Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Những người tham gia tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 51 trang )

Header Page 1 of 126.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG VĂN CÔNG

NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017

Footer Page 1 of 126.


Header Page 2 of 126.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG VĂN CÔNG

NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN

Hà Nội – 2017

Footer Page 2 of 126.


Header Page 3 of 126.

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Dƣơng Văn Công

Footer Page 3 of 126.


Header Page 4 of 126.

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và qua công tác thực tiễn, được
sự hướng dẫn, giảng dạy của thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ của cơ quan cùng với sự
đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sỹ Luật học.
Qua đây tôi xin chân thành gửi lời cảm cảm ơn đến:

Ban chủ nhiệm Khoa Luật, Tổ bộ môn Tư pháp hình sự, các giảng viên đã tận
tình giảng dạy, truyền đạt những tri thức kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian
học tập tại trường.
Cảm ơn lãnh đạo đơn vị công tác đã tạo điều kiện để tôi được học tập, nâng
cao trình độ.
Cảm ơn Trung tâm thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội, Thư viện Đại học Luật
Hà Nội và Thư viện Học viện Tư pháp đã cho phép tra cứu và sử dụng các tài liệu
nghiên cứu; Liên đoàn luật sư Việt Nam đã đã giúp đỡ tôi số liệu về sự tham gia
Luật sư trong giải quyết vụ án hình sự.
Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều
trong suốt thời gian học tập và hoàn thiện luận văn này.
Đặc biệt, Tôi xin dành sự kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn
Tuân, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và hoàn
thành luận văn này.
.

Tác giả luận văn

Dƣơng Văn Công

Footer Page 4 of 126.


Header Page 5 of 126.

DANH MỤC NHỮNG TỪ ĐƢỢC VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự


BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐTV

Điều tra viên

HĐTP TANDTC

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

HĐXX

Hội đồng xét xử

TGTT

Tham gia tố tụng

NTGTT


Người tham gia tố tụng

NTHTT

Người tiến hành tố tụng

THTT

Tiến hành tố tụng

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự

PLTTHS

Pháp luật tố tụng hình sự

UBMTTQ

Ủy ban Mặt trật tổ quốc

VAHS

Vụ án hình sự


VKS

Viện kiểm sát

Footer Page 5 of 126.


Header Page 6 of 126.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1
2.Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................. 3
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn .................................................. 5
4.Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu ................................................. 6
5.Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn ............................................................ 7
6.Kết cấu luận văn .................................................................................................. 7
Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHỮNG NGƢỜI THAM GIA

TỐ TỤNG TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ................................... 8
1.1 Khái niệm ngư ời tham gia tố tu ̣ng hình sự ........................................................ 8
1.2 Phân loại những người tham gia tố tụng ......................................................... 21
1.3 Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về người tham gia tố tụng từ sau cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay .................................................................... 24
1.4. Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của một số
nước trên thế giới .................................................................................................. 28
Chƣơng 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHỮNG NGƢỜI THAM

GIA TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ... Error! Bookmark not
defined.
2.1 Quy định của pháp luật về những người tham gia tố tụng hình sự ...........Error!
Bookmark not defined.
2.1.1 Quy định của pháp luật về những người tham gia tố tụng liên quan trực tiếp
đến vụ án ................................................................ Error! Bookmark not defined.
2.1.2 Quy định pháp luật về người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi ích của người
bị hại, đương sự ..................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2 Thực trạng áp dụng các quy định về những người tham gia tố tụng hình sự
............................................................................... Error! Bookmark not defined.

Footer Page 6 of 126.


Header Page 7 of 126.

2.2.1 Thực trạng xác định tư cách những người tham gia tố tụng hình sự .....Error!
Bookmark not defined.
2.2.2 Thực trạng bảo đảm sự tham gia và quyền của những người tham gia tố tụng
hình sự ................................................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHỮNG
NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........... Error! Bookmark not defined.
3.1 Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về những người tham
gia tố tụng .............................................................. Error! Bookmark not defined.
3.2 Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về những người tham gia tố tụng
hình sự ................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu áp dụng pháp luật về những người tham gia tố
tụng hình sự ........................................................... Error! Bookmark not defined.
3.3.1 Cần có văn bản hướng dẫn cần có hướng dẫn về NTGTT khi giải quyết vụ

án hình sự tại phiên tòa phúc thẩm......................... Error! Bookmark not defined.
3.3.2 Nâng cao năng lực của người tiến hành tố tụng .......... Error! Bookmark not
defined.
3.3.3 Nâng cao số lượng và chất lượng của người bào chữaError! Bookmark not
defined.
3.3.4 Các giải pháp khác ........................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ........................................................... Error! Bookmark not defined.

Footer Page 7 of 126.


Header Page 8 of 126.

Footer Page 8 of 126.


Header Page 9 of 126.

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
CQTHTT, THTT và NTGTT là những chủ thể của hoạt động TTHS. Việc tham
gia của những người này rất quan trọng bởi thế mà PLTTHS của các nước đều quy
định những chủ thể này phải tham gia vào việc giải quyết VAHS nhưng tùy từng thể
chế nhà nước, hệ thống pháp luật mà các chủ thể TGTT có phạm vi, địa vị pháp lý
của những người này khác nhau đồng thời mức độ tham gia TTHS khác nhau. Việc
CQTHTT và người THTT có phải và cũng nên coi là NTGTT thì hiện nay có nhiều
quan điểm chưa thống nhất. Trong luận văn này, chúng tôi nghiên cứu về những
NTGTT độc lập với CQTHTT và NTHTT trên cơ sở quy định của PLTTHS Việt
Nam gọi là NTGTT.
Việc quy định TGTT của những NTGTT suy cho cùng cũng là để bảo vệ bảo vệ

quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Mục
đích của việc nghiên cứu về các quy định của pháp luật nói chung và PLTTHS nói
riêng đều hướng để bảo đảm quyền con người được tốt và hoàn thiện hơn. Hay nói
theo GS.TSKH Đào Trí Úc: “Vấn đề bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
có thể được coi là trục xoay của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự” [76, tr.8]. Quyền
con người trong PLTTHS được thể hiện dưới nhiều chế định, trong đó có chế định về
NTGTT mà trong đó quy định quyền và nghĩa vụ của những NTGTT- nếu được quy
định đầy đủ và được bảo đảm nó sẽ là lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với
quyền con người nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ những cơ quan tố
tụng. Quyền và nghĩa vụ của những NTGTT trong PLTTHS nước ta không ngừng
được bổ sung và hoàn thiện. Quá trình thi hành BLTTHS 2003 thấy rằng các quy
định về quyền và nghĩa vụ của những NTGTT đã phần nào bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của NTGTT nhưng xét dưới góc độ quyền con người cần phải được tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện nhất là đối với bị can, bị cáo. Mặt khác quy định
PLTTHS hiện hành còn nhiều điểm chưa rõ ràng, thiếu thống nhất và chưa có hướng
dẫn chính thức của các CQTHTT dẫn đến nhận thức chưa thống nhất của CQTHTT
và NTHTT nên không ít trường hợp xác định NTGTT không đúng tư cách dẫn đến

Footer Page 9 of 126.

1


Header Page 10 of 126.

việc giải quyết vụ án kéo dài, phải xét xử nhiều lần, nhiều bản án bị huỷ, bị sửa vì
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT.
Hoàn thiện chế định về NGTTT, đảm bảo quyền con người, quyền bình đẳng
của các bên trong tranh tụng là yêu cầu của cải cách tư pháp hiện nay. Nghị quyết
49 ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

chỉ rõ: “Xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm
minh”.
Hiến Pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, nhiều nội
dung đã được hiến định trong đó có nội dung về quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân. Hiến Pháp đã đổi tên chương từ “Quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân”, chuyển vị trí từ chương V lên chương II sau chương I về chế độ
chính trị, đồng thời đã bổ sung và làm rõ thêm nhiều quyền phù hợp với các Công
ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa mà Việt Nam là
thành viên. Những sửa đổi bổ sung lần này không đơn giản chỉ thuần túy về mặt kỹ
thuật, mà lớn hơn cả đó là thể hiện bước tiến mới của chúng ta trong tư duy, nhận
thức về quyền con người tiệm cận tới giá trị phổ quát của nhân loại về dân chủ,
nhân quyền [63, tr.32]. Quán triệt tinh thần của cải cách tư pháp, triển khai Hiến
pháp và để khắc phục những tồn tại, bất cập trong quá trình thực thi BLTTHS 2003,
ngày 27/11/2015 tại kỳ họp Quốc hội khóa 13 đã thông qua BLTTHS mớiBLTTHS 2015 so với BLTTHS 2003, Bộ luật này gồm có 510 điều, trong đó bổ
sung mới 176 điều, sửa đổi 317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26 điều, liên quan
đến NTGTT thì đã bổ sung thêm nhiều diện (loại) TGTT mới mặt khác đã bổ sung
các quyền và cơ chế bảo đảm quyền của NTGTT một cách chặt chẽ, khả thi, phù
hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là cơ chế bảo đảm
cho người bị buộc tội nắm được các chứng cứ buộc tội nhằm thực hiện tốt việc
tranh tụng [6, tr 23]. BLTTHS 2015 được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015 có
hiệu lực ngày 17/1/2016 nhưng do có một số sai sót của luật nội dung- BLHS 2015,
tại Nghị quyết số 144/2016/QH13 của Quốc hội ngày 29 tháng 6 năm 2016 lùi ngày

Footer Page 10 of 126.

2


Header Page 11 of 126.


có hiệu lực thi hành của BLTTHS 2015 [41]. Do vậy, thời điểm tác giả viết luận
văn này thì BLTTHS 2003 vẫn có hiệu lực nên việc nghiên cứu, đánh giá vẫn dựa
trên các quy định của BLTTHS 2003 song luận văn còn phải giải quyết và đưa ra
những định hướng hay những đề xuất mới nên tác giả có đề cập, lồng ghép, nhận
định và đánh giá cả các quy định của BLTTHS 2015 có liên quan.
Với tất cả các vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu về NTGTT không chỉ có ý nghĩa
trong việc tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp, PLTTHS mà còn việc xây dựng và
hoàn thiện pháp luật. Mặt khác còn có ý nghĩa trực tiếp trong thực tiễn về việc bảo
vệ, hoàn thiện quyền của NTGTT cũng chính là quyền con người, quyền công dân.
Vì vậy , tác giả ch ọn đề tài: “Những người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng
hình sự Việt Nam’’ làm đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của min
̀ h.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước hết, Việc nghiên cứu chuyên sâu về toàn bộ (những) NTGTT rất khó
khăn vì diện (loại) NTGTT thường rất đông- theo quy định pháp luật TTHS hiện
nay được chia làm 12 tư cách (loại) người, trong đó mỗi người tham gia với vai trò,
địa vị pháp lý không giống nhau. Mặt khác do giới hạn (hình thức: số trang) của các
công trình nghiên cứu. Nên trên các sách báo khoa học pháp lý hay các công trình
khoa học các tác giả, nhà khoa học thường nghiên cứu theo hai hướng chính:(i) về
từng NTGTT hay (ii) nhóm người TGTT – có địa vị pháp lý gần giống nhau. Chẳng
hạn:
Về Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: “Hoàn thiện các quy định của BLTHS về
quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo và cơ chế bảo đảm thực hiện” của TS Chu Thị
Trang Vân đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2009; Một số ý kiến hoàn
thiện BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị cáo, bị can” của đồng
tác giả ThS. Đoàn Tạ Cửu Long và ThS Nguyễn Tấn Hảo đăng trên tạp chí Kiểm
sát số 21/2012; “Địa vị pháp lý của người tạm giam, tạm giữ, bị can bị cáo trong tố
tụng hình sự” của Đoàn Thị Phương Thảo, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật- ĐHQGHN
năm 2012; “Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự” của Hoàng Thị Hồng Chiêm,


Footer Page 11 of 126.

3


Header Page 12 of 126.

Luận văn thạc sĩ năm 2014; “Quy định pháp luật quyền bào chữa của bị cáo trong
hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân- Thực trạng và
kiến nghị” của ThS Võ Quốc Tuấn tạp chí Nghề Luật số 4 tháng 9/2015 …
-

Về người bị hại: “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của TS Vũ Gia Lâm, tạp chí Luật học số
11/2011; “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại” của Lê Sỹ Quế đăng trên
tạp chí Luật học; “Một số vấn đề về người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam” của ThS Lê Thị Thúy Nga; “Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam”, Thịnh Quang Thắng, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật- ĐHQG Hà Nội, năm
2010, …
- Về Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong tố tụng hình sự”, Nguyễn Thị Thúy Ngọc, luận văn thạc sĩ, Khoa
Luật, năm 2008; Một số vấn đề về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, của ThS Phan Thanh Tùng, …
- Về Người bào chữa: “Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên tòa hình
sự” đăng trên tạp chí Luật học số 7/2008; “Giải pháp nâng cao vai trò của Luật sư
trong quá trình tham gia xét xử tại tòa án” của Nguyễn Hữu Chỉnh và ThS Nguyễn
Kim Chi, tạp chí Nghề Luật số 1 /2015…
- Về Người phiên dịch, người giám định, người làm chứng: “Người làm

chứng trong vụ án hình sự” của Nguyễn Minh Tiến đăng trên tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số 12/1998; “Người làm chứng và quyền của người làm chứng trong
BLTTHS 2003 - Thực trạng và định hướng hoàn thiện” của TS Phan Thị Hương
Thủy, năm 2006; “Về người làm chứng trong hoạt động tố tụng hình sự” của ThS
Phạm Quang Định, tạp chí Luật học số 2/2007; “Bảo đảm quyền của người tham
gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Trầ n Thảo ,
Luật án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật TP Hồ chính Minh năm 2015;
Còn việc nghiên cứu về NTGTT có một số công trình và các tác giả sau:
“Xác định tư cách tham gia tố tụng hình sự”của Đàm Duy Vương đăng trên tạp chí

Footer Page 12 of 126.

4


Header Page 13 of 126.

Tòa án nhân dân số 12/1999; “Vài suy ngẫm về việc hoàn thiện các quy định về
người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Trịnh Văn Thanh, đăng
trên tạp chí Nhà nước và pháp luật (1999); “Việc quy định những người tham gia tố
tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự” của Lê Xuân Thân đăng tạp chí Tòa án nhân
dân số 4/2000. Các bài viết này đều có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn
nhất định về vấn đề chúng tôi nghiên cứu song những bài viết này được viết chủ yếu
trong khoảng thời gian trước năm 2003 (trước thời điểm BLHS năm 2003 được ban
hành). Vào năm 2006, tại Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Phong (Đại học Luật Hà
Nội) “Phân biệt các loại người tham gia tố tụng theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam”, Luận văn này, tập trung giải quyết một số vấn đề nhầm lẫn trong việc xác
định NTGTT từ quy định pháp luật và thực tiễn về một số loại NTGTT; Còn gần
đây nhất có bài viết “Một số kiến nghị hoàn thiện chế định người tham gia tố tụng
trong Bộ luật tố tụng hình sự” ThS Thái Chí Bình, tạp chí Nghề Luật số 2/2015, với

bài viết này đã đề cập một số vấn đề hoàn thiện về NTGTT.
Trên cơ sở đó nhìn một cách tổng quan có thể khẳng định chưa có công trình
nghiên cứu chuyên khảo cấp thạc sĩ nào nghiên cứu cụ thể về NTGTT (nhất là khi
sau khi chúng ta có Hiến pháp năm 2003 và gần đây vừa xây dựng và ban hành
BLTTHS 2015) việc nghiên cứu về chế định và thực tiễn áp dụng pháp luật về
NTGTT là cần thiết. Do vậy, Có thể khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Những
người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan,
cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn: Làm rõ lý luận và thực tiễn áp dụng các
quy định pháp luật về những NTGTT trong PLTTHS Việt Nam; đưa ra những đề xuất,
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiê ̣u quả áp dụng các quy định của
pháp luật về những NTGTT trong TTHS Việt Nam
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:

Footer Page 13 of 126.

5


Header Page 14 of 126.

- Nghiên cứu làm rõ lý luâ ̣n về NTGTT: khái niệm, phân loại những NTGTT
trong TTHS; những NTGTT ở một số nước trên thế giới.
- Nghiên cứu các quy định pháp luật về những NTGTT và thực tiễn áp dụng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật trong việc quy
định về NTGTT và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về những
NTGTT.
4. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Bao gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về

những NTGTT, một số loại NTGTT theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: Để bảo đảm tính bao quát và toàn diện của vấn đề nghiên
cứu – về những NTGTT, tác giả xin được tập trung nghiên cứu về mặt lý luận về
NTGTT, mặt khác tác giả xin được lựa chọn một số NTGT như: nhóm NGTTT có
quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến vụ án và nhóm người bào chữa, người bảo
vệ quyền lợi cho bị hại, đương sự để làm rõ, bổ sung lý luận về những NTGTT
trong TTHS Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu tác giả sẽ tổng hợp, đánh giá các
quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về NTGTT trong TTHS Việt Nam.
Từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật, tăng cường, bảo đảm
quyền của những NTGTT trong TTHS Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
Phương pháp được sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác Lênin; Tư tưởng về Nhà nước và pháp luật của Hồ Chí Minh
làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: thu thập số liệu,
thông tin, thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh...

Footer Page 14 of 126.

6


Header Page 15 of 126.

5. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn
Những điểm mới của luận văn
Sau quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, Luận văn thu được những kết quả nhất
định, có thể xem những kết quả sau đây là điểm mới của luận văn:
Thứ nhất, làm rõ vấn đề lý luận về những NTGTT trong PLTTHS;
Thứ hai, từ việc nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới về cách tiếp cận

cũng như quy định NTGTT trong pháp luật để thấy được những ưu điểm và hướng
tham khảo để PLTTHS Việt Nam tiếp cận;
Thứ ba, từ quy định của pháp luật và những vướng mắc trong thực tiễn khi xác định
NGTT thấy được tồn tại và những nguyên nhân và để
Cuối cùng, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật trong việc
quy định về chủ thể NTGTT nói riêng
Ý nghĩa của luận văn: Kết quả nghiên cứu của đề tài luâ ̣n văn góp phần hoàn
thiện hệ thống pháp luật về các quy định về NTGTT. Ngoài ra , đề tài còn có thể
dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu trong các Trường Đại học có đào ta ̣o ngành
luâ ̣t, các cán bộ nghiên cứu, cán bộ công tác tại CQTHTT, Luật sư và người khác có
quan tâm.
6.

Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3

chương chính:
Chương 1: Một số vấn đề chung về những người tham gia tố tụng trong luật tố
tụng hình sự
Chương 2: Quy định của pháp luật về những người tham gia tố tụng hình sự và
thực tiễn áp dụng
Chương 3: Giải pháp về hoàn thiện pháp luật và năng cao hiệu quả áp dụng các
quy định pháp luật về những người tham gia tố tụng

Footer Page 15 of 126.

7


Header Page 16 of 126.


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1 Khái niệm ngƣời tham gia tố tụng hình sự
Nếu như LHS quy định về TNHS, tội phạm, cấu thành tội phạm, hành vi nào bị
coi là tội phạm và hậu quả pháp lý đối hành vi tội phạm gây ra… thì LTTHS quy
định trình tự, cách thức của những chủ thể tố tụng tham gia để giải quyết, chứng minh
hành vi phạm tội cụ thể có vi phạm, đáp ứng các quy phạm LHS hay không và giải
quyết các vấn đề phát sinh do hành vi phạm tội gây ra (nếu có). Đây là biểu hiện của
Nhà nước, pháp luật tiến bộ, văn minh, dân chủ và nhân quyền. TTHS cùng một lúc
thực hiện hai nhiệm vụ: vừa phải xác định cho được sự thật của vụ án, bảo đảm để
công lý được thực thi nhưng lại vừa phải bảo đảm thế nào để trên con đường đi tìm sự
thật và công lý thì quyền của tất cả những ai có liên quan đều phải được tôn trọng,
bảo đảm và bảo vệ [76, tr.8]. Như vậy, có thể thấy rằng, trong tố tụng luôn phản ánh,
chứa đựng những mối quan hệ đa chiều và mang trong mình nó nhiều nghịch lý của
các mối quan hệ.
TTHS là “cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của các cơ quan nhà
nước khác và các tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự” [86, tr.786] Với định nghĩa này, ngoài Cơ quan Nhà
nước đại diện trong tư pháp hình sự là các CQTHTT (Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án), những người trong các cơ quan này (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra, điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án); và
những NTGTT (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định, người phiên dịch) thì
còn có đề cập đến các Cơ quan Nhà nước khác (ngoài các CQTHTT trên) và các tổ


Footer Page 16 of 126.

8


Header Page 17 of 126.

chức xã hội đã cho chúng ta thấy chủ thể tham gia TTHS là rất đa dạng, mang tính
phổ quát từ các nguyên tắc của TTHS Việt Nam như: nguyên tắc “trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”, nguyên
tắc “sự phối hợp của các cơ quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng”.v.v…
những chủ thể này góp phần không nhỏ trong việc giải quyết VAHS sự nói chung
nhưng những chủ thể này có thực hiện cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động
TTHS hay không thì cần phải xem lại: cơ quan Nhà nước khác là cơ quan nào? Tất cả
các cơ quan Nhà nước hay một số cơ quan Nhà nước? Theo quy định của pháp luật
thì tham gia vào việc giải quyết VAHS thì chỉ có một số cơ quan được giao một số
hoạt động điều tra (Bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, kiểm ngư, lực lượng Cảnh
sát biển và một số cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân…), tương
tự đối với các tổ chức xã hội có tham gia khi NTGTT thuộc tổ chức của mình TGTT
với đại diện (Đoàn thanh niên đại diện cho NTGTT dưới 18 tuổi..).v.v.. Trong những
trường hợp như thế này họ nằm trong những NTGTT rồi. Do vậy, chúng tôi cho rằng
với định nghĩa này trong từ điển đã nêu về TTHS cần phải xem lại cho phù hợp với
thực tiễn pháp luật, tiến tới thống nhất về thuật ngữ này. Chúng ta có thể hiểu TTHS
như sau: TTHS bao gồm toàn bộ các hoạt động của các chủ thể TTHS hướng tới việc
giải quyết vụ án khách quan, công bằng, góp phần đấu tranh chống và phòng ngừa
tội phạm, bảo vệ quyền con người [25, tr.17].
Trong bất kỳ một hệ thống TTHS nào cũng đều tồn tại các nhu cầu được đặt ra
bởi tính chất của tố tụng là: truy tố tội phạm và người phạm tội; bào chữa của bị can,
bị cáo và luật sư của họ; hoạt động xét xử của tòa án. Từ đó, ba chức năng: buộc tội,
bào chữa và xét xử luôn luôn tồn tại trong bất kỳ một loại TTHS nào. Do đó, nói

chức năng tố tụng là nói đến những định hướng hoạt động trong quá trình TTHS.
Trong TTHS Việt Nam hiện hành không tồn tại việc khu biệt ba chức năng tố tụng
cho từng chủ thể tố tụng, chẳng hạn Tòa án đáng lẽ là cơ quan tài phán-trọng tài giữ
vai trò khách quan ở giữa bên buộc tội và bào chữa thì Tòa án Việt Nam cũng đi
chứng minh, cũng có chức năng khởi tố VAHS… tức là thực hiện cả chức năng
buộc tội.

Footer Page 17 of 126.

9


Header Page 18 of 126.

PLTTHS Việt Nam chia các chủ thể tham gia vào quan hệ tố tụng thành:
CQTHTT, NTHTT và NTGTT đã thể hiện việc không phân biệt thật rõ ràng mục
đích của các chủ thể tố tụng dẫn đến sự không rõ ràng chức năng của các chủ thể đó
và trong tổng thể điều đó không tạo ra được động cơ và động lực thúc đẩy hiệu quả
của TTHS, nếu xét tiêu chí của hiệu quả là xác định chính xác sự thật khách quan
của vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và của công dân.
Cần từ bỏ cách chia các chủ thể quan hệ tố tụng như PLTTHS như hiện nay mà phải
đều là chủ thể các quan hệ tố tụng và trên cơ sở xác định rõ ràng mục đích và lợi ích
của các chủ thể đó mà hình thành các bên trong quan hệ tố tụng. Các bên cần được
quyền ngang nhau về khả năng đưa ra chứng cứ, lấy lời khai người làm chứng. Cần
tăng cường những bảo đảm cho tính công khai của hoạt động điều tra, tăng cường
giám sát hoạt động điều tra theo hướng gắn công tố với điều tra như các văn kiện
của Đảng và Nhà nước[76, tr.12], tác giả đồng tình với nhận định này, nhưng tác giả
cũng băn khoăn nếu phân chủ thể tố tụng dựa trên chức năng tố tụng nêu trên thì
một số NTGTT không biết được đưa vào bên tố tụng nào (người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch..). Khi nhìn vào lịch sử TTHS Việt Nam cho thấy kỹ

thuật lập pháp luôn khu biệt CQTHTT, NTHTT và NTGTT thành hai chế định
tương ứng thành hai chương trong PLTTHS, điều này dẫn đến nhận thức chỉ những
người nào được quy định, liệt kê trong chương NTGTT mới là NTGTT hình sự, còn
có được quy định, được nhắc đến trong chương khác, trong giai đoạn TTHS, ví dụ
như người tố giác, người kiến nghị khởi tố hay người chứng kiến tại BLTTHS 2003
thì không phải NTGTT? Điều này cũng đã dẫn đến những hạn chế, gây khó khăn nhất
định trong giải thích các quyền và nghĩa vụ trong các giai đoạn TTHS khác nhau của
CQTHTT, NTHTT và cũng khó khăn với chính những NTGTT khi thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy, tác giả cho rằng để giữ nguyên “truyền thống”
mà đảm bảo được chức năng của TTHS- thể hiện một cách gián tiếp thành các bên
trong tố tụng để làm được điều này chúng ta phải thay đổi, nhận thức lại về chủ thể
là Tòa án, còn những NTGTT đặc biệt lưu ý đến những quyền và cơ chế bảo đảm
quyền của NTGTT (đặc biệt là người bị tạm giữ, bị can bị cáo- quyền bào chữa của

Footer Page 18 of 126.

10


Header Page 19 of 126.

họ, quyền thu thập chứng chứ, tranh tụng tại phiên tòa.v.v…), bổ sung diện người
mới vào chương NTGTT và nâng cao trách nhiệm của những NTHTT ở các giai
đoạn tố tụng khi khi thực hiện trách nhiệm giải thích quyền và nghĩa vụ cho những
NTGTT.
Những NTGTT hình sự được quy định tại chương IV BLTTHS nhưng quan
điểm NTGTT gồm những cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào thì cho đến nay vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau. Theo TS. Nguyễn Văn Tuân, hiện nay có ba quan điểm khác
nhau [66, tr.129-130]:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, những NTGTT cần được hiểu theo nghĩa hẹp và

bao gồm: người bị tạm giữ, bị can bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa và người bảo
vệ quyền và lợi ích của đương sự. Những NTGTT là những người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác. Khi tham gia tố tụng, họ có nhiều
quyền và nghĩa vụ, sự tham gia của họ có tác dụng đối với sự tiến triển và kết quả của
vụ án. Theo quan điểm này thì người làm chứng, người giám định, người phiên dịch
và những người khác như người chứng kiến, nhà chuyên môn và bác sĩ pháp y một
cách thụ động họ là những người được NTHTT “trưng dụng” để giúp làm sáng tỏ vụ
án trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng. Vậy nên đưa họ vào danh sách
những người được giao nhiệm vụ, được tham gia một số hoạt động tố tụng hoặc tách
thành một chương riêng và đặt cho một cái tên khác cho phù hợp.
Quan điểm thứ hai cho rằng, không nên bó hẹp phạm vi những NTGTT. Theo
quan điểm này, ngoài những NTGTT theo quan điểm thứ nhất còn phải kể đến người
làm chứng, người giám định, người phiên dịch… Những người này thực chất cũng
tham gia vào hoạt động TTHS và hoạt động của họ góp phần thực hiện nhiệm vụ
TTHS. Sự tham gia TTHS của họ mang tính chất hạn chế, không phải để bảo vệ lợi
ích của mình mà nhằm thúc đẩy hoạt động tố tụng.
Quan điểm thứ ba (hiểu theo nghĩa rộng) CQTHTT và NTHTT có góp phần
hoạt động của mình vào hoạt động tố tụng hình sự không? Câu trả lời luôn là có và

Footer Page 19 of 126.

11


Header Page 20 of 126.

còn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động TTHS - họ là người đại diện cho Nhà
nước điều tra truy tố và xét xử vụ án.Vậy thì họ cũng chính là những người TGTT.
Do vậy ngoài những NTGTT đã nói ở hai quan điểm nêu trên thì những người đại

diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành TTHS, vì vậy, thực chất họ cũng là
những NTGTT [61, tr.58-59].
Theo quan điểm của tác giả, với quan điểm thứ nhất, khi tách người làm chứng,
người phiên dịch, người giám định ra phạm vi NTGTT thì chưa hợp lý, khi NTHTT
“trưng dụng” để góp làm sáng tỏ vụ án tức là họ đã là NTGTT rồi. Do vậy không
nhất thiết phải tách và quy định họ ở phần chương riêng với tên gọi khác. Còn theo
quan điểm thứ ba, việc những người đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến
hành tố tụng cũng là NTGTT cũng có yếu tố hợp lý nhất là xem xét dưới góc độ ngôn
ngữ, pháp luật của một số nước đặc biệt pháp luật theo mô hình tố tụng tranh tụng,
chức năng tố tụng không phân biệt NTGTT như mô hình tố tụng thẩm vấn chỉ nên coi
những người đại diện này cùng với NTGTT theo quan điểm thứ hai là chủ thể của
quan hệ tố tụng hình sự là hợp lý hơn vì: NTHTT là những người có quyền và nghĩa
vụ mang tính quyền lực Nhà nước, nhân danh Nhà Nước còn NTGTT thì không. Do
vậy, NTGTT hiểu theo quan điểm thứ hai là hợp lý, phù hợp với quan điểm pháp lý
về NTGTT của các nước trên thế giới (mô hình thẩm vấn) cũng như PLTTHS Việt
Nam cũng như các quan niệm thông thường từ trước đến nay. Như vậy, NTGTT là
gì? Hiện nay, có rất nhiều khái niệm được đưa ra, chẳng hạn:
Trong Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội:
Người tham gia tố tụng là những người có quyền, lợi ích liên quan hoặc có nghĩa vụ
pháp lý tham gia vụ án để bảo vệ quyền, lợi ích của mình hoặc góp phần làm sáng tỏ
các tình tiết của vụ án [25, tr.186].
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa luật- Đại học Cần Thơ thì
Người tham gia tố tụng là những chủ thể có quyền và lợi ích cần được bảo vệ trước
pháp luật, những người có nghĩa vụ pháp lý phải tham gia vào việc giải quyết vụ án
hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, và những người tham gia tố tụng

Footer Page 20 of 126.

12



Header Page 21 of 126.

để hỗ trợ pháp lý cho những người tham gia tố tụng khác [24]. Các khái niệm về
NTGTT trên đều dựa trên đặc trưng địa lý pháp lý của NTGTT để xây dựng lên thành
khái niệm song các khái niệm đều có điểm chung khi cho rằng trong số những NTGTT
thì có nhóm NTGTT (như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch) theo
nghĩa vụ pháp lý (bắt buộc) là chưa xác đáng vì họ tham gia họ còn có những quyền
nhất định, chẳng hạn như họ có quyền “từ chối khi có lý do chính đáng”…
Còn khái niệm: Người tham gia tố tụng hình sự là người phải thực hiện đúng
các yêu cầu, các quyết định của cơ quan có thẩm quyền và có những quyền, nghĩa vụ
pháp lý tương ứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự [53] với khái niệm
này, chúng tôi cho rằng không thể hiện được tính bao quát và dường như đã đã làm lu
mờ mục đích và chức năng cũng như bản chất của TTHS khi cho rằng NTGTT là
người phải thực hiện đúng các yêu cầu, các quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Điều này có thể đúng một phần đối với các đối với bị can, bị cáo… hay người giám
định, người làm chứng (nếu họ không có lý do chính đáng) nhưng đối với NTGTT
khác (người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự,…) có cần
phải thực hiện đúng các yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền không? Nếu có thì là các
yêu cầu hay quyết định gì của các cơ quan đó? Trong khi đó mỗi loại NTGTT đều
được quy định quyền và nghĩa vụ của họ rồi. Mặt khác, cơ quan có thẩm quyền là cơ
quan nào? Trong khi đó phải là cơ quan có thẩm quyền CQTHTT mới là chính xác.
Do vậy, chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm về NTGTT như sau: Người tham
gia tố tụng là người, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự
được Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định tham gia vào việc
giải quyết vụ án hình sự. Họ có quyền và nghĩa vụ pháp lý tương ứng theo quy định
của pháp luật. Với khái niệm này có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, NTGTT là thuật ngữ bao gồm người, cơ quan, tổ chức việc khẳng
định này bảo đảm và sẽ tương thích với một số định nghĩa pháp lý về NTGTT hiện
nay. Chẳng hạn như nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và nó cho chúng ta mở rộng


Footer Page 21 of 126.

13


Header Page 22 of 126.

khái niệm về người bị hại… song tùy từng trường hợp NTGTT chỉ có thể là cá nhân
như người làm chứng, người phiên dịch…
Thứ hai, NTGTT là người có liên quan đến việc giải quyết VAHS. NTGTT có
thể liên quan trực tiếp (như bị can, bị cáo, người bị hại..), cũng có thể liên quan gián
tiếp thông qua được nhờ, ủy quyền… hoặc có người biết được những tình tiết của vụ
án hay do họ có kiến thức chuyên môn liên quan đến VAHS và được CQTHTT xác
định họ cần phải tham gia và những người này thúc đẩy giải quyết vụ án nhanh chóng
chính xác và khách quan. Tóm lại, đều là những người ít nhiều liên quan và ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ án.
Thứ ba, NTGTT được Cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng xác định tham gia
vào việc giải quyết VAHS. NTGTT có thể tự mình đề nghị hoặc được Cơ quan,
NTHTT ghi nhận, xác định là NTGTT.
Thứ tư, khi họ được xác định là NTGTT thì họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ
mà pháp luật quy định.
Hiện nay, trong những NTGTT thì người bị hại còn nhiều vấn đề gây tranh
luận. Quy định pháp luật hiện hành quy định: “người bị hại về thể chất, tinh thần, tài
sản do tội phạm gây ra” với quy định này đã dẫn đến cách hiểu “Người bị hại chỉ có
thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài
sản chứ không thể là pháp nhân” và trên thực tiễn CQTHTT và NTHTT luôn loại trừ
tổ chức là người bị hại. Theo chúng tôi, cách hiểu này chưa hợp lý, chưa đúng - người
bị hại phải được hiểu là con người pháp lý không chỉ là con người tự nhiên nên người
bị hại có thể là cá nhân, cơ quan hay tổ chức [50, tr.160]. Chúng tôi đồng tình với

quan điểm này, bởi lẽ thực tế hành vi phạm tội không chỉ gây ra thiệt hại cho cá nhân,
hành vi phạm tội trong thực tế còn nhắm đến để gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức.
Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho pháp nhân, tổ chức là rất đa dạng, không
thuần túy là thiệt hại về tài sản mà có thể bị thiệt hại cả về vật chất lẫn thiệt hại về
tinh thần. Chẳng hạn một doanh nghiệp bị giả mạo về thương hiệu, bị vu khống làm
mất uy tín trong kinh doanh... Có các cách hiểu khác nhau bắt nguồn từ thuật ngữ

Footer Page 22 of 126.

14


Header Page 23 of 126.

“người bị hại cũng như từ quy định pháp luật. Thuật ngữ “người bị hại” được
PLTTHS Việt Nam (PLTTHS 2003 và trước), PLTTHS của Cộng hòa Pháp, Liên
bang Nga cũng dùng thuật ngữ này; trong khi đó LTTHS Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa thì dùng thuật ngữ “người tố cáo”. Ngoài ra người bị hại còn được gọi là “người
bị thiệt hại”, “nạn nhân”. Riêng đối với thuật ngữ “Nạn nhân” chúng tôi cho rằng
không thể đồng nghĩa là người bị hại được vì khái niệm người bị hại có nội hàm hẹp
hơn so với khái niệm nạn nhân của tội phạm; những thiệt hại của nạn nhân không chỉ
về thể chất, về tinh thần, về tài sản mà còn có thể bao hàm những thiệt hại về các
quyền và các lợi ích hợp pháp khác, thiệt hại đó có thể bao gồm cả những thiệt hại
gián tiếp. Chúng tôi cho rằng sử dụng thuật ngữ như thế nào phải thể hiện được bản
chất, nội dung, các điều kiện và sự chặt chẽ của thuật ngữ. Vì vậy theo chúng tôi sử
dụng thuật ngữ “bị hại” thay cho “người bị hại” như trong BLTTHS 2015 là phù hợp:
“Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan,
tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra” (khoản
1 Điều 62). Theo khái niệm và trong thực tiễn này “Bị hại” bao hàm các đặc điểm
như sau:

Thứ nhất, về chủ thể bị hại là cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ
chức khác;
Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, thiệt hại về
tinh thần, thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không
phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp.
Thứ ba, thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là
phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho người bị
hại. Sự thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu không phải có nguồn gốc từ hành vi
không phù hợp pháp luật của người bị thiệt hại. Đây là điều kiện quan trọng để
phân biệt giữa người bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụ
án hình sự.

Footer Page 23 of 126.

15


Header Page 24 of 126.

NTGTT đã được quy định trong chương IV của BLTTHS đã thực sự đầy đủ
chưa? Theo chúng tôi luật thực định quy định như vậy là chưa phù hợp với lý luận và
bỏ sót NTGTT điều này dẫn đến không bảo đảm quyền về mặt TTHS cho một số
người này. Trả lời cho câu hỏi TTHS bắt đầu từ khi nào? Sẽ là lời giải đáp cho chúng
ta phần nào. Điều này rất quan trọng vì nó là cơ sở để xây dựng các quy định về địa
vị pháp lý của các chủ thể TTHS, để các CQTHTT, NTHTT thực hiện cách thức và
trình tự tiến hành các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình, còn NTGTT
thực các quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Hiện nay, trong khoa học pháp
lý, việc giải quyết VAHS được phân thành các giai đoạn (quá trình) khác nhau mà
chưa có sự thống nhất, chẳng hạn, trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết VAHS
được chia thành năm giai đoạn [9, tr.26] hay bảy giai đoạn [16, tr.10-11], [21,

tr.16-17] nhưng các quan điểm trên có điểm chung là ghi nhận giai đoạn khởi tố là
quá trình bắt đầu của TTHS mà “thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi
nhận được những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc
bằng quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự có liên quan
đến hành vi đó”[9, tr.26]. CQTHTT đã bắt đầu tiếp nhận các tin báo từ những
người tố giác, người báo tin về tội phạm đây là những cơ sở quan trọng để
CQTHTT giải quyết các tin báo tố giác, phát hiện xử lý tội phạm. Việc không ghi
nhận những người này là NTGTT và với những quyền và nghĩa vụ sẽ làm hạn chế
việc tham gia của các cá nhân, tổ chức trong đấu tranh và phòng chống tội phạm.
Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố- họ mới chỉ những người bị tình nghi
thực hiện phạm tội để có cơ sở xác minh những người này phải có mặt theo yêu
cầu của các CQTHTT vì vậy theo logic họ cũng phải có những quyền nhất định
tránh sự lạm quyền từ các CQTHTT. Theo BLTTHS hiện hành việc bỏ sót những
người này là NTGTT là một thiếu sót, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của
họ; Người chứng kiến là người được cơ quan có thẩm quyền mời tham dự một số
hoạt động điều tra, có trách nhiệm xác nhận nội dung và kết quả công việc mà
CQTHTT tiến hành trong khi mình có mặt. Việc có người chứng kiến trong hoạt
động tố tụng là cần thiết vì nó sẽ bảo đảm sự công minh, khách quan, trách sự lạm

Footer Page 24 of 126.

16


Header Page 25 of 126.

quyền và nâng cao trách nhiệm của các CQTHTT; Về giai đoạn thi hành án có
quan điểm cho rằng thi hành án không nên coi đây là một giai đoạn TTHS và cần
phải được nghiên cứu thêm [9 tr.26] còn PLTTHS hiện nay quy định đây là một
giai đoạn TTHS với khái niệm“Người bị kết án”; giảm; miễn chấp hành hình phạt;

xóa án; giám đốc thẩm; tái thẩm nhưng lại không được quy định trong chương
NTGTT theo chúng tôi đây là thiếu sót về diện NTGTT. Do đó, chúng tôi đề nghị
nên xem xét đưa “người bị kết án” và quyền lợi nghĩa vụ của họ vào phần quy
định NTGTT thì mới hợp lý và bảo đảm tính liên tục của tư cách người bị truy cứu
TNHS tương ứng với các giai đoạn TTHS. Cần xác định rõ người bị kết án là
người đang thi hành một bản án một bản án đã có hiệu lực pháp luật và cả những
người đã thi hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích theo quy định của
BLHS. Tiếp đến là người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, mặc dù người đại diện
hợp pháp của bị can, bị cáo không được quy định tại điều luật quy định về bị can, bị
cáo nhưng lại được quy định tại các điều luật khác chẳng hạn trong trường hợp bị can
bị cáo bị truy, khởi tố điều tra mà khung hình phạt cao nhất là tử hình hoặc có nhược
điểm về thể chất hoặc tâm thần thì người đại diện có quyền yêu cầu thay đổi người
bào chữa hoặc từ chối bào chữa… và người đại diện của nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ VAHS vẫn còn chữa rõ ràng, họ là
ai? Thời điểm họ tham gia tố tụng từ khi nào?... Để thuận lợi cho quá trình giải quyết
VAHS tại giai đoạn xét xử HĐTP TANDTC đã có những văn bản hướng dẫn nhưng
các văn bản này có những hạn chế nhất định: (i) TTHS bao gồm rất nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn tố tụng các CQTHTT, NTHTT tham gia khác nhau thì không nhất thiết
phải tuân theo các văn bản hướng dẫn này và hiện nay CQĐT và VKS vẫn chưa có
hướng dẫn về vấn đề này. Vấn đề đặt ra là CQĐT, VKS xác định sai, hay bỏ sót thì
cũng chưa đặt ra trách nhiệm của các CQTHTT, NTHTT này vì pháp luật thiếu
những quy định cụ thể và nếu tuân theo văn bản của HĐTP TANDTC thì (ii) bản
thân các hướng dẫn này vẫn chưa bao quát hết các trường hợp có người đại diện của
NTGTT (các vấn đề này chúng tôi xin phép được trình bày ở phần tiếp theo). Do vậy,
để hoàn thiện vấn đề này, chúng ta nên xây dựng một điều luật về người đại diện

Footer Page 25 of 126.

17



×