Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Cuộc vận động cách mạng tháng Tám (1939 - 1945)_6 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.61 KB, 13 trang )

Cuộc vận động cách mạng tháng
Tám (1939 - 1945)



4.1.5 Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kì

Để đẩy mạnh hơn nữa công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Trung
ương Đảng đã triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kì. Hội nghị
họp từ ngày 15 đến 20 – 4 – 1945 tại huyện Hưng Hóa (Bắc Giang), do
Trường Chinh, Tổng bí thư của Đảng chủ trì. Tham dự Hội nghị có đại
diện các chiến khu ở Việt Bắc, xứ ủy Bắc Kì.

Hội nghị nhận định: “Tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả
các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này”[ 7;391]

Chúng ta đang ở vào giai đoạn chiến lược “phát động du kích” để chuẩn
bị phát động Tổng khởi nghĩa.

Hội nghị quyết định phát triển lực lượng vũ trang và nữa vũ trang,
thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân, xây
dựng 7 chiến khu chống Nhật trong cả nước: chiến khu Lê lợi, Quang
Trung, Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo, Trưng Trắc, Phan Đình Phùng
(trung bộ) và Nguyễn Tri Phương (nam bộ).

Hội nghị cử ra Ủy ban quân sự cách mạng gồm Võ Nguyên Giáp, Văn
Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn. Ủy ban này chỉ
huy các chiến khu miền Bắc Đông Dương, “đồng thời có nhiệm vụ giúp
đỡ cho toàn quốc về mặt quân sự”[ 7;394].

Ngày 16 – 4 – 1945, tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về viêc tổ chức ban dân


tộc giải phóng các cấp, lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam và địa
phương.
Đến tháng 5 – 1945, Hồ Chí Minh quyết định về chiến khu Hoàng hoa
Thám và chọn Tân Trào (Sơn Dương – Tuyên Quang) làm đại bản doanh
chỉ đạo phong trào cả nước.

Ngày 15 – 5 – 1945, lễ thành lập Việt Nam giải phóng quân được tổ
chức tại Định Hóa – Thái Nguyên.

Ngày 4 – 6 – 1945, tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị tuyên bố thành
lập khu giải phóng, bao gồm các tỉnh Cao – Bắc – Lạng – Hà – Tuyên –
Thái và một số vùng thuộc tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên.
Khu giải phóng đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời. khu
giải phóng thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh. Đó là hình ảnh
thu nhỏ của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Ngoài các chiến khu do Trung ương và Xứ ủy chủ trương thành lập,
nhiều tỉnh, huyện cũng xây dựng những khu căn cứ riêng của địa
phương, như Yên Thế (Bắc Giang), Lập Trạch (Vĩnh Yên), Bãi Sậy (Hưng
Yên), Trầm Lộng (Hà Đông), Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), Tam Kì, Quốc Sơn,
Tiên Phước (Quảng Nam), Đá Trắng, Sông Quao (Ninh Thuận)…


4.2.Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945


Thời cơ Tổng khởi nghĩa đã đến

Sau khi phát xít Đức đầu hàng (5 – 1945), quân đồng minh tiến hành
phản công trên mặt trận Châu Á – Thái Bình Dương. Ngày 6 – 8 – 1945,

Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima. Ngày 8 – 8 – 1945,
Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản. Ngày 9 – 5, Mỹ ném quả bom nguyên
tử thứ hai xuống thành phố Nagasaki, làm chết hàng chục vạn dân
thường. cũng trong ngày này, với một lực lượng hùng hậu, Hồng quân
Liên Xô mở cuộc tổng công kích vào đạo quân Quan Đông của Nhật ở
Đông Bắc Trung Quốc.
Ngày 14 – 8 – 1945, nhận được tin Nhật đầu hàng (13/ 08 Nhật Hoàng
tuyên bố trên các làn sóng phát thanh của Nhật).

Sự đầu hàng của Chính Phủ Nhật đã đẩy quân Nhật đang chiếm đóng ở
Đông Dương vào tình thế tuyệt vọng như rắn mất đầu, hoang mang,
dao động đến cực độ. Chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã. Tin Nhật đầu
hàng đã nhanh chống lan truyền trong Nhân dân. Khắp nơi trên đất
nước ta , Việt Minh tổ chức những cuộc mít tinh, biểu tình thị uy vũ
trang, có tới hàng nghìn ngừơi tham gia. Hàng triệu quần chúng sẵn
sàng đứng lên giành chính quyền. Các tầng lớp trung gian đã ngã hẳn về
phía cách mạng. Nhiều lính trong quân đội phát xit và lính bảo an, cảnh
sát các quan chức trong chính quyền bù nhìn ủng hộ Việt Minh giành
độc lập. thời cơ để nhân dân giành chính quyền đã tới.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi to lớn, cách mạng đứng trước
những khó khăn không nhỏ. Mặc dù chính phủ Nhật đã đầu hàng đồng
minh nhưng mãi đến 21 – 8, quân Nhật ở Đông Dương mới được lệnh
ngừng bắn. vì thế quân Nhật ở Hà Nội vẫn đi tuần, canh gác nghiêm
ngặt. ngày 16 – 8, Nhật tuyên bố trao trả Nam Kì cho chính phủ bù nhìn
và ngày 18 – 8, bày trò “trao trả độc lập cho Việt Nam”. Các tổ chức
phản động cũng tìm cách cản phá phong trào cách mạng của nhân dân
ta.

Trong khi đó, các thế lực đế quốc như Mỹ, Anh, Pháp, Trung Hoa quốc

dân Đảng cũng có mưu đồ riêng đối với Đông Dương. Chính phủ Trùng
Khánh ráo tiết chuẩn bị “Hoa quân nhập Việt” và ngày 9 – 8 – 1945, ra
thông báo về việc sẽ đưa quân vào giải phóng quân đội Nhật ở Bắc
Đông Dương.

Từ tháng 5 – 1945, thực dân Pháp đẩy mạnh việc thành lập đạo quân
viễn chinh Pháp ở Đông Dương, tăng cường hoạt động ngaọi giao để
Anh , Mỹ thừa nhận quyền trở lại Đông Dương của Pháp.

Các đảng phái phản động lưu vong của Trung Quốc, như Việt Nam,
Quốc dân đảng, Việt Nam cách mạng đồng minh hội cũng chuẩn bị núp
bóng quân đội Tưởng về nước cướp chính quyền.

Trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước,
ngày 12 – 8 – 1945, Ủy ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng ra mệnh
lệnh khởi nghĩa. Ngày 13 – 8, Trung ương đảng và Tổng bộ Việt Minh đã
thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban gồm 5 người: Trường
Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn.
Tổng bí thư Trường Chinh trực tiếp phụ trách Ủy ban.

23 giờ cùng ngày, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ban bố quân lệnh số
một, chính thức phát lệnh khởi nghĩa toàn quốc.

“Giờ Tổng khởi nghĩa đã đến!

Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập
của nước nhà!

Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả
cảm, vô cùng thận trọng.


Cuộc thắng lợi hoàn tất nhất định sẽ về ta”.[ 7;421-422]

Ngày 14 và 15 – 8 – 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng Sản Đông
Dương họp tại Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang). Tham dự hội ngị có
các đảng bộ địa phương, đại biểu của khu giải phóng và các chiến khu.

Hội nghị nhận định:

2.“Nhân dân Đông Dương cực khổ, căm tức, cách mạng hóa; đến tất cả
một phần quan lại cũng ngã về phe cách mạng.

4. Nhật đổ, hàng ngũ chỉ huy của chúng ở Đông Dương chia rẽ đến cực
điểm; quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần, bọn Việt gian thân Nhật
hoảng sợ.

6. Toàn dân tộc đang sôi nổi chờ giờ khởi nghĩa,giành quyền độc lập.
7. Những điều kiện khởi nghĩa như đã chín muồi”[ 7;424]


Hội nghị quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền
trước khi quân Anh, Trung Hoa Quốc dân đảng vào Đông Dương tước
khí giới quân Nhật và khi thực dân Pháp chưa kịp tập hợp tàn quân,
điều lực lượng vào xâm lược nước ta một lần nữa. Hội nghị đề ra 3
nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất, kịp thời và
nêu phương châm hành động trong khởi nghĩa là phải đánh chiếm ngay
những nơi chắc thắng không kể thành thị hay nông thôn, phải phối hợp
chặt chẽ chính trị và quân sự, phải thành lập chính quyền cách mạng ở
những nơi đã giành quyền làm chủ.


Hội nghị quyết định chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành chính
quyến. về đối nội, thi hành 10 chính sách của việt minh. Về đối ngoại,
chính sách ngoại giao đưa theo nguyên tắc “thêm bạn, bớt thù” đảm
bảo giành và giữ nền độc lập; phải tránh trường hợp một mình đối phó
với nhiều lực lượng đồng minh (Trung Quốc, Pháp, Anh, Mỹ) tràn vào
nước ta và đặt chính phủ Đờ - Gôn hay một chính phủ bù nhìn khái trái
với ý nguyện dân tộc, triệt để lợi dụng mâu thuẩn giữa hai khối đế quốc
Anh – Pháp và Mỹ - Tưởng vào Đông Dương, hết sức tránh trường hợp
một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong cùng một lúc; tranh thủ
sự đồng tình của liên xô, của nhân dân Pháp, nhân dân Trung Quốc và
của loài người tiến bộ.

Trong khi đề cao viêc tranh thủ Đồng minh, Hội nghị nhấn mạnh khâu
mấu chốt giành thắng lợi của cách mạng là “Dù sao chỉ có thực lực của
ta mới quyết định được sự thắng lợi giữa ta và Đồng minh”[ 7;427].

Hội nghị toàn quốc của Đảng vừa kết thúc, đại hội quốc dân cũng được
tiến hành tại Tân Trào (Tuyên Quang) vào ngày 16 và 17 tháng 8 – 1945.
Hơn 60 đại biểu ở Bắc, Trung, Nam, đại biểu kiều bào ở nước ngoài, đại
biểu các đảng phái, các đoàn thể, tôn giáo đã dự Đại hội. Đại hội tán
thành và ủng hộ chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10
chính sách của mặt trận Việt Minh. Đại hội quyết định thành lập Ủy ban
Giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch; quýêt định
lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm Quốc kì, lấy bài hát tiến quân ca làm
Quốc ca.

Sáng ngày 17 – 8, Ủy ban Giải phóng dân tộc ra mắt quốc dân tại đình
Tân Trào. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Ủy ban giải phóng dân tộc đọc
lời tuyên thệ.


Đại hội Quốc dân bế mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng
bào cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền: “giờ quyết định
cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy
đem, sức ta mà tự giải phóng cho ta.

Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành
quyền độc lập. chúng ta không thể chậm trễ.

Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến
lên”[ 7;418].


Tổng khởi nghĩa giành chính quyền

Lệnh Tổng khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và lời kêu gọi
của Chủ tịch Hồ Chí Minh được chuyển đến các tổ chức Đảng và Việt
Minh, chiến sĩ và đồng bào.

Tuy nhiên, do tình hình phức tạp lúc bấy giờ và những khó khăn về giao
thông, thông tin, liên lạc, Lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương đến
một số nơi bị chậm hoặc không đến đựơc. Nhưng ở những nơi ấy, tổ
chức Đảng và Việt Minh, do thấm nhuần các chỉ thị, nghị quyết của
Trung ương trước đó, nhất là chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta”, đã căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương, kịp
thời phát động quần chúng khởi nghĩa.
Từ ngày 14 – 8, các xã, huyện vùng nông thôn của hầu hết các tỉnh ở
châu thổ sông Hồng, các tỉnh ở Trung Kì đã lần lượt nổi dậy giành chính
quyền.

Ngày 14 – 8, nhân dân Quảng Ngãi khởi nghĩa thắng lợi ở hầu hết các

địa phương trong tỉnh.

Ngày 16 – 8, một đơn vị quân giải phóng tiến công thị xã Thái Nguyên.

Ngày 17 – 8, một số vùng ngoại ô Hà Nội đã khởi nghĩa thắng lợi.

Ngày 18 – 8, các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam khởi
nghĩa thành công ở tỉnh lị.

Ở Hà Nội, xứ ủy Bắc Kì phân công một số ủy viên trực tiếp lãnh đạo khởi
nghĩa ở Hà Nội. theo nghị quyết cuộc họp ngày 15 – 8 – 1945, Ủy ban
quân sự cách mạng Hà Nội (tức Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội) được thành
lập ngày 16 – 8.

Được biết Tổng hội viên chức sẽ tổ chức một cuộc mít tinh lớn vào
chiều ngày 17 – 8 tại nhà hát lớn để ủng hộ chính phủ bù nhìn, Đảng bộ
và Ủy ban khởi nghĩa quyết định biến cuộc mít tinh đó thành cuộc mít
tinh của quần chúng ủng hộ cách mạng.

Chiều ngày 17 – 8, đông đảo các tổ chức cứu quốc ở Hà Nội, ngoại
thành, cùng tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong được huy động
đến Quãng trường nhà hát thành phố. Cuộc mít tinh bắt đầu, đại biểu
Việt Minh chiếm diễn đàn,diễ thuyết kêu gọi nhân dân khởi nghĩa. Hàng
vạn quần chúng hưởngứng lời kêu gọi của Việt Minh. Nhiều lính bảo an,
cảnh sát ngả theo cách mạng.

Sau đó, cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình tuần hành của quần
chúng, diễn ra qua các đường phố chính của Hà Nội, quần chúng biểu
tình hô vang khẩu hiệu “Đả đảo bù nhìn”, “Ủng hộ Việt Minh”, “Việt
Nam hoàn toàn độc lập”.


Qua cuộc biểu dương lực lượng ngày 17 – 8, thành ủy Hà Nội có đủ cơ
sở để đi đến quyết định khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở Hà Nội
vào ngày 19 – 8 – 1945.

Ngày 18 – 8, cờ đỏ sao vàng được treo lên một số đường phố Hà Nội.

Sáng ngày 19 – 8, hàng chục vạn quần chúng cách mạng nội và ngoại
thành mang theo gậy, dao, mã tấu…, rầm rập tiến về Quảng trường Nhà
hát thành phố tham dự cuộc mít tinh do Việt Minh tổ chức cuộc mít -
tinh bắt đầu lúc 11 giờ.

Sau loạt súng chào cờ và bài tiến quân ca vang lên, đại biểu Ủy ban
quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh. Cuộc
mít tinh nhanh chống chuyển thành cuộc biểu tình tuần hành vũ trang.
Quần chúng biểu tình chia thành nhiều đoàn tiến về cá ngả đường,
chiếm các cơ quan của chính quyền bù nhìn, như phủ khâm sai, Tòa thị
chính, Sở cảnh sát, trại Bảo an binh…Quân Nhật án binh bất động. Binh
lính và cảnh sát ngụy cũng bất lực. Chính quyền hoàn toàn về tay nhân
dân.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân cả
nước gấp rút nổi dậy giành chính quyền,. cùng ngày khởi nghĩa với Hà
Nội và giành được chính quyền là các tỉnh Thái Bình, Khánh Hòa.

Ngày 20 – 8: Thái Nguyên, Yên Bái, Bắc Ninh, Sơn Tây, Ninh Bình, Thanh
Hóa.

Nhày 21 – 8: Bắc Cạn, Tuyên quang, Phúc yên, Nam Định, Nghệ An,
Ninh Thuận.


Ngày 22 – 8: Cao Bằng, Kiến An, Hưng yên, Tân An, Hải phòng.

Ngày 23 – 8: nhân dân Thừa Thiên - Huế nổi dậy giành chính quyền. Huế
là nơi đóng đô của triều đình phong kiến nhà nguyễn, là trung tâm
chính trị của đất nước. Vì vậy, Huế có vị trí rất quan trọng trong cuộ
Tổng khởi nghĩa của cả nước.

×