Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ và sự vận dụng tư tưởng đó ở thành phố hồ chí minh hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.53 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHI HÙNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC
CỦA CÁN BỘ VÀ SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐĨ
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

TÓM TẮT LUẬN V N TH C S T IẾT HỌC

Hà Nội - 2017


Cơng trình được hồn thành tại Học viện khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đình Hịa

Phản biện 1: PGS.TS Phạm Ngọc Anh – Học viên
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Phản biện 2: TS. Trần Thanh Giang – Học viên và
báo chí Tuyên truyền

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc
sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội 14 giờ 30 ngày 07 tháng 4 năm
2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện Học viện khoa học xã hội



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của mình, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn xác định, con người vừa là mục tiêu vừa là
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, cán bộ là nhân
tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Do đó, việc
phát huy tính tích cực, vai trị chủ thể, tự giác sáng tạo của đội ngũ
cán bộ là vấn đề then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là thời kỳ mà đất nước
đang bước sang giai đoạn phát triển mới, với những thời cơ, vận hội
lớn đan xen cùng những thách thức, nguy cơ rất nghiệt ngã, như
“tình trạng suy thối về chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội chủ
nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ
phận cán bộ, cơng chức diễn ra nghiêm trọng”; “Tình trạng nhũng
nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một số bộ phận công chức,
nhất là ở cơ quan trực tiếp giải quyết công việc của dân và doanh
nghiệp, chậm được khắc phục”; tình trạng: “Một bộ phận cán bộ,
đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và
năng lực, vừa thiếu tính tiên phong gương mẫu, vừa khơng đủ trình
độ hồn thành nhiệm vụ”;… Đó là những biểu hiện theo chiều hướng
tiêu cực mà Đại hội X (năm 2006) Đảng ta đã chỉ ra. Tuy nhiên,
những biểu hiện đó hiện nay khơng hề giảm mà đến Đại hội XII
(2016) Đảng ta vẫn cịn nhấn mạnh: “Tình trạng tham nhũng, lãng
phí vẫn cịn nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức
tạp… Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”.
Thêm vào đó là những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
chưa được khắc phục, sự chống phá của các thế lực phản động quốc
1



tế nhằm thực hiện “âm mưu diễn biến hịa bình”; “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức tạp cả trong Đảng, trong hệ
thống chính trị và cả trong xã hội;… đã tác động không nhỏ đến
niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ. Trước thực tế đó, việc
“xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ
chức và đạo đức”, trong đó có sửa đổi lối làm việc của cán bộ theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một việc làm rất quan
trọng và rất cần thiết, chẳng những đáp ứng yêu cầu cấp bách trước
mắt mà còn có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng
của toàn Đảng và nhân dân ta; để đảm bảo Đảng ta là – Đảng lãnh
đạo, cầm quyền – thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao được
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bản lĩnh cầm quyền của Đảng.
Thành phố Hồ Chí Minh “là đơ thị đặc biệt, một trung tâm lớn
về kinh tế, văn hoá, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, đầu mối
giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu, động lực, có sức thu hút và
sức lan toả lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính
trị quan trọng của cả nước”, các ngành, các cấp và nhân dân Thành
phố, mà đi đầu là lực lượng cán bộ của Thành phố phải phát huy
truyền thống cách mạng vẻ vang, đã nỗ lực, phấn đấu bền bỉ, năng
động sáng tạo, chủ động nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn thách
thức, giành những thắng lợi to lớn, tồn diện trên tất cả các lĩnh vực:
chính trị, kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, xây dựng Ðảng, an
ninh quốc phịng, duy trì tốc độ phát triển hợp lý. Muốn vậy, trước
hết cán bộ Thành phố cần phải sửa đổi lối làm việc để có thể nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị Thành phố, thật sự trở
thành động lực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo sự phát triển
nhanh và bền vững của Thành phố, xứng đáng là trung tâm lớn về
kinh tế, văn hoá, giáo dục và đào tạo của đất nước. Trước yêu cầu

2


đó, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối
làm việc của cán bộ và sự vận dụng tư tưởng đó ở thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay” để làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành
triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến hiện nay việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được
triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, với nhiều tác phẩm, cơng
trình, đề tài khoa học nghiên cứu công phu theo nhiều hướng khác
nhau được công bố. Trong phạm vi những nội dung có liên quan đến
đề tài luận văn, có thể khái quát thành các hướng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức, tác phong của cán bộ nói chung. Có các cơng trình tiêu
biểu đã cơng bố như: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, đề tài
KX-02-08 thuộc chương trình khoa học và cơng nghệ cấp Nhà nước
– Tư tưởng Hồ Chí Minh (KX-02) do PGS, PTS. Nguyễn Văn Truy
(chủ nhiệm), Hà Nội, 1994; “Từ Các Mác đến Hồ Chí Minh một
dịng chảy văn hóa” của tác giả Trần Đình Huỳnh (chủ biên), Nxb.
Hà Nội, 2003;“Triết học văn hóa trong đạo đức Hồ Chí Minh” của
GS, TS. Hồ Sỹ Vịnh, Nxb. Dân Trí, 2014; “Tư tưởng triết học Hồ
Chí Minh – một số vấn đề cơ bản” do PGS,TS. Trần Văn Phòng và
PGS, TS. Hồng Anh biên soạn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2015;“Học tập đạo đức Bác Hồ” của giáo sư Vũ Khiêu, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2015;“Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường
cách mạng Việt Nam” (mã số KX.02.01) thuộc chương trình khoa
học và cơng nghệ cấp Nhà nước KX.02, do Đại tướng Võ Nguyên
Giáp (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, 2015; “Học tập tấm gương
đạo đức Bác Hồ” của Bảo tàng Hồ Chí Minh, Nxb.Thanh niên.

3


Thứ hai, các cơng trình nghiên cứu sự vận dung tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức, tác phong của cán bộ ở phạm vi một đối
tượng, một địa phương, một ngành, tiêu biểu có các cơng trình: “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức cho sinh viên ở
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” của ThS.Phạm Tấn Xuân Tước,
PGS, TS. Huỳnh Thị Gấm, Nxb. Lý luận chính trị, 2008;“Văn hóa
Hồ Chí Minh” của các tác giả Nguyễn Hữu Đảng, Lê Ngọc Y, Trần
Thị Hồng Thúy, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014;“Tư tưởng
Hồ Chí Minh về Công an nhân dân - Giá trị lý luận và thực tiễn” của
Thượng tướng, PGS, TS. Tô Lâm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2015;“Hồ Chí Minh - sáng tạo, đổi mới” của PGS.TS. Bùi Đình
Phong, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2015;“Luận cứ khoa
học và một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường
trong giai đoạn hiện nay” do TS. Nguyễn Duy Hùng (chủ biên), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007;“Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố - hiện đại
hoá - Luận cứ và giải pháp”, do TS. Lê Phương Thảo (chủ biên),
Nxb. Lý luận chính trị. Hà Nội, 2005; “Một số vấn đề về xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc Tây
Nguyên”, do GS,TS. Lê Hữu Nghĩa (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc
gia. Hà Nội, 2001;“Phong cách Bác Hồ đến cơ sở” của Hồng
Khanh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nhìn chung, tất cả các ấn phẩm, các cơng trình, bài viết nêu
trên đã đề cập sâu sắc đến các góc độ khác nhau của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức, tác phong làm việc của cán bộ. Vì vậy, Kế thừa
4



những thành quả của các cơng trình nghiên cứu trên, trong luận văn
này tác giả trình bày một cách có hệ thống nguồn gốc, nội dung và
đặc điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán
bộ, góp phần làm sáng tỏ sự vận dụng tư tưởng của Người trong việc
sửa đổi lối làm việc của cán bộ, mà cụ thể là cán bộ ở thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi
lối làm việc của cán bộ và sự vận dụng tư tưởng đó của cán bộ ở
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần phải giải quyết
những nhiệm vụ: Một là, phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
về sửa đổi lối làm việc; Hai là, phân tích thực trạng việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ ở thành phố
Hồ Chí Minh; Ba là, đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy tư
tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ ở thành
phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là tư tưởng
Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ và việc vận dụng tư
tưởng đó của cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tư tưởng Hồ Chí Minh về
sửa đổi lối làm việc của cán bộ, chủ yếu qua tác phẩm “Sửa đổi lối
5


làm việc” và sự vận dụng tư tưởng đó ở thành phố Hồ Chí Minh từ

năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Đồng thời, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác như:
phương pháp nghiên cứu chuyên ngành kết hợp với phương pháp
nghiên cứu liên ngành, phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh
và đối chiếu, diễn dịch và quy nạp, lơgích và lịch sử, thống kê, khảo
sát, hệ thống hóa, khái quá hóa để nghiên cứu đề tài luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, luận văn đã hệ thống nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ, đồng thời phân tích làm rõ
những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của
cán bộ.
Về thực tiễn, luận văn góp phần nâng cao nhận thức đúng đắn
của học viên về vai trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm
việc của cán bộ ở Việt Nam nói chung, cán bộ ở thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
cho công tác giảng dạy, học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở lý
luận để cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh tham khảo nhằm thực hiện
tốt cuộc vận động: “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” do Bộ Chính trị phát động.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.
6


Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của

cán bộ: Nội dung và ý nghĩa.
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối
làm việc của cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh: Thực trạng, nguyên
nhân và giải pháp.
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC
CỦA CÁN BỘ: NỘI DUNG VÀ Ý NGH A
1.1. Một số khái niệm cơ bản: cán bộ, sửa đổi lối làm việc
1.1.1. Khái niệm cán bộ
Có nhiều cách hiểu về khái niệm cán bộ nhưng tựu trung lại,
có hai cách hiểu cơ bản:
Một là, cán bộ là những người trong biên chế nhà nước, làm
việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đồn thể chính trị - xã
hội, các doanh nghiệp nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân
từ trung ương đến cơ sở.
Hai là, cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ
quan hay tổ chức, cách hiểu này để phân biệt với những người khơng
có chức vụ.
Theo chúng tôi, khái niệm cán bộ thường được dùng để chỉ
những người đứng đầu hoặc người làm công tác chuyên môn trong
một tổ chức lãnh đạo, quản lý xã hội có chức năng tổ chức, phối hợp
hành động của các thành viên trong một nhóm, một tập đồn người
nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định đã được đề ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi "Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”, muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, để phát huy
mạnh mẽ ảnh hưởng của mình vào trong quần chúng, giáo dục giác
7



ngộ động viên và tập hợp đông đảo quần chúng cách mạng thành lực
lượng hùng hậu, thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của mình,
Đảng ta phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và của cả
hệ thống chính trị.
1.1.2. Sửa đổi lối làm việc
Sửa đổi lối làm việc là thay đổi cách thức làm việc cho phù
hợp với yêu cầu của thời đại để đạt hiệu quả cao.
Trong quan niệm trên, nói đến thay đổi cách thức làm việc, tức
đồng thời cũng là nói đến thay đổi cung cách, quy trình làm việc. Để
kết quả làm việc đạt hiệu quả cao, cán bộ cần phải thay đổi cung
cách, quy trình làm việc cũ, bằng cung cách quy trình làm việc mới
cho phù hợp với yêu cầu của thời đại, làm tròn sứ mệnh là người đầy
tớ của nhân dân.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của
cán bộ được thể hiện trong nhiều tác phẩm: “Đường cách mệnh”
(năm 1927), “Đời sống mới” (1947), “Tự phê bình và phê bình”
(1955), “Đạo đức cách mạng” (1958), “Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (1969), “Di chúc” (1969),…
Tuy nhiên, có thể nói, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối
làm việc của cán bộ thể hiện nổi bật nhất trong tác phẩm “Sửa đổi lối
làm việc” (1947). Trong phạm vi luận văn này, khi bàn về nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ, chúng tôi
chỉ phân tích những nội dung cơ bản nhất trong tác phẩm “Sửa đổi
lối làm việc”.
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Hồ Chí Minh viết vào
tháng 10-1947. Tác phẩm được xác định như một văn kiện có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhằm xây dựng và củng cố Đảng
8



thành một đảng Mác - Lênin chân chính, đủ sức lãnh đạo sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc đến thắng lợi vẻ vang. Ngay sau khi cách
mạng thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, trước
những nhiệm vụ lớn của cách mạng và của đất nước, Người đã viết
tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”.
Về mục đích, tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” nhằm nâng cao
trình độ lý luận, nâng cao tư tưởng và tình cảm cách mạng, nâng cao
phẩm chất đạo đức, tác phong công tác của người cán bộ cách mạng,
nâng cao năng lực lãnh đạo nhằm đáp ứng các yêu cầu mới của cách
mạng. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
phê phán “chủ nghĩa cá nhân” vì đó là một thứ “vi trùng rất độc” nó
sinh ra các khuyết điểm nghiêm trọng như bệnh tham lam, lười
biếng, kiêu ngạo, ham địa vị, thiếu kỷ luật, óc hẹp hịi, óc địa
phương, óc lãnh tụ, bệnh “hữu danh vô thực”, kéo bè, kéo cánh, bệnh
cận thị khơng biết nhìn xa, trơng rộng... Đồng thời, Hồ Chí Minh
vạch ra ngun nhân và phương hướng khắc phục. Tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc” không chỉ nhằm phê phán mà chủ yếu là cách
mạng. Bởi vì, cách mạng mới là động lực của lịch sử. Đảng là lực
lượng tiên phong, ưu tú nhất của xã hội, là đầu tàu của lịch sử.
Nghiên cứu tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, chúng tôi nhận
thấy, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán
bộ thể hiện nổi bật nhất có thể khái qt ở các nội dung chính sau:
1.2.1. Tích cực học tập nâng cao trình độ
Tích cực học tập nâng cao trình độ lý luận, văn hóa, tri thức
khoa học,… của cán bộ đảng viên được Hồ Chí Minh đặt lên hàng
đầu trong việc sửa đối lối làm việc của cán bộ và xây dựng đội ngũ
cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh nhấn mạnh trước hết
đến sự cần thiết phải học tập và kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin. Bởi
9



chủ nghĩa Mác -Lênin là thế giới quan và phương pháp luận cách
mạng khoa học của giai cấp vô sản và các lực lượng tiến bộ trong
thời đại mới.
Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là điều cần thiết để nâng cao
năng lực trí tuệ của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhưng chưa đủ, Hồ
Chí Minh địi hỏi cán bộ, đảng viên phải học tập nghiên cứu “những
chỉ thị, nghị quyết, luật, lệnh của Đồn thể và Chính phủ”, vì những
chỉ thị, nghị quyết, luật, lệnh đó, rút cuộc, khơng chỉ là sự vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam mà còn là kết quả
phản ánh khách quan hiện thực xã hội Việt Nam trong từng giai đoạn
lịch sử cách mạng.
1.2.2. Sửa chữa khuyết điểm (phê bình), khắc phục bệnh
quan liêu, chủ quan, hẹp hòi, ba hoa
Hồ Chí Minh rất coi trọng sự nỗ lực, tu dưỡng của từng cán
bộ, đảng viên. Bởi sự nỗ lực, tu dưỡng của từng cán bộ, đảng viên nó
quyết định sự chuyển biến của toàn Đảng, của bộ máy Nhà nước. Hồ
Chí Minh yêu cầu tất cả mọi người phải thường xuyên sửa chữa
khuyết điểm (phê bình), khắc phục bệnh quan liêu, chủ quan, hẹp
hòi, ba hoa, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cán bộ lãnh đạo,
quản lý mắc những bệnh tật ấy, khơng hiểu được chính cái mạnh, cái
yếu của mình, do vậy khơng thể hiểu được người khác.
Sửa chữa khuyết điểm (phê bình) theo Hồ Chí Minh đó là việc
làm dân chủ và nhân đạo. Bản chất của sửa chữa khuyết điểm (phê
bình) là hướng về cái tốt, cái đẹp. Chính vì vậy mà quan điểm phê
bình của Hồ Chí Minh khơng đồng nhất với phê phán và trừng trị.
Với Người, phê phán chỉ là sự mổ xẻ một bệnh mang ý nghĩa như là
sự khởi nguyên của một quy trình để chữa lành con bệnh làm cho
con người tồn tại, phát triển khỏe mạnh. Mổ xẻ chỉ có thể có ý nghĩa

10


khi nó đạt tới cái thiện và cái đẹp. Cịn Phê bình cốt là để phát huy
ưu điểm, sửa chữa khuyến điểm, để tư tưởng và hành động được
đúng hơn, và tốt hơn, để làm việc có hiệu quả hơn.
Đi đơi với sửa chữa khuyết điểm (phê bình), theo Hồ Chí
Minh, cán bộ cần phải khắc phục bệnh quan liêu, bệnh chủ quan,
loại bỏ thói ba hoa. Quan liêu, chủ quan là không đi sát với công
việc thực tế, xa lánh, xem thường quần chúng, tất cả những công việc
thường ngày được đánh giá, nhận xét trên sổ sách, giấy tờ, thiếu sự
kiểm tra thực tế dẫn đến kết quả là những người xấu, kém năng lực,
phẩm chất có cơ hội tham ơ, lãng phí.
1.2.3. Thực hành dân chủ, liên hệ mật thiết với quần chúng
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tập trung dân chủ trong tổ chức và
sinh hoạt Đảng là sự thống nhất biện chứng giữa dân chủ và tập
trung. Tập trung dân chủ là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Do
đó, độc đốn, chun quyền là hoàn toàn xa lạ với nguyên tắc này.
Tập thể lãnh đạo bảo đảm việc thực thi dân chủ nhưng tập thể lãnh
đạo không phải là dựa dẫm vào nhau, mà là sử dụng trí tuệ tập thể.
Ngồi ra, cán bộ lãnh đạo liên hệ giữa Đảng với quần chúng
nhân dân là điều kiện quan trọng để nâng cao đạo đức cách mạng của
Đảng. Để làm tốt điều này, chúng ta phải thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Song để thực hiện nguyên
tắc này, hiện nay chúng ta gặp khơng ít những thử thách, đó là sự tác
động mạnh mẽ của tiến trình hội nhập, giao lưu quốc tế; sự tác động
tiêu cực của nền kinh tế thị trường; sự chống phá của kẻ thù … Nếu
khơng vượt qua những thách thức trên thì dẫn đến tình trạng phường
hội, bè phái, vơ chính phủ trong các tổ chức Đảng và sẽ cắt đứt mối
quan hệ bản chất giữa Đảng với nhân dân.

11


1.2.4. Xây dựng Đảng, nêu cao trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên
Xây dựng Đảng, nêu cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên
trước hết là xây dựng đạo đức đối với người đảng viên được thể hiện:
Trong chính trị – tư tưởng, lối sống, trong sinh hoạt Đảng.
Trong chính trị – tư tưởng có thể khẳng định giá trị đạo đức
đầu tiên của người cán bộ, đảng viên của Đảng là thái độ đối với độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phải nhận thức được
rằng: độc lập dân tộc và quá độ lên chủ nghĩa xã hội là qui luật phát
triển khách quan của thời đại.
Trong lối sống, sinh hoạt, đây là thước đo quan trọng để đánh
giá phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thường dạy cán bộ, đảng viên: Thật sự cần kiệm, liêm
chính, chí cơng vô tư.
1.2.5. Coi trọng công tác cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trị to lớn của đội ngũ cán
bộ trong sự nghiệp cách mạng, bởi cán bộ là người đem chính sách
của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành,
đồng thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ
hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Trong cơng tác cán bộ, cần chú
ý đến những yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống của
người cán bộ. Tiêu biểu các phẩm chất đó là: Trung thành với Tổ
quốc, với Đảng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; Có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh.
1.2.6. Đổi mới phong cách lãnh đạo
Khi bàn về phong cách lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo,
quản lý, Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Trên cơ sở tự hiểu mình, cần phải

có phương pháp xem xét để hiểu cán bộ một cách thấu đáo, không
12


nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả
tồn bộ cơng việc của cán bộ”; phải nhìn nhận người cán bộ với con
mắt động, phát triển, không nên định kiến, “quyết không nên chấp
nhặt”, nên nhớ rằng “một người cán bộ khi trước có sai lầm, khơng
phải vì sai lầm mãi”.
Khéo dùng cán bộ xuất phát từ việc tập hợp được sức lực và
tài năng của mọi người vào việc hoàn thành nhiệm vụ chung. Nếu
dùng cán bộ mà để họ “hoang mang, sợ hãi, buồn rầu, uất ức hoặc
công tác không phù hợp, chắc khơng thành cơng được. Vì vậy, muốn
cán bộ làm được việc, phải khiến cho họ yên tâm làm việc, vui thú
làm việc.
Ngoài ra, đổi mới phong cách lãnh đạo là mạnh dạn cất nhắc
cán bộ. “Cất nhắc cán bộ là xuất phát từ yêu cầu của công việc. “Vì
việc chọn người”, “cơng việc tìm người” chứ khơng thể “vì người mà
tìm việc”, vì lịng u ghét thân thích, vì nể nang, cánh vế, dịng tộc,
đồng hương…
1.3. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi lối làm việc
Sửa đổi lối làm việc của cán bộ là tư tưởng quan trọng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng và xây dựng đội
ngũ cách mạng. Đây là một tư tưởng có tính lý luận, tính chiến đấu
và tính thực tiễn sâu sắc. Tư tưởng Sửa đổi lối làm việc của cán
bộ đã bao quát những vấn đề rộng lớn trong toàn bộ các mối quan hệ
và các nguyên tắc, phương pháp, lề lối, cách thức làm việc của Đảng,
Nhà nước và của cán bộ, đảng viên mà trung tâm là mối quan hệ giữa
người với người. Đảng viên, cán bộ là những chiếc cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân. Mọi việc thành công hay thất bại đều

do cán bộ tốt hay kém. Sửa đổi lối làm việc của cán bộ là khắc phục
khuyết điểm, phát huy ưu điểm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, sửa
13


đổi cách lãnh đạo của Đảng để xây dựng mối quan hệ tốt hơn giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân theo nguyên tắc dân làm chủ. Do vậy,
sửa đổi lối làm việc của cán bộ hiện nay là cán bộ cần:
Một là, nâng cao trình độ chun mơn, trình độ lý luận
Hai là, nâng cao đạo đức cách mạng: loại bỏ bệnh hẹp hòi,
bệnh ba hoa, tự cao tự đại, bệnh chủ quan, tham danh vọng, địa vị,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bệnh nể nang
Ba là, nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, vận dụng sáng tạo
kinh nghiệm, vận dụng tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, thường xuyên đấu tranh phê bình và tự phê bình
Tiểu kết chương 1
Cán bộ cần phải thường xuyên thay đổi cung cách, quy trình
làm việc cũ, bằng cung cách quy trình làm việc mới cho phù hợp với
yêu cầu của thời đại, làm tròn sứ mệnh là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân, tức cán bộ phải thường xuyên “Sửa đổi lối làm
việc” theo hướng tích cực học tập nâng cao trình độ; sửa chữa khuyết
điểm (phê bình), khắc phục bệnh quan liêu, chủ quan, hẹp hòi, ba
hoa; thực hành dân chủ, liên hệ mật thiết với quần chúng; Xây dựng
Đảng, nêu cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên; coi trọng công tác
cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo. Từ đó, nâng cao trình độ lý
luận, nâng cao tư tưởng và tình cảm cách mạng, nâng cao phẩm chất
đạo đức, tác phong công tác của người cán bộ cách mạng, nâng cao
năng lực lãnh đạo nhằm đáp ứng các yêu cầu mới của cách mạng.
Có thể khẳng định, tư tưởng sửa đổi lối làm việc của cán bộ
đến nay vẫn còn nguyên giá trị nóng hổi đối với sự nghiệp cách

mạng nước ta hiện nay, đặc biệt với quá trình đổi mới và chỉnh đốn
Đảng, đổi mới đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong thời kỳ
mới; thật sự là đỉnh cao của trí tuệ nhân loại trong xây dựng Đảng và
xây dựng cán bộ của nhân dân, do dân dân và vì dân nhân.
14


Chương 2
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỬA ĐỔI
LỐI LÀM VIỆC CỦA CÁN BỘ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH: THỰC T

NG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP

2.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sửa đổi
lối làm việc của cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh và nguyên
nhân của nó
2.1.1. Thành tựu trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về sửa đổi lối làm việc của cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay và nguyên nhân của nó
Những thành tựu trong việc sửa đổi lối làm việc của cán bộ
theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở thành phố Hồ Chí Minh có thể khái
quát qua một số khía cạnh nổi bật nhất đó là:
Về nâng cao trình độ chun mơn, trình độ lý luận
Một trong những thành tựu nổi bật về nâng cao trình độ
chun mơn của cán bộ, đáp ứng các yêu cầu mới của cách mạng,
làm tròn sứ mệnh là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân ở
thành phố Hồ Chí Minh đó là việc ứng dụng, phát triển công nghệ
thông tin trong giải quyết công việc, nâng cao hiệu quả hoạt động
của các cấp chính quyền Thành phố, tiến tới xây dựng thành cơng

Chính quyền điện tử ở thành phố Hồ Chí Minh.
Đồng thời với nâng cao trình độ chun mơn cho cán bộ, trong
những năm qua, cơng tác nâng cao trình độ lý luận chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, lịch
sử, truyền thống, lý tưởng đạo đức cách mạng những năm qua ở
thành phố Hồ Chí Minh được tăng cường thường xuyên trong cán
bộ, đảng viên; đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng được củng cố,
phát triển đến cơ sở, tổ chức hoạt động thường xuyên hơn.
15


Thành phố đã từng bước đổi mới phương thức học tập, quán
triệt nghị quyết của Đảng, đề cao ý thức tự nghiên cứu của cán bộ,
thảo luận thẳng thắn trong cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý để tạo
sự thống nhất nhận thức, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch
thực hiện nghị quyết phù hợp với thực tiễn địa phương, đơn vị.
Công tác nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội được quan tâm,
đảm bảo kịp thời, chính xác, khách quan thơng qua đội ngũ cộng tác
viên dư luận xã hội ngày càng nâng cao về số lượng và chất lượng,
phương pháp nghiên cứu đa dạng, khoa học. Đa số cán bộ, đảng viên
và Nhân dân tin tưởng vào Đảng, vào công cuộc đổi mới và triển
vọng phát triển của đất nước, thành phố.
Về nâng cao đạo đức cách mạng: loại bỏ bệnh hẹp hòi, bệnh
ba hoa, tự cao tự đại, bệnh chủ quan, tham danh vọng, địa vị, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, bệnh nể nang ...
Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng và chính quyền Thành
phố đã tập trung chỉ đạo, tạo chuyển biến tích cực trong đẩy mạnh
học tập và theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với khắc phục,
sửa chữa hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm tự phê bình, tiếp thu
phê bình trong lực lượng cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý trong các

cấp chính quyền của Thành phố. Bên cạnh đó, Thành ủy Thành phố
Hồ Chí Minh đã quyết tâm, kiên trì lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các
nhóm giải pháp theo ba vấn đề cấp bách của Nghị quyết Trung ương
4 khóa XI.
Về nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, vận dụng sáng tạo
kinh nghiệm, vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, thường xuyên đấu tranh phê bình và tự phê bình
Trong những năm qua, nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn,
vận dụng sáng tạo kinh nghiệm, vận dụng nguyên tắc thống nhất
16


giữa lý luận và thực tiễn, thường xuyên đấu tranh phê bình và tự phê
bình của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh từng bước được chú trọng,
đổi mới, nhất là đối với hệ thống chính trị, tăng cường mối liên hệ
mật thiết với nhân dân. Các cấp ủy đã thực hiện sự lãnh đạo, tổ chức
thực tiễn đối với những vấn đề trọng yếu; phát huy trách nhiệm, tính
năng động, tính sách tạo, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm, vận dụng
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chính quyền, mặt
trận và các đồn thể chính trị - xã hội, giữ vững nguyên tắc tập trung
dân chủ, đề cao vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu, chú trọng
mở rộng, phát huy dân chủ, thường xuyên đấu tranh phê bình và tự
phê bình trong Đảng; đồng thời thực hiện nhiều biện pháp phát huy
dân chủ trong các tầng lớp nhân dân. Đội ngũ cán bộ, đảng viên có
nhiều nỗ lực đề cao ý thức và hành động gương mẫu trong công tác
và cuộc sống, xem xét đó là yếu tố quyết định nhằm xây dựng, bảo
đảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền Thành phố;
đẩy mạnh thực hiện cơng tác vận động nhân dân với tinh thần trọng
dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với nhân dân. Bởi
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, dựa vào dân để xây dựng

Đảng, chính quyền, xây dựng, phát triển và bảo vệ Thành phố là vấn
đề cốt lõi có ý nghĩa quyết định thắng lợi, động lực và mục tiêu của
tiến trình đổi mới chính là ở sức mạnh của toàn dân và được tạo ra
khi phát huy được quyền làm chủ.
Cơng tác xây dựng Đảng bộ về chính trị, tư tưởng và tổ chức
được tăng cường; thực hiện nhiều biện pháp nâng cao chất lượng
hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng; vai trị lãnh đạo của
nhiều tổ chức Đảng, tính tiên phong gương mẫu của phần lớn cán bộ,
đảng viên được củng cố và phát huy, hồn thành tốt nhiệm vụ chính
17


trị, giữ vững niềm tin của đại đa số quần chúng nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng và công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Công tác đảng viên cũng được Đảng bộ Thành phố quan tâm,
số lượng đảng viên mới kết nạp hàng năm đều tăng, chú trọng đến
cơng nhân, trí thức, văn nghệ sĩ, báo chí, thế hệ trẻ… có phẩm chất
tốt và trình độ học vấn, khoa học kỹ thuật cao, tạo nên sức sống
mạnh mẽ của Đảng bộ, đáp ứng nhiệm vụ trong các giai đoạn phát
triển của sự nghiệp đổi mới, nhất là q trình tiến hành cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Song song đó, cơng tác cán bộ
ngày càng được Thành phố chú trọng; thực hiện chiến lược cán bộ
trong thời kỳ mới.
Nguyên nhân của thành tựu
Thứ nhất, Đảng ta đang triển khai thực hiện Nghị quyết 12NQ/TW về “một số vấn đề cấp bách xây dựng Đảng hiện nay”, cán
bộ, đảng viên trong bộ máy chính quyền Thành phố cùng với tồn
Đảng đang ở trong khơng khí đấu tranh loại bỏ bệnh hẹp hịi, bệnh ba
hoa, tự cao tự đại, bệnh chủ quan, tham danh vọng, địa vị, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân, bệnh nể nang, tự phê bình và phê bình, chống lại
các biểu hiện suy thoái, cá nhân sai phạm,… lan tỏa khắp các cơ sở

Đảng và chính quyền các cấp.
Thứ hai, Thành ủy đã lãnh đạo chặt chẽ quá trình củng cố hệ
thống chính quyền các cấp, nhất là hệ thống chính trị cấp cơ sở.
Thứ ba, sự quan tâm của cán bộ, đảng viên và nhân dân Thành
phố về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nên đông đảo cán bộ,
đảng viên và nhân dân Thành phố mạnh dạn đấu tranh chống lại
những biểu hiện tiêu cực, những cán bộ thối hóa, biến chất, những
cán bộ xa rời phẩm chất đạo đức cách mạng, không xứng đáng với
18


niềm tin và sự tín nhiệm của nhân dân, mạnh dạn loại bỏ những cán
bộ suy thoái, biến chất ra khỏi tổ chức.
2.1.2. Một số hạn chế trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh
và ngun nhân của nó
Hạn chế trong nâng cao trình độ chun mơn, trình độ lý luận
Trong những năm qua, xét về năng lực chun mơn: có tri
thức, hiểu biết, ln sâu sát và nắm bắt kịp thời những vấn đề phát
sinh trong thực tiễn,… của một bộ phận cán bộ ở thành phố Hồ Chí
Minh, nhất là cán bộ cấp cơ sở cịn hạn chế, trong khi đó, với tính
chất công việc, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở cũng phải
cần có hiểu biết đầy đủ và kịp thời những vấn đề của cuộc sống sẽ
giúp người cán bộ lãnh đạo chủ chốt có tầm “nhìn xa, trông rộng”
trong việc giải quyết các công việc, tạo sự nể phục của cấp dưới.
Trong hệ thống tri thức cần có thì tri thức lý luận đóng vai trị nền
tảng, mà trước hết là lý luận về chính trị - xã hội, quan điểm, đường
lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Nắm vững tri
thức lý luận chính là kim chỉ nam của hoạt động lãnh đạo. Tuỳ theo
chức danh cụ thể mà yêu cầu về trình độ lý luận chính trị của đội ngũ

cán bộ lãnh đạo chủ chốt là từ trung cấp chính trị trở lên.
Cơng tác phịng ngừa, vận động, thuyết phục, đấu tranh, phê
phán và xử lý các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị cịn hạn
chế, có trường hợp xử lý chưa kiên quyết; biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” tuy ở một số ít đảng viên, nhưng đã bộ lộ rõ và có
tính chất gây gắt hơn, có biểu hiện lây lan, tác hại rất nghiêm trọng
vào tư tưởng trong Đảng bộ và trong xã hội.

19


Hạn chế trong nâng cao đạo đức cách mạng: loại bỏ bệnh hẹp
hòi, bệnh ba hoa, tự cao tự đại, bệnh chủ quan, tham danh vọng, địa
vị, quét sạch chủ nghĩa cá nhân,bệnh nể nang ...
Việc sửa chữa khuyết điểm (phê bình), khắc phục bệnh quan
liêu, chủ quan, hẹp hịi, ba hoa của cán bộ ở một số tổ chức đảng,
chính quyền của Thành phố cịn thấp. Bên cạnh đó, việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng sửa
đổi lối làm việc của cán bộ của Người nói riêng trong lực lượng cán
bộ lạnh đạo, quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh hiệu quả chưa cao, sự
lan tỏa chưa mạnh. Sự chuyển biến về nhận thức của một số cấp ủy,
cán bộ, đảng viên có nơi chưa sâu sắc, chưa đầu tư nghiên cứu nội
dung, đề ra giải pháp thực hiện chưa thực sự sáng tạo; việc thực hiện
sửa đổi lối làm việc của cán bộ có nơi cịn hình thức.
Hạn chế trong nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, vận dụng
sáng tạo kinh nghiệm, vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn, thường xuyên đấu tranh phê bình và tự phê bình
Về cơng tác nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, vận dụng
sáng tạo kinh nghiệm,vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn, thường xuyên đấu tranh phê bình và tự phê bình ở một

số cấp ủy Đảng của Thành phố cịn bng lỏng việc qn triệt, tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương, các quy định của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ở một số nơi trong bộ máy
chính quyền Thành phố, vấn đề đổi mới phong cách lãnh đạo còn
làm chưa đến nơi đến chốn hoặc làm đại khái, qua loa.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành dân
chủ ở một số nơi trong bộ máy chính quyền Thành phố khơng
nghiêm. Tình trạng dân chủ ở một số nơi trong bộ máy chính
quyền Thành phố không đi đôi với tập trung; chưa liên hệ mất
20


thiết với quần chúng nhân dân, còn hiện tượng cán bộ xa dân, xem
thường dân.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên trong bộ máy chính quyền
Thành phố chưa thực sự nâng cao trách nhiệm của mình, từ đó dẫn
đến hiện tượng lợi ích nhóm, chủ nghĩa cá nhân vụ lợi.
Ngun nhân của hạn chế
Về nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, “do một số cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ
quan, đơn vị và cá nhân người đứng đầu nhận thức chưa đầy đủ, sâu
sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của cơng tác xây dựng Đảng; q
trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm tự phê bình, phê bình tập thể
và cá nhân, một số nơi vẫn cịn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va
chạm.”. Thêm vào đó, tư duy, năng lực lãnh đạo, sự gương mẫu của
một số cán bộ, đảng viên chưa thể hiện rõ nét, chưa theo kịp yêu cầu
đối với sự phát triển của Thành phố và đất nước.
Thứ hai, Thành phố đang trong giai đoạn đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có
lúc có nơi có hiện tượng cán bộ, đảng viên được giao trách nhiệm ở

một số lĩnh vực chưa đủ tự tin, thậm chí có cảm giác “chống ngợp”
với sự tác động của các q trình đó nên dễ sinh ra những biểu hiện
tâm lý hoặc những hành động chưa phù hợp.
Thứ ba, mơi trường xã hội cịn phức tạp, chưa trong sạch; hiện
tượng tiêu cực trong bộ máy Đảng và Nhà nước chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi; hiệu quả đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí cịn thấp. Một bộ phận cán bộ, đảng viên khơng gương mẫu,
thậm chí suy thoái, hư hỏng.
Thứ tư, những thế lực xấu, thù địch không lúc nào để nhân dân
ta yên mà luôn có dã tâm thơn tính xâm lược nước ta, thường xuyên
21


thực hiện các âm mưa và hoạt động “diễn biến hịa bình”, khơng
ngừng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và tìm mọi cách
chống phá, gây chia rẽ, mất đồn kết, muốn lật đỗ chính quyền của
nhân dân với rất nhiều âm mưu, thủ đoạn.
Về nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, do một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến
chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; thiếu tu dưỡng, rèn
luyện, giảm sút ý chí phấn đấu, sa vào chủ nghĩa cá nhân, lo vun vén
lợi ích cá nhân mà bất chấp đạo lý, pháp luật, dư luận; ngại khổ, ngại
va chạm mà quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân
dân cũng như nhiệm vụ của người cán bộ đảng viên.
Thứ hai, công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng,
giáo dục truyền thống cách mạng của nhiều cấp ủy ở Thành phố cịn
hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xun nâng cao ý chí
cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, một số cán bộ, đảng viên không chủ động cập nhật
thơng tin, khơng tự bồi dưỡng cho mình những kiến thức cần thiết,

khơng có lập trường chính trị vững vàng, không mạnh dạn đấu tranh
với các biểu hiện tự thỏa mãn bản thân.
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy tư tưởng Hồ
Chí Minh về sửa đổi lối làm việc của cán bộ ở thành phố Hồ
Chí Minh
2.2.1. Mỗi cán bộ, đảng viên của Thành phố cần phải
thường xun phấn đấu nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị của
Thành phố; trình độ lý luận để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng
trong thời đại mới
22


2.2.2. Mỗi cán bộ, đảng viên của Thành phố phải luôn giữ
vững phẩm chất đạo đức cách mạng, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo
cần phải “làm gương” về đạo đức cách mạng; phải luôn giữ vững
lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa yêu nước
2.2.3. Sửa đổi lối làm việc của cán bộ ở Thành phố phải đảm
bảo nguyên tắc tổ chức thực tiễn: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân làm chủ; thống nhất giữa lý luận và thực tiễn;
thường xuyên đấu tranh tự phê bình và phê bình
Tiểu kết chương 2
Trong những năm qua, các cấp chính quyền của Thành phố Hồ
Chí Minh đã làm tốt cơng tác nâng cao trình độ chun mơn, trình độ
lý luận; nâng cao đạo đức cách mạng: loại bỏ bệnh hẹp hòi, bệnh ba
hoa, tự cao tự đại, bệnh chủ quan, tham danh vọng, địa vị, bệnh nể
nang;… của cán bộ trong hệ thống chính trị của Thành phố, đáp ứng
các yêu cầu mới của cách mạng, làm tròn sứ mệnh là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân. Tuy nhiên, vẫn cịn một bộ phận cán

bộ năng lực chun mơn, trình độ lý luận; phẩm chất đạo đức cách
mạng; nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, đấu tranh phê bình và tự
phê bình,… cịn hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của
sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Trước tình hình đó địi
hỏi: Mỗi cán bộ, đảng viên của Thành phố cần phải thường xuyên
phấn đấu nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ; trình độ lý luận;
luôn giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng; lý tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa yêu nước; ra sức sửa
đổi lối làm việc đảm bảo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân làm chủ; thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; thường
xuyên đấu tranh tự phê bình và phê bình.
23


×