổi, nghề gnhiệp . Các tổ chức này đều được gọi là “ Hội
cứu quốc” nhằm nhắc nhở mọi người nhớ nhiệm vụ chính của cách mạng lúc bấy
giờ là cứu nước, giải phóng dân tộc, như “Hội công nhân cứu quốc”…Mặt trận
Việt Minh là tổ chức quần chúng rất vững chắc , vì dựa trên cơ sở liên minh công
nông , dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thông qua tổng bộ Việt Minh , Đảng đã phổ biến chủ trương , chính sách
của mình đến quần chúng.Việt Minh là cầu nối giữa Đảng với quần chúng. Việt
Minh tượng trưng cho khối đoàn kết toàn dân , là lực lượng chính trị hùng hậu của
cách mạng.
Về lực lượng vũ trang: trên cơ sở lực lượng chính trị phát triển Đảng xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng. sau khi khởi nghĩa Bắc Sơn(1940)thất bại,
Đảng duy trì đội du kích Bắc Sơn . Một số đội tự vệ du kích khác được thành lập ở


vùng Đình Cả, tràng Xá( Thái Nguyên). Về sau, đội du kích Bắc Sơn phối hợp với
một số đội du kích ở Thái nguyên thành đội Cứu quốc quân.
Ngày 22/12/1944 Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập đội “ Việt nam tuyên
tuyền giải phóng quân”.
Tháng 4/1945 Đảng triệu tập Hội nghị quân sự Bắc kỳ . Hội nghị quyết định
thành lập uỷ ban quân sự Bắc kỳ để chỉ huy các lực lượng vũ trang ở miền Bắc
Đông Dương , hoạt động cho thống nhất, đồng thời hỗ trợ cho các lực lượng vũ
trang ở miền Nam Đông Dương. Hội nghị cũng quyết định hợp nhất hai đội “ Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân” và “Cứu quốc quân” thành đội “Việt Nam giải
phóng quân”. Như từ nhiều dòng suối nhỏ hợp thành con sông lớn lực lượng vũ
trang của ta từ các đội du kích, tự vệ riêng lẻ tập hợp thành đội “ Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân”-tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam.
Dựa vào hai lực lượngchính trị và vũ trang , Đảng phát động hai hình

thức đấu tranh : đấu tranh chính trị. Đấu tranh vũ trang và sự kết hợp hai hình thức
ấy để tiến hành tổng khởi nghĩa .
c. Xây dựng căn cứ địa cách mạng
Căn cứ cách mạng có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng , vì là chỗ
đứng chân của cách mạng , là nơi cung cấp người và của cho cách mạng , là nơi
xuất phát để đánh địch và rút lui để bảo vệ mình .Căn cứ địa là nhân tố thường
xuyên quyết định thắng lợi của cách mạng . Nhận thức rõ như vậy nên khi đặt chân
về nước , Hồ Chí Minh đã xây dựng căn cứ Pắc- bó( Cao Bằng) . Từ Pắc -bó , căn
cứ dần dần được mở rộng ra các tỉnh Cao-Bắc- Lạng. Tiếp đó, người chỉ thị “Nam
tiến”để mở rộng dần căn cứ xuống các tỉnh miền xuôi.
Tháng 6/1945 , người chỉ thị thành lập khu giải phóng Việt Bắc gồm sáu
tỉnhCao-Bắc-Lạng-Thái –Hà –Tuyên. Trong khu giải phóng , 10 chính sách của
Việt Minh được thực hiện . Nó trở thành chỗ dựa vững mạnh của cả nước . Đồng


×