Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Các biện pháp phát triển đội ngũ GVCH của trường đại học dân lập Duy Tân (ĐHDLDT), Thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.02 KB, 120 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Ngày nay trong thời đại nhân loại đang bước vào nền văn minh hậu công
nghiệp, hơn bao giờ hết giáo dục càng trở nên quan trọng và đã được thừa nhận là
nhân tố quyết định chủ yếu đến sự phát triển KT-XH. Đất nước ta đang bước vào
thời kỳ mới, thời kỳ mà vấn đề đẩy mạnh CNH-HĐH theo định hướng XHCN đã và
đang rất cấp thiết và nhất là trong tình hình hiện nay vấn đề hội nhập WTO đang
cần một nguồn nhân lực có năng lực, chuyên môn thực sự góp phần quan trọng và
làm nòng cốt mở cánh cửa hội nhập thế giới. Giáo dục đại học có nhiệm vụ đào tạo
con người và những thế hệ tri thức giỏi chuyên môn, nghiệp vụ nhằm đáp ứng được
nguồn nhân lực cho xã hội. “Giáo dục Đại học là khâu trực tiếp tạo ra nguồn nhân
lực phục vụ CNH-HĐH nước nhà, là đòn bẩy để đảm bảo thực hiện đầy đủ và chất
lượng chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010.”
Cùng với quá trình CNH-HĐH gắn với kinh tế tri thức. Vai trò của GD-ĐT
ngày càng được nâng cao, đặc biệt giáo dục đại học. Nói đến vai trò của giáo dục là
nói đến chất lượng đào tạo thể hiện ở cơ chế quản lý, cách thức đào tạo và khâu trực
tiếp nhất là quan hệ thầy - trò trong quá trình chuyển giao tri thức. Việc xây dựng
một đội ngũ giáo viên có phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị tốt và đặc biệt là
năng lực chuyên môn cao là yêu cầu cấp bách của giáo dục đại học Việt Nam.Vì thế
vấn đề đào tạo con người phục vụ quá trình phát triển đất nước cũng như bản thân
sự tự khẳng định và tồn tại của các trường ngoài công lập trước xu thế hội nhập là
vấn đề rất quan tâm.
Trường ĐH DLDT là trường Đại học Dân lập đầu tiên được mở ở miền Trung
và đặt ở thành phố Đà Nẵng, một thành phố trẻ, năng động có một vị trí chiến lược
quan trọng và đang khởi động mạnh mẽ để trở thành một trung tâm công nghiệp
lớn, một đầu mối giao thông lớn trong và ngoài nước. Từ đó vấn đề đặt ra cho cả
nước nói chung và miền Trung nói riêng một nhu cầu tất yếu đó là làm sao tạo ra
một nguồn nhân lực thực sự chất lượng đảm bảo nhu cầu phát triển KT-XH toàn



2
vùng cũng như cả nước. Trường ĐH DLDT được thành lập theo Quyết định số
666/TTg của Thủ tướng chính phủ nước CHXHCNVN, ký ngày 11/11/1994.
Trường chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ GD&ĐT cấp những văn bằng nằm trong
hệ thống văn bằng của Nhà nước. Trường tuy mới thành lập hơn 13 năm nhưng đã
vượt qua được nhiều khó khăn đã đứng vững và vươn lên . Đặc biệt trường đã phấn
đấu đầu tư cơ sở vật chất riêng của mình, có hệ thống quản lý tư vấn ổn định, sớm
đảm bảo công tác đào tạo đáp ứng những quy định của Bộ GD & ĐT. Trường chủ
động khai phá con đường đi của mình, phù hợp với đường lối đổi mới GD & ĐT
của Đảng và Nhà nước; vì thế trường tập trung vào xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
và kiện toàn những tổ chức cốt lõi về chuyên môn, hành chính, quản trị; gấp rút đào
tạo đội ngũ GVCH của mình, tích cực tạo lập được những mối quan hệ hợp tác tốt
đẹp trong và ngoài nước để học tập kinh nghiệm và tranh thủ sự hỗ trợ, tạo điều
kiện để trường năng động và sáng tạo tìm ra những nét riêng trong hoạt động của
mình, đặc biệt là đảm bảo chất lượng đào tạo ngay từ những ngày đầu, tạo nên sự
tín nhiệm của xã hội đối với trường.
Trong môi trường giáo dục hiện nay sự cạnh tranh về chất lượng đào tạo giữa
các trường là rất rõ. Trường ĐHDL DT cũng phải đối mặt với các thách thức mới,
điều đó đòi hỏi phải luôn đặt chất lượng đào tạo lên vị trí hàng đầu, xây dựng một
thương hiệu. Một trường ĐH muốn khẳng định chất lượng đào tạo của mình đối với
các trường trong và ngoài nước thì cần phải có những biện pháp để nâng cao chất
lượng, đó là: việc phát triển đội ngũ GV, đặc biệt là GVCH của nhà trường là nhân
tố quan trọng làm nòng cốt cho việc nâng cao chất lượng đào tạo của trường, cung
ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho miền Trung nói riêng và cả nước nói chung.
Hiện nay số lượng đội ngũ giảng viên của trường thiếu và yếu chưa đủ đáp
ứng việc giảng dạy các ngành của trường chủ yếu là giảng viên thỉnh giảng và đây
cũng là một thực trạng mà Trường đang dần dần khắc phục, mặc dù trong 13 năm
qua đã tuyển dụng một đội ngũ GVCH đáp ứng được một phần nào về việc giảng
dạy của trường. Nhưng vẫn còn nhiều bất cập do nhiều nguyên nhân như: đội ngũ

giảng viên còn non trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, chưa phát huy


3
hết được khả năng của mỗi GV và chưa thực sự là lực lượng nòng cốt của nhà
trường, đặt biệt là còn tâm lý phân biệt giữa trường công và trường tư, điều này dẫn
đến tư tưởng cũng như tâm lý của người dạy chưa thực sự gắn bó lâu dài với
Trường.
Qua những lý do trên, với tư cách là người đang tham gia công tác tổ chức cán
bộ của trường và theo học chương trình thạc sĩ tôi mạnh dạn làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cho mình: “Các biện pháp phát triển đội ngũ GVCH của trường đại học
dân lập Duy Tân (ĐHDLDT), Thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay” với
mong muốn nghiên cứu để tìm ra các biện pháp phù hợp nhằm phát triển đội ngũ
giảng viên cơ hữu của trường ĐHDLDT ngày càng vững mạnh đảm bảo về chất
lượng đào tạo của trường, xứng đáng là lưc lượng nòng cốt của trường trong sứ
mạng giáo dục và đào tạo của nhà trường.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát và đánh giá thực trạng đội ngũ GVCH
của trường ĐHDLDT để đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GVCH của trường ĐHDLDT.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
3.1/ Khách thể nghiên cứu :
Hoạt động quản lý đội ngũ giảng viên cơ hữu Trường ĐHDLDT.
3.2/ Đối tượng nghiên cứu :
Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên cơ hữu của trường ĐHDLDT.
4. GIẢ THIẾT KHOA HỌC:
Nếu có hệ thống biện pháp phát triển đội ngũ GV phù hợp với bối cảnh phát
triển mới của địa phương và của Trường ĐHDLDT thì trong tương lai gần Nhà
trường sẽ có đội ngũ GVCH đáp ứng yêu cầu đào tạo của Trường.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:

5.1/ Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề phát triển đội ngũ giảng viên.
5.2/ Khảo sát và phân tích thực trạng phát triển đội ngũ GVCH trường
ĐHDL Duy Tân.


4
5.3/ Đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ GVCH trường ĐHDL
Duy Tân trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI :
6.1/ Ý nghĩa lý luận:
Đề tài nhằm hệ thống hóa các khái niệm về quản lý, các chức năng của quản lý
và quản lý giáo dục, trong đó tác giả quan tâm nhất là lý luận về phát triến đội ngũ
giảng viên đối với trường ngoài công lập trong giai đoạn hiện nay.
6.2/ Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài giúp cho cán bộ quản lý các cấp của trường áp dụng các biện pháp quản
lý để nâng cao vừa số lượng và chất lượng của đội ngũ GV của trường ĐHDLDT.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
7.1/ Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu các văn kiện chính trị của Đảng và Nhà nước, các văn bản và quy
chế giáo dục, các tài liệu, công trình khoa học về giáo dục, quản lý giáo dục liên
quan đến chất lượng đội ngũ giảng viên phục vụ cho đề tài.
7.2/ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Tiến hành phân tích, tổng hợp, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về phát triển
đội ngũ giảng viên trường ĐHDLDT.
- Điều tra, khảo sát, lấy ý kiến chuyên gia về vấn đề phát triển đội ngũ giảng
viên cơ hữu trường ĐHDL Duy Tân.
- Thống kê, xử lý số liệu.
- Thử nghiệm.
8. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI:
8.1/ Phạm vị thời gian : Số liệu dùng để phân tích thực trạng được khảo sát,

phân tích từ năm 2004 - 2007.
8.2/ Phạm vi đối tượng khảo sát: Đội ngũ giảng viên giảng dạy và cán bộ
quản lý từ tổ trưởng bộ môn trở lên của trường ĐHDLDT trong diện cơ hữu có thời
hạn hợp đồng từ 2 năm trở lên.


5
9. CẤU TRÚC LUẬN VĂN:
Luận văn gồm 03 phần chính:
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung (gồm 03 chương)
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng phát triển đội ngũ GVCH Trường ĐHDLDT
Chương 3: Các biện pháp phát triển đội ngũ GVCH Trường ĐHDLDT
Phần III:

Kết luận và khuyến nghị

Ngoài ra còn có phần phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.

***


6

CH Ư ƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1/ TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
Theo Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết "Con tàu Việt Nam đã bắt đầu ra
khơi xa". Như vậy, điều đó đã thể hiện rằng điều kiện KT-XH của đất nước đang

chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn của một nền CNH-HĐH và đến nay ta có thể
một phần nào khẳng định rằng dân tộc chúng ta đã có thế và lực mới để đánh thức
"con rồng ngủ quên" sau bao năm nay. Mà chiếc chìa khóa để mở cánh cử con tàu
Việt Nam ra khơi đầu tiên phải là vấn đề con người.
Đại hội X kết luận, cũng như các đại hội từ trước đến nay luôn nhấn mạnh vai
trò con người "Hiền tài là nguyên khí quốc gia". Đây chính là mục tiêu và cũng là
động lực để thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Vì vậy, vấn đề đào tạo con người là quốc sách hàng đầu. Bồi dưỡng thế hệ trẻ
tinh thần yêu quê hương đất nước, tự tôn dân tộc, lý tưởng XHCH, ý thức pháp luật,
chí tiến lập nghiệp, đào tạo lớp người có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề
nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới. Để thực hiện được mục
tiêu đó, chúng ta cần phát triển giáo dục, đặc biệt đội ngũ xây dựng thế hệ trẻ, xây
dựng con người mới là những giáo viên nói chung và giảng viên đại học nói riêng.
Từ cách quản lý xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên đại học nói riêng đến cách
thức tổ chức, triển khai kế hoạch,v.v.....
Tuy nhiên, đối với Trường ĐHDLDT qua 13 năm hoạt động đến nay chưa có
một đề tài nào nghiên cứu về vấn đề làm sao để xây dựng và phát triển đội ngũ
GVCH một cách nghiêm túc, sâu sắc gắn với các giải pháp để phát triển GV. Trong
khi thực trạng đội ngũ GVCH của Trường hiện nay còn thiếu về số lượng và yếu về
chất lượng. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này là hết sức cần thiết với yêu cầu phát
triển Trường ĐHDLDT trong quá trình phát triển và hội nhập của đất nước.


7
1.2 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ CỦA ĐỀ TÀI:
1.2.1/ Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nguồn nhân lực.
1.2.1.1 - Quản lý:
Quản lý là một hoạt động xuất hiện từ rất lâu; nhà Sử học Daniel A Wren đã
từng nhận xét rằng :" Quản lý cũng xưa cũ như chính con người vậy", nhưng ông
cũng ghi nhận rằng cũng chỉ mới gần đầy người ta mới chú ý đến "chất khoa học"

của quá trình quản lý và dần dần hình thành nên các "lý thuyết" quản lý.
Quản lý ra đời gắn liền với hoạt động chung của nhiều người trong xã hội.
Như Các Mác đã đề cập đến thời đại công nghiệp cơ khí rằng :"như người lao động
trực tiếp trong xã hội hoặc lao động chung thực hiện trên quy mô tương đối lớn, ở
mức độ nhiều hay ít đều cần đến quản lý ". Cùng với sự phát triển của hợp tác và
phân công lao động từ thấp đến cao, xã hội loài người đã trãi qua cuộc cách mạng
gắn liền với các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội. Trong mỗi tổ chức đó, quản lý có
vai trò kết hợp sự nỗ lực chung của mỗi người trong tổ chức và sử dụng tất cả các
nguồn lực vật chất có được để đạt được mục tiêu chung và mục tiêu riêng của từng
thành viên trong tổ chức. Như vậy, nguồn gốc của quản lý là sự cần thiết kết hợp và
phối hợp hoạt động giữa các cá nhân trong xã hội, giữa con người với tự nhiên để
mang lại lợi ích mong muốn cho toàn xã hội.
Tuy nhiên, có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý:
+ Phnêđric Uynslau Taylo (1856 - 1915) được coi là cha để của thuyết quản lý
khoa học đã định nghĩa :"Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác
làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ
nhất".
+ Harold Koontz trong cuốn "Những vấn đề cốt yếu của quản lý" cho rằng :
"Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó bảo đảm phối hợp những nổ lực cá nhân
nhằm đạt được các mục đích của nhóm".
+ Theo PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc :"Hoạt động quản lý là tác động có định
hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong tổ chức nhằm
cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức".


8
Do quản lý gắn liền với mọi quá trình kinh tế - xã hội một cách chặt chẽ, gắn
với từng giai đoạn lịch sử cụ thể, nên các tác giả khai thác ở từng góc độ khác nhau.
Nhưng các quan niệm này đều có điểm chung là: "Quản lý là sự tác động có tổ
chức, có hướng đích của chủ thể lên đối tượng nhằm đạt được mục tiêu định trước".

Như vậy "Quản lý" là :
- Quản lý là một loại hoạt động XH, luôn gắn liền với một nhóm hay một tổ
chức XH nào đó; trong đó chủ thể quản lý tác động tới đối tượng quản lý thông qua
các hoạt động kế hoạch hóa tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra, nhằm đạt được mục tiêu
đề ra.
- Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra tác động quản lý trong mọi quá trình hoạt
động. Chủ thể quản lý có thể là cá nhân hay tổ chức. Chủ thể quản lý tác động lên
đối tượng quản lý bằng các công cụ với những phương pháp quản lý thích hợp theo
các nguyên tắc nhất định.
- Đối tượng quản lý tiếp nhận trực tiếp sự tác động của chủ thể quản lý. Tuỳ
theo từng loại đối tượng khác nhau mà người ta chia thành các dạng quản lý khác
nhau.
- Khách thể quản lý chịu sự tác động hay chịu sự điều chỉnh của chủ thể quản
lý đó là hành vi của con người, các quá trình xã hội.
- Mục tiêu quản lý là cái đích cần phải đạt tới một thời điểm do chủ thể quản
lý định trước. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực hiện các hoạt động quản lý
cũng như lựa chọn các phương pháp quản lý thích hợp.
- Quản lý vừa là môn khoa học sử dụng tri thức nhiều khoa học khác nhau,
vừa là nghệ thuật. Do vậy, đòi hỏi nhà quản lý phải luôn chủ động, khéo léo, linh
hoạt tổ chức, điều khiển , hướng dẫn mọi thành viên trong tổ chức của mình cùng
hướng tới mục tiêu xác định, tránh tình trạng rối ren và bất ổn của tổ chức, đồng
thời kích thích và phát huy được mọi thành viên trong tổ chức.
1.2.1.2 - Quản lý giáo dục:
Giáo dục cũng như mọi lĩnh vực hoạt khác của xã hội nhỏ hay lớn đều phải
xuất hiện sự quản lý, và sự quản lý này tuỳ thuộc vào mức độ qui mô của một đơn


9
vị, một tổ chức và tính chất cũng khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất địa chính trị, địa
kinh tế, lịch sử, tập tục truyền thống của xã hội đó.

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang "Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành
theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được tính chất của nhà
trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục
thế hệ trẻ đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất".
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc "Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành,
phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo các thế hệ trẻ đáp
ứng nhu cầu phát triển xã hội ngày một cao".
Như vậy, quản lý giáo dục là quản lý các quá trình đào tạo, mục tiêu đào tạo,
nội dung đào tạo, phương pháp đào tạo và quản lý sự phối hợp giữa các nhân tố đó
một cách có tổ chức, kế hoạch, chiến lược. Để huy động một cách tốt nhất đến tiềm
năng của giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội phát triển. Mà đối tượng quản lý ở
đây không phải đơn thuần là quản lý trong ngành giáo dục mà là sự phối hợp của
toàn xã hội đối với sự pháp phát triển con người.
1.2.1.3 - Quản lý nguồn nhân lực:
Trong tất cả các nguồn lực thì nguồn lực con người là quan trọng nhất vì nó
tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng, phát triển kinh tế - văn hóa
- xã hội. Bởi vì chính thông qua hoạt động của con người các nguồn lực khác mới
có thể phát huy được tác dụng, mới có thể biến tiềm năng con người trở thành hiện
thực. Nói đến nguồn lực con người tức là nói đến những gì cấu thành khả năng,
năng lực, sức mạnh sáng tạo của con người. Nhưng điều quan trọng là chất lượng
nguồn nhân lực chứ không phải số lượng. Theo quan điểm của Đảng thì "Nguồn lực
con người là nguồn lực của mọi nguồn lực". Nguồn lực con người có trí tuệ là
nguồn lực quý giá nhất. Muốn thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thì
trước hết phải phát triển toàn diện con người. Trong nguồn lực con người là sự kết
hợp hài hoà giữa trí lực, thể lực, nhân cách và kinh nghiệm sống trong các hoạt


10
động của con người. Nói cách khác "Nguồn lực con người là một tập hợp các chỉ số

phát triển con người".
Như vậy, quản lý nguồn nhân lực là gì?
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng "Quản lý nguồn nhân lực là chức
năng quản lý giúp cho người quản lý tuyển mộ, lựa chọn, huấn luyện và phát triển
các thành viên của tổ chức".
Quá trình quản lý nguồn nhân lực bao gồm các hoạt động như kế hoạch nguồn
nhân lực, tuyển mộ, lựa chọn, đào tạo và phát triển, định hướng, thẩm định kết quả
hoạt động, đề bạt hoặc thuyên chuyển, giáng cấp và sa thải . Trong đó đào tạo và
phát triển là cốt lõi.
Đối với ngành giáo dục thì quản lý nguồn nhân lực chính là quản lý giáo viên,
cán bộ, công nhân viên. Trong đó lực lượng giáo viên là quan trọng nhất nhằm phục
vụ lợi ích, sự phát triển con người xã hội nói chung và của nhà trường nói riêng.
Đồng thời giúp cho giáo viên và cán bộ công nhân viên thấy được chức năng, nhiệm
vụ, vai trò của họ trong quá trình phát triển con người để có định hướng trong hành
động, đồng thời kiểm tra, thẩm định chất lượng hoạt động của họ.
1.2.2/ Xây dựng, phát triển; phát triển nguồn nhân lực.
1.2.2.1 - Xây dựng,phát triển:
a/ Xây dựng:
Theo Tự điển tiếng việt "Xây dựng là tạo hoàn cảnh sống vật chất hay tinh
thần hoặc cho một cộng đồng trên cơ sở đường lối chủ trương nhất định, một hệ tư
tưởng nhất định hoặc cho cá nhân theo một ý định có suy nghĩ, cân nhắc".
Xây dựng đội ngũ giảng viên là tạo ra một tổ chức những giảng viên tương
thân tương ái, đoàn kết một lòng cùng thực hiện chức trách nhiệm vụ của mình trên
cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, của cơ quan đơn vị. Đặc biệt là
xây dựng đội ngũ giảng viên có trình độ đào tạo đạt chuẩn trở lên đáp ứng được nhu
cầu đào tạo của xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước gắn
với kinh tế tri thức.


11

b/ Phát triển:
Phát triển theo triết học là quá trình vận động đi lên, từ đơn giản đến phức tạp,
từ thấp đến cao, từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng "Phát triển là tăng cả về chất lượng và
số lượng làm cho hệ giá trị được cải tiến, được hoàn thiện".
Phát triển khác với vận động, phát triển là sự vận động có định hướng, còn vận
động là sự biến đổi nói chung, "phát triển" và "xây dựng" luôn có quan hệ chặt chẽ
với nhau. "Xây dựng" là cho hình thành một tổ chức hay một chỉnh thể, còn phát
triển sẽ làm cho "xây dựng" tiếp tục biến đổi, tiến lên theo mục tiêu đề ra.
Theo Điều 9 của Luật giáo dục cũng nêu vấn đề phát triển giáo dục là quốc
sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh
& bền vững. Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam phát triển theo xu hướng :
- Dân chủ hóa giáo dục : thực hiện phân cấp quản lý trong nhiều khâu về đào
tạo, hành chính, tài chính.
- Xã hội hóa giáo dục nhằm mở rộng các nguồn vật chất và tài trợ, hỗ trợ cho
giáo dục.
- Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tạo nhiều cơ hội học tập cho mọi người
thuộc các thành phần xã hội.
- Quy trình đào tạo phải nềm dẻo, uyển chuyển cho phù hợp giúp người học có
nhiều cơ hội điều chỉnh việc học tập của mình trước những biến động của thị trường
lao động của đất nước.
- Phát triển về quy mô đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, thường xuyên cập nhập
chương trình đào tạo mới theo hướng phát triển và hội nhập của đất nước.
Phát triển đội ngũ giảng viên là làm cho đội ngũ giảng viên tăng lên về quy
mô tốt hơn về chất lượng thông qua công tác tuyển chọn, sử dụng, đào tạo theo điều



12
kiện vật chất và tinh thần,v.v.... cho đội ngũ giảng viên. Do đó, giảng viên phải
không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực, tinh thông về nghề nghiệp.
1.2.2.2 -Phát triển nguồn nhân lực:
Nhân lực của xã hội bao gồm toàn bộ lực lượng lao động trong mọi loại hình
công việc, theo nghĩa hẹp nhân lực là những người do các trường lớp thuộc hệ
thống giáo dục đại học, trung cấp chuyên nghiệp dạy nghề đào tạo ra.
Phát triển người gồm sự phát triển các hình thái của con người, phát triển loài
người, cá thể, cá nhân, nhân cách, nhân lực. Đó là sự phát triển chỉnh thể toàn vẹn
nhiều hình thái, nhiều giá trị, nhiều chức năng, làm gia tăng giá trị con người trên
các mặt tinh thần, thể chất, đạo đức, kinh tế, kỹ thuật, trí tuệ tình cảm, xã hội, pháp
lý,….
Quan điểm Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người phát triển toàn
diện, con người là cơ sở lý luận chủ yếu nhất. Sự tác động của nhân tố con người có
ý nghĩa qui định đến toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử, con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Phát triển người là phạm trù tâm lý – giáo dục – xã hội, phát triển nguồn nhân
lực là phạm trù kinh tế - chính trị - xã hội.
Theo quan điểm trong chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa - hiện đại hoá đất nước nhất mạnh các yếu tố sau:
- Cần coi trọng việc nâng cao dân trí, đẩy mạnh phương cách giáo dục nhằm
tạo nguồn cho việc đào tạo nhân lực thuộc mọi trình độ ở mọi vùng, miền.
- Kết hợp kế hoạch với chính sách và công tác giáo dục tư tưởng để đảm bảo
cung cấp nhân lực đầy đủ, kịp thời cả về số lượng và chất lượng cho mọI lĩnh vực,
mọi ngành hoạt động xã hội.
- Giáo dục và kinh tế gắn bó với nhau, tác động lẫn nhau nhằm tạo nguồn
nhân lực đáp ứng đúng và có hiệu quả các yêu cầu đa dạng của nền kinh tế trong
CNH – HĐH.
Khi nói đến “Phát triển” người ta có thể hiểu rằng đó chính là những diễn
biến, những thay đổi cơ chế về các mặt : kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị. Trong



13
đó việc phát triển kinh tế là căn cứ cơ sở và là động lực dẫn đến sự thay đổi, tiến bộ
của các mặt còn lại. Phát triển không chỉ để tăng trưởng kinh tế mà cần phải gắn kết
với xã hội, làm thế nào để xã hội hạn chế tình trạng nghèo đói, sự bất bình đẳng
trong cạnh tranh giàu nghèo, cơ cấu phân quyền lý trong xã hội và thể chế quốc gia,
làm sao bảo vệ được quyền dân chủ cũng như quyền lợi chính đáng của đa số bộ
phân dân cư tham gia vào các hoạt động xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần, trình độ văn hóa của đại đa số tầng lớp nhân dân. Để thực hiện được
những vấn đề nêu trên trên đây thì điều quan trọng và là điểm chính của sự phát
triển đó là phát triển con người hay nói cách khác đó chính là nguồn nhân lực quan
trọng nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển nguồn nhân lực luôn là mục tiêu ưu tiên của mỗi quốc gia, đối với
các nước đang phát triển thì phát triển nguồn nhân lực càng trở nên cấp thiết. Giáo
dục đóng vai trò hàng đầu trong việc phát triển con người “không chỉ vì nó làm
tăng”vốn con người” mà còn vì giáo dục làm thay đổi khả năng chấp nhận các thay
đổi. Giáo dục tạo điều kiện cho các cá nhân làm quen với các phương pháp khoa
học, với các hình thức tư duy mới khác biệt sâu sắc với cách tư duy cũ”.
Chính vì vậy mà việc phát triển con người hay phát triển nguồn nhân lực là rất
quan trọng, nó là huyết mạch của sự phát triển kinh tế - xã hội – chính trị của đất
nước. Phát triển con người không chỉ phát triển thể lực ,phát triển trí lực mà còn là
vấn đề phát triển toàn diện con người : thể lực, tâm lực, trí lực, thái độ sống và lao
động, hiệu quả lao động.
Tóm lại, đối với bất kỳ một tổ chức nào dù nhỏ hay lớn thì tập trung cho việc
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực là vấn đề cần được chú tâm hàng đầu, chính
vì thế đòi hỏi các nhà quản lý phải đặc biệt quan tâm hàng đầu và đó là vấn đề sống
còn của tổ chức đó, bởi trong tất cả các nguồn lực, thì nguồn lực con người là quyết
định. Nếu được tổ chức, chỉ đạo một cách kế hoạch và hợp lý, được đào tạo và bồi
dưỡng, được tạo điều kiện môi trường thuận lợi,..nguồn lực con người sẽ phát huy

được hết khả năng và đây chính là yếu tố cơ bản nhất giúp cho tổ chức thực hiện
được mục tiêu đã đề ra.


14
1.2.3/ Trường đại học, trường đại học dân lập.
1.2.3.1- Trường đại học:
Trong Tự điển tiếng Việt định nghĩa : đại học là “bậc học trên trung học trong
hệ thống giáo dục”.
Theo Luật Giáo dục, giáo dục đại học sẽ đào tạo hai trình độ là trình độ cao
đẳng và trình độ đại học, các cơ sở giáo dục gồm : trường cao đẳng, trường đại học.
Chính vì thế mà trường đại học là cơ sở giáo dục đạị học trong hệ thống giáo
dục quốc dân. Trong Điều 9, Điều lệ trường đại học cũng đã nêu rõ về nhiệm vụ
quan trọng nhất của trường đại học đó là “đào tạo nhân lực có phẩm chất chính trị,
đạo đức tốt, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình
độ đào tạo, có sức khỏe, có năng lực thích ứng với việc làm trong xã hội, tự tạo việc
làm cho mình và cho những người khác, có khả năng hợp tác bình đẳng trong quan
hệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
+ Về công tác quản lý các trường đại học đều có đối tượng giống nhau trong
hoạt động quản lý đó là: nhân lực, trí lực, tài lực, vật lực, sản phẩm được tiếp thị lưu
thông hay nói đúng hơn là sản phẩm làm ra được xã hội thừa nhận, sản phẩm của
trường đại học là đào tạo ra những thế hệ sinh viên ra trường được các cơ sở sản
xuất tiếp nhận sử dụng. Chính vì thế một trường đại học muốn cho sản phẩm của
mình đảm bảo chất lượng và hiệu quả sau quá trình đào tạo cần phải có cách quản
lý của mình ở từng nội dung cụ thể như :
- Quản lý đội ngũ giảng viên , cán bộ, nhân viên; xây dựng đội ngũ giảng viên
của trường đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, cân đối về cơ cấu trình độ, cơ cấu
ngành nghề đào tạo và cơ cấu tuổi, giới tính.
- Quản lý từ khâu đầu vào tuyển sinh đến quá trình học tập của người học,
ngoài ra còn tham gia vào quá trình quản lý đầu ra đó là sinh viên ra trường được

các cơ sở đào tạo chấp nhận được, do đó cũng cần phải liên kết chặt chẽ với cơ sở
sử dụng lao động, gắn kết giữa lý thuyết (nhà trường) với thực hành (cơ sở sản
xuất).


15
- Quản lý, sử dụng đất đai, trường sở, trang thiết bị và tài chính theo qui định
của pháp luật về chế độ kế toán, kiểm toán.
1.2.3.2- Trường đại học dân lập:
Theo Từ điển tiếng Việt khái niệm của từ “dân lập” đựơc giải thích như
sau: “là do dân ở địa phương lập ra và đài thọ các khoản chi phí” [20].
Theo Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/08/1999 của Chính phủ về các
hình thức ngoài công lập, thì dân lập là “cơ sở do tổ chức đứng ra thành lập, được
đầu tư bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước (vốn của tổ chức, tập thể, cá nhân) và
quản lý điều hành mọi hoạt động theo quy định của pháp luật. Không lấy vốn, tài
sản, kinh phí của nhà nước để đầu tư cho các cơ sở dân lập” [21].
Theo Điều 1, Quy chế trường đại học dân lập :”Trường đại học dân lập là cơ
sở giáo dục đại học do tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế (dưới đây gọi chung là tổ chức) xin thành lập và huy động các nhà
giáo, nhà đầu tư cùng đóng góp công sức, kinh phí và cơ sở vật chất ban đầu từ
nguồn ngoài ngân sách nhà nước. Trường đại học dân lập là pháp nhân được tự chủ
về tổ chức bộ máy, tuyển dụng lao động và tài chính. Tài sản của trường thuộc
quyền sở hữu của những người góp vốn đầu tư, các giảng viên, cán bộ và nhân viên
nhà trường” .
Trường đại học dân lập được tổ chức và hoạt động theo Điều lệ trường đại học
và Quy chế trường đại học dân lập do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Trường đại
học dân lập là cơ sở giáo dục đại học, nên nhiệm vụ của trường đại học dân lập
cũng như các trường đại học công lập đều có một nhiệm vụ quan trọng đó là : đào
tạo nguồn nhân lực có trình độ, năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu của thời đại.
Theo Điều 65 của Luật Giáo dục cũng đã nêu rõ nhiệm vụ và quyền hạn của

trường dân lập (nay gọi là trường ngoài công lập):
Căn cứ trên các cơ sở đã trình bày trên trường đại học dân lập là do dân lập ra,
tự đóng góp công sức, kinh phí và cơ sở vật chất, nên trường đại học dân lập có một
số đặc điểm khác với trường công lập, cụ thể như sau:


16
- Về bộ máy quản lý :Trường rất mềm dẻo trong việc cơ cấu bộ máy quản lý
đáp ứng với tình hình hiện tại của Trường. Hiệu Trưởng là người chịu trách nhiệm
trong công tác đào tạo chính của Trường, bên cạnh Hiệu Trưởng có HộI đồng Quản
trị là “tổ chức đại diện duy nhất quyền sở hữu tập thể nhà trường, có trách nhiệm và
quyền tự chủ quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức, nhân sự và tài chính,
tài sản của Trường”.
- Về hoạt động quản lý: Trường đại học dân lập không bị ảnh hưởng nhiều của
cơ chế nhà nước, tập trung quan liêu bao cấp nên hoạt động quản lý tại trường đã
tận dụng và phát huy được những mặt tích cực của cơ chế quản lý mới, tạo ra được
sắc thái riêng khác với quản lý tại các trường đại học công lập. Cụ thể là:
1) Bộ máy tổ chức tinh gọn, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
trường;
2) Khái niệm biên chế suốt đời như ở các trường công lập không tồn tại,
các trường đại học dân lập tự tuyển chọn những người thật sự có năng lực, tâm
huyết với nghề nghiệp, hợp đồng có thời hạn và trả lương theo thoả thuận hoặc khối
lượng công việc đảm trách, hạn chế tình trạng lao động dôi dư;
3) Bệnh quan liêu trong tổ chức và điều hành nhà trường hầu như được
loại bỏ, các quyết định được đề ra một cách kịp thời và trách nhiệm của mọi người
trong thực thi công việc, thực hiện chức trách được giao với chất lượng và hiệu quả
cao.
- Một điểm ưu việt đối với các trường đại học dân lập đó là có nhiều cơ hội
để phát huy được tính tự chủ và chịu trách nhiệm - một phương thức quản lý mới
trong giáo dục đại học hiện nay, nhằm tạo ra hiệu quả và chất lượng GD-ĐT.

- Về tài sản của trường của trường đại học dân lập gồm tài sản thuộc vốn góp
của các nhà đầu tư , vốn vay ngân hàng, một phần học phí của sinh viên và tài sản
tăng thêm trong quá trình hoạt động. Nhà trường luôn coi trọng quan điểm "Mỗi
sinh viên là một đơn vị tài chính" của trường. Do đó phải gắn công tác tài chính với
công tác đào tạo một cách "sống còn". Tài sản của trường đại học dân lập sau khi
trừ các phần vốn góp kể cả phần trả lãi vốn vay, vốn góp còn lại là tài sản không


17
chia được và thuộc sở hữu tập thể của nhà trường, được nhà trường bảo vệ theo quy
định của pháp luật, không ai chiếm đoạt được.
- Về đội ngũ giảng viên bao gồm: giảng viên cơ hữu được tuyển dụng bằng
hình thức hợp đồng lao động và giảng viên thỉnh giảng được mời từ các trường đại
học công lập hoặc cơ quan Nhà nước và cũng được ký kết hợp đồng giảng dạy theo
từng năm học, nhằm tạo sự ổn định tương đối về đội ngũ thỉnh giảng này, những
người thường xuyên tham gia giảng dạy với trường.
Với những qui định trên đây, trường đại học ngoài công lập có nhiều lợi thế
về quản lý phù hợp với nền kinh tế thị trường và sự cạnh tranh trong giáo dục hiện
nay, giúp cho các trường dân lập có nhiều cơ hội để phát triển. Tuy vậy các trường
dân lập cũng có những khó khăn nhất định nhất là về công tác quản lý đội ngũ, công
tác tài chính, cơ sở vật chất, hàng rào pháp lý,...còn nhiều bất cập.
Các đại học nước ngoài có mặt tại Việt Nam và miền Trung nói riêng sẽ tạo
nên một sự cạnh tranh quyết liệt về chất lượng giữa Đại học dân lập với đại học
công lập, giữa các Đại học Việt Nam với Đại học nước ngoài. Các công ty trong và
ngoài nước với lương bổng cao, tạo điều kiện làm việc tốt, sẽ thu hút đội ngũ nhân
lực có chất lượng từ các trường Đại học Việt Nam, đặc biệt từ đội ngũ các trường
đại học Dân lập. Chính vì thế việc quản lý của các trường đại học dân lập luôn phải
đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt về các vấn đề chất lượng đào tạo và học phí, thể
hiện cụ thể qua các nội dung sau : đối với miền Trung còn nghèo mà học phí trường
thu cao thì cũng khó thu hút sinh viên mặc dù chất lượng của trường ngày được

nâng cao; nhân lực (đội ngũ giảng viên, cán bộ, nhân viên, cán bộ quản lý); tài lực,
vật lực (trường, lớp, phòng thực hành thí nghiệm, các trang thiết bị phục vụ giảng
dạy và học tập,..), sản phẩm được tiếp thị lưu thông (sinh viên); chỉ có chất lượng
mới làm cho các trường có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Chính vì vậy, vấn đề đặt ra đối với các trường dân lập là phải có những biện
pháp quản lý phù hợp để có thể tồn tại và phát triển.
Một trong những vấn đề quan trọng và mang tính quyết định đó chính là đội
ngũ giảng viên của các trường đại học dân lập. Tuy ưu thế của các trường đại học


18
dân lập là có thể mời được các giảng viên, chuyên gia đầu ngành, có học hàm học vị
cao từ các trường đại học công lập, hoặc cơ quan Nhà nước; nhưng việc mời các
giảng viên thỉnh giảng luôn bị động, mang tính chất thời vụ, không lâu dài và
trường chỉ mời để mang tính giao lưu học hỏi kinh nghiệm và thu thập những thông
tin khoa học mới là chính. Mặt khác các giảng viên thỉnh giảng hầu hết là tham gia
giảng dạy nhiều giờ và ở nhiều trường khác nhau, gây khó khăn cho các trường
trong việc quản lý chất lượng đào tạo. Bên cạnh đó sự gắn bó lâu dài giữa đội ngũ
giảng viên cơ hữu - đội ngũ được tuyển dụng chính thức với nhà trường khá lỏng
lẻo; trong số đó số lượng đội ngũ giảng viên có trình độ và uy tín khoa học còn
thiếu... Chính vì vậy, đòi hỏi các trường đại học dân lập phải có những biện pháp
quản lý đội ngũ giảng viên, đặc biệt là đối với đội ngũ giảng viên cơ hữu, phải có sự
quan tâm và đầu tư nhiều hơn, để xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên này
vững vàng, trở thành lực lượng nòng cốt của các trường đại học dân lập, góp phần
đảm bảo chất lượng đào tạo của các trường đại học dân lập, đồng thời giúp cho các
trường đại học dân lập thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục đại học về đào
tạo nguồn nhân lực trong giai đoạn "công nghiệp hóa, hiện đại hóa" đất nước và đặc
biệt là đào tạo cung cấp cho khu vực miền trung một lực lượng lao động có trình độ
đại học đang là điều cấp thiết.
1.2.3.3- Giảng viên, giảng viên cơ hữu:

Điều 61 Luật giáo dục nêu rõ "Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy,
giáo dục trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục khác. Nhà giáo dạy ở các cơ sở
mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở các cơ sở
giáo dục đại học và sau đại học gọi là giảng viên".
Có 02 loại giảng viên: giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng.
Trong hệ thống các trường dân lập tỷ lệ giảng viên thỉnh giảng lớn hơn so với các
trường công lập, vì vậy việc xây dựng đội ngũ giảng viên cơ hữu ngày càng mạnh
mẽ về chất lượng, nhiều về số lượng là yêu cầu đặt ra hiện nay.


19
GVCH là khái niệm dùng để chỉ giảng viên được tuyển dụng giảng dạy cho
Nhà trường nào đó 100% thời gian làm việc tại Trường, họ là thành viên chính thức
của nhà trường, được hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của nhà nước.
1.2.4.4- Đội ngũ giảng viên:
Trong Từ điển tiếng việt có giải thích "đội ngũ" như sau "đội ngũ là tập hợp
gồm một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp thành một lực lượng ".
Vậy đội ngũ giảng viên là tập hợp các nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy và
NCKH ở các trường cao đẳng và đại học, họ liên kết với nhau bằng hệ thống mục
tiêu giáo dục; cùng trực tiếp giảng dạy và giáo dục SV. Cùng chịu sự ràng buộc của
những quy tắc có tính chất hành chính của ngành giáo dục và nhà nước.
1.3 NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG
BỐI CẢNH HIỆN NAY:
1.3.1/ Bối cảnh KT - XH hiện nay.
a./ Bối cảnh thế giới:
- Hiện nay toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu khách quan trong tiến trình phát
triển của thế giới. Toàn cầu hóa về kinh tế chính là kết quả của sự phát triển cao độ
của quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động quốc tế. Sự đa dạng về
cấp độ phát triển, sự khác biệt về đặc điểm địa – chính trị và địa hình – kinh tế cùng
những đặc điểm khác biệt về bản sắc văn hóa – xã hội đang làm cho các hình thức,

nội dung liên kết kinh tế, hội nhập quốc tế đa dạng, phong phú.
- Nền kinh tế toàn cầu đang trải qua sự thay đổi, cạnh tranh và hội nhập chưa
từng có tiền lệ. Đông Nam Á - một điểm tăng trưởng nổi bật của khu vực và thế giới
sẽ ngày càng đối mặt với thách thức đuổi kịp sự phát triển của thị trường thương
mại toàn cầu và tìm ra những giải pháp đổi mới để tận dụng lợi thế qua việc trao đổi
thông tin trên trang WEB - cái đang hình thành thị trường thương mại của thế kỷ
21. Trong thay đổi nhanh chóng đó, vai trò của trường đại học (ĐH) trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội phải được đánh giá lại. Trường ĐH nơi có truyền thống
cung cấp tri thức cho xã hội, bây giờ phải vượt ra khỏi truyền thống đó để tăng
cường mức độ hợp tác với khu vực sản xuất. Bốn xu thế toàn cầu chủ yếu trong


20
giáo dục đại học sẽ tác động tới quá trình này : Đại chúng hoá, Tự do hóa, Quốc tế
hoá, Hiện đại hóa
- Trên thế giới hiện nay đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
đang trên đà phát triển mạnh mẽ và không ngừng với những bước nhảy vọt về tốc
độ, quy mô, thành tựu. Các phát minh ngày càng được áp dụng rộng rãi vào đời
sống con người. Thông tin và tri thức trở thành nguồn lực chủ yếu và không thể
thiếu được cho sự phát triển của mỗi quốc gia và lợi thế cạnh tranh của tất cả các
nước trên thế giới.
- Đặc biệt là sự phát triển xã hội thông tin trong cuộc cách mạng thông tin đòi
hỏi trình độ của nguồn nhân lực phải cao hơn và năng động hơn. CNTT đã và đang
làm thay đổi bản chất của lao động, biến đổi tổ chức sản xuất và quá trình sản xuất.
Cách thay đổi này đang làm thay đổi xã hội, là thay đổi cả lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất và điều kiện làm việc của người lao động. Trong xã hội thông tin người
lao động có được tính độc lập cá nhân trong tổ chức làm việc, nhưng lại cần một lực
lượng tri thức lớn để hội nhập vào thị trường lao động thế giới.
- Trước yêu cầu phát triển KT-XH và văn hoá trong phát triển giáo dục càng
chứng tỏ là một trong những yếu tố hết sức quan trọng để phát triển. Đối với giáo

dục đang diễn ra ở nhiều nơi và đang tạo nên những thay đổi sâu sắc từ quan điểm,
định hướng lý luận và giá trị giáo dục cho đến việc xây dựng hệ thống xác định mục
tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục. Đây là nhiệm vụ trọng tâm không chỉ đối
với ngành giáo dục mà toàn xã hội, nhằm tạo điều kiện cho giáo dục phát triển
không ngừng, với mục đích là cung cấp đủ số lượng và chất lượng một đội ngũ
nhân lực đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước. Hệ thống
giáo dục không còn khép kín, mà trở thành hệ thống mở, liên thông và cơ chế vận
hành linh hoạt nhằm góp phần xây dựng một xã hội học tập theo khẩu hiệu "Học tập
suốt đời". Nội dung giáo dục ngày càng được cập nhật với thành tựu của khoa học,
công nghệ, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội. Phương pháp
dạy học được đổi mới theo hướng làm cho người học tích cực chủ động trong quá
trình nhận thức và nâng cao được năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự học, phát


21
triển các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo trong tư duy. Giáo dục thực sự đóng
vai trò chủ yếu trong việc hình thành và phát triển một hệ thống giá trị và năng lực
của con người, đáp ứng được những đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế - xã hội
trong bối cảnh hội nhập ngày càng rộng rãi trên thế giới.
b./ Bối cảnh trong nước:
- Sự phát triển của giáo dục nói chung và đặc biệt là giáo dục đại học nói riêng
không thể đứng ngoài quỹ đạo của xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế hiện nay. Đại
hội Đảng X chỉ rõ mục tiêu phấn đấu để Giáo dục và đào tạo thực sự là quốc sách
hàng đầu thông qua việc đổi mới toàn diện Giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Những biện pháp cụ
thể là : đổi mới cơ cấu, tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng
“chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”…Cần chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay
sang mô hình giáo dục mở, mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời,
đào tạo liên thông giữa các bậc học, ngành học,..Đổi mới hệ thống giáo dục đại học
cần có sự gắn kết đào tạo với nghiên cứu khoa học, công nghệ với sử dụng, trực tiếp

phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động. Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục; thực hiện
phân cấp, tạo động lực và sự chủ động của các cơ sở, các chủ thể tiến hành giáo
dục. Nhà nước cần phải tăng cường đầu tư tập trung cho các mục cần ưu tiên, các
chương trình quốc gia phát triển giáo dục cần phải được đẩy mạnh.
- Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta tiến hành trong điều kiện
có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Các nguồn đầu tư và phát triển loại hình sản
xuất trở nên đa dạng, thị trường lao động được mở rộng với yêu cầu mới. Do vậy cơ
cấu lao động càng đa dạng, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cũng đòi hỏi cao và
đa dạng hơn, dần dần nhu cầu đào tạo thay đổi tác động đến ngành giáo dục phải
thay đổi, hệ thống, mục tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo.
- Xã hội ta phát triển không ngừng về mọi mặt đã thúc đẩy và tạo điều kiện
cho giáo dục ngày một đổi mới, vừa phục vụ có hiệu quả cho quá trình phát triển
kinh tế, văn hóa theo kịp xu thế chung của Trường. Ngược lại xã hội cũng đòi hỏi
giáo dục phải khẩn trương và mạnh mẽ hơn nữa trong việc quán triệt các định


22
hướng và thực hiện tốt hơn nữa các mục tiêu giáo dục. Đặc biệt phải tập trung vào
việc tiếp tục tìm kiếm và thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trên cơ
sở phát triển hợp lý quy mô giáo dục, đồng thời khắc phục được về cơ bản những
biểu hiện tiêu cực kéo dài.
Trong bối cảnh trong nước và thế giới như vậy, thì chúng ta đang có những cơ
hội và thách thức nhất định.
- Về cơ hội: Chúng ta có thể nâng cao trình độ đào tạo nguồn nhân lực để đáp
ứng yêu cầu không chỉ trong nước mà có thể phát triển đội ngũ này trong thị trường
lao động thế giới. Với sự giao lưu quốc tế rộng rãi, đội ngũ nhân lực nước ta có cơ
hội học tập, tiếp thu thành tựu thế giới, được rèn luyện nâng cao tay nghề, tự chiếm
lĩnh một số công nghệ kỹ thuật mới, tạo bước nhảy về chất. Yêu cầu đào tạo một
đội ngũ nhân lực như vậy cũng tạo nên việc thu hút thêm vốn đầu tư cho giáo dục từ
nhiều nguồn, tất nhiên để thực hiện được điều đó thì phải bằng mọi cách nâng cao

chất lượng và hiệu quả đào tạo. Trong bối cảnh hội nhập GD nước ta có nhiều thuận
lợi trong việc tiếp xúc với các nền giáo dục tiên tiến để tham khảo. Đặc biệt là cơ
hội hợp tác trong giáo dục được mở rộng với nhiều hình thức phong phú hơn, nhất
là trong việc đào tạo nhân lực phục vụ các ngành kinh tế mũi nhọn và trình độ cao.
- Về thách thức: Chính là vấn đề chất lượng và số lượng nguồn nhân lực. Tình
trạng một tỷ lệ lớn nhân lực chưa được đào tạo theo chuẩn, thậm chí còn thiếu hụt
rất nhiều nguồn lực con người để đáp ứng được một số ngành, trong khi chất lượng
đào tạo nói chung chưa vươn tới các yêu cầu cần thiết để đảm bảo hiệu quả công
việc. Một số ngành kinh tế chưa hình thành hoặc hình thành chưa rõ nét việc chuẩn
bị cho các ngành đó còn nhiều lúng túng. Trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng
công nghệ thông tin còn thấp. Một số phẩm chất của người lao động trong xu thế
hiện đại còn thiếu hụt (tính tự giác, tự nguyện, ý thức tổ chức kỷ luật, bản lĩnh,sáng
tạo,...). Ngành giáo dục trong chiến lược phát triển phải tìm các giải pháp để khắc
phục tình trạng trên.
Từ đó ta thấy rằng vấn đề phát triển giáo dục là một việc làm hết sức quan
trọng đối với mọi người, mọi cấp ngành lãnh đạo của đất nước. Theo chính sách của


23
Đảng và Nhà nước cũng như sự quan tâm của toàn xã hội tạo điều kiện cho giáo dục
phát triển, đồng thời cũng đặt ra cho các cơ sở giáo dục phải kịp thời điều chỉnh cơ
cấu ngành nghề, quy mô đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng kịp thời với
những biến động nhanh chóng và nhu cầu xã hội ngày càng cao về nguồn nhân lực
giáo dục đại học vừa giỏi chuyển môn nghiệp vụ vừa có trình độ ngoại ngữ, có năng
lực thích ứng với thị trường lao động, năng lực tự tạo việc làm cho mình và cho
những người khác. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trong tình hình đất nước hiện
nay là hết sức cấp bách và cần thiết nhưng bên cạnh đó phải đảm bảo về chất lượng
đào tạo. là yếu tố cũng khá quan trọng trong việc cung cấp một đội ngũ nhân lực có
chuyên môn cao, tri thức, để có thể đáp ứng được nhu cầu của XH ngày một nhiều.
1.3.2/ Những yêu cầu đặt ra đối với giáo dục ĐH trong bối cảnh hiện nay.

1.3.2.1- Trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của khoa học & công nghệ,
công nghệ cao đặc biệt là công nghệ thông tin và lưu thông, đã dẫn đến sự biến đổi
sâu sắc của lịch sử nhân loại. Nhân loại đang bước vào nền văn minh trí tuệ, một xã
hội thông tin, một nền kinh tế tri thức đang hình thành.
Giáo dục là chìa khó để đưa nhân loại tiến lên. Giáo dục đại học mang tính
quốc tế hóa và phổ quát, tác động toàn diện và sâu sắc đến mọi mặt đời sống xã hội.
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang tiến hành nhằm đưa
nước ta thành một nước công nghiệp vào khoảng 2 thập kỷ nữa.
Đường lối chung xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu "Dân giàu nước mạnh, xã
hội, công bằng, dân chủ, văn minh".
Giáo dục và khoa học công nghệ được xem là "quốc sách hàng đầu" đặc biệt là
giáo dục ở bậc đại học và sau đại học. Chính điều này đã đặt ra cho giáo dục một
trọng trách hết sức quan trọng. Chính bởi giáo dục đại học là một loại hình sản xuất
đặc biệt, sản xuất ra tri thức mới và nguồn nhân lực hàm chứa tri thức cao và phi lợi
nhuận - một nguồn lực rất cần thiết cho việc thực hiện thành công sự nghiệp "công
nghiệp hóa, hiện đại hóa" và đưa đất nước ta hội nhập cùng với thế giới.


24
Giáo dục đại học sẽ là "đòn bảy nhanh chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu,
tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH- HĐH và nền kinh tế tri thức nước ta phát
triển ngang tầm các nước phát triển, đáp ứng xu thế toàn cầu hóa".
Do đó, cần phải phát triển giáo dục đại học nhằm mục đích:
1) Đào tạo những người tốt nghiệp có chuyên môn trình độ cao,đồng thời
cũng là những công dân có trách nhiệm, có khả năng thâm nhập được vào tất cả
những lĩnh vực hoạt động con người bằng sự thành thạo nghề nghiệp kết hợp với
những tri thức và năng lực trình độ cao;3 năng lực sau đây của người tốt nghiệp ĐH
là cần thiết cho một nền kinh tế hiện đại. Đó là những người có khả năng thường
xuyên cập nhật được kiến thức của mình, chiếm lĩnh được những trình độ thành

thạo chuyên môn mới, và không những có khả năng tìm được việc làm mà còn có
khả năng tự tạo ra được việc làm trong một thị trường sức lao động đầy biến động.
Nhân lực đại học trong thời đại mới phải là nhân lực tư duy, nhân lực có tinh
thần tạo nghiệp, tự tạo việc làm.
2) Cung cấp một “không gian rộng” cho đào tạo ĐH và học tập suốt đời,
với một “phổ” chọn lựa tối ưu, mềm dẻo về đầu vào và đầu ra đối với giáo dục ĐH;
3) Thúc đẩy và truyền bá những tri thức thông qua giảng dạy, chuyên
môn hóa và nghiên cứu;
4) Giúp hiểu biết, giải thích, bảo vệ, tăng cường, thúc đẩy và truyền bá
những văn hóa dân tộc và khu vực, quốc tế và lịch sử;
5) Giúp giữ gìn và thúc đẩy những giá trị xã hội khi xử lý những vấn đề
phẩm chất và đạo đức;
6) Đóng góp vào sự phát triển và cải tiến giáo dục ở tất cả các trình độ,
nhất là trong việc đào tạo đội ngũ giảng viên
1.3.2.2- Nhà trường là trung tâm trí tuệ của xã hội, vì thế mục đích chính của
trường đại học là đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật và quản lý có trình độ đại học
và trên đại học, năng động, sáng tạo, có đầu óc phê phán, có tinh thần tự chủ, có
năng lực tự học , tự nghiên cứu suốt đời nhằm đáp ứng được đúng đắn kịp thời các
yêu cầu kinh tế - xã hội của đất nước.


25
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong quá trình GD - ĐT trong giai đoạn
hiện nay, nhà trường đại học hiện đại cần phải chú ý tới một số yêu cầu sau:
+ Nhà trường đại học hiện đại gắn chặt với khoa học và sản xuất.
+ Chức năng nhà trường đại học được mở rộng : vừa đào tạo, vừa bồi dưỡng,
vừa nghiên cứu khoa học, vừa phổ biến khoa học và tham gia sản xuất.
+ Nội dung dạy học được hiện đại hóa, gắn chặt với khoa học và sản xuất.
+ Có cuộc cách mạng trong phương pháp đào tạo.
+ Tổ chức quản lý trường đại học theo kiểu mới, theo tinh thần dân chủ công

khai, mở rộng, liên kết với các viện nghiên cứu, cơ sở sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mọi tổ
chức phải đảm bảo đạt bốn tiêu chí sau đây : chất hượng cao, hiệu quả cao, hiệu
suất cao, công bằng xã hội.
Tóm lại, vai trò của giáo dục ngày càng được nâng cao, nhu cầu học tập Đại
học của xã hội tăng nhanh; kinh tế thị trường được thúc đẩy và thành phần ngoài
Nhà nước được công nhận. Chính vì thế mà yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra cho giáo
dục đại học là hết sức cấp thiết, đòi hỏi các trường đại học - trung tâm trí tuệ của xã
hội - cần phải có những biện pháp để nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục - đào
tạo. Một trong những biện pháp quan trọng và được đặt lên hàng đầu đối với các
trường đại học đó là xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, bởi "giảng viên là
nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh".
1.4 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN:
1.4.1/ Vai trò, nhiệm vụ của giảng viên đại học.
1.4.1.1- Vai trò:
Điều 14 Luật giáo dục đã khẳng định rõ vai trò của nhà giáo như sau: "Nhà
giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Nhà giáo phải
không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học. Nhà nước tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, có chính sách bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật
chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện nhiệm vụ của mình; giữ gìn và phát huy
truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học".


×