I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
PHM MAI LINH
MốI QUAN Hệ GIữA VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN
Và CƠ QUAN CảNH SáT ĐIềU TRA TRONG VIệC
KHởI Tố, ĐIềU TRA CáC Vụ áN Cố ý GÂY THƯƠNG TíCH
HOặC GÂY TổN HạI CHO SứC KHỏE CủA NGƯờI KHáC
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Ninh Bình)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2017
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
PHM MAI LINH
MốI QUAN Hệ GIữA VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN
Và CƠ QUAN CảNH SáT ĐIềU TRA TRONG VIệC
KHởI Tố, ĐIềU TRA CáC Vụ áN Cố ý GÂY THƯƠNG TíCH
HOặC GÂY TổN HạI CHO SứC KHỏE CủA NGƯờI KHáC
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Ninh Bình)
Chuyờn ngnh: Lut Hỡnh s v T tng Hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: TS. TRN THU HNH
H NI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Phạm Mai Linh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU
TRA TRONG VIỆC KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN CỐ Ý
GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƢỜI KHÁC ....................................................................................................8
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
Khái niệm, đặc điểm mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân
dân với Cơ quan Cảnh sát điều tra trong khởi tố, điều tra
các vụ án Cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của ngƣời khác ......................................................................... 8
Khái niệm các tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác ..................................................................... 8
Khái niệm mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ
quan Cảnh sát điều tra trong khởi tố, điều tra các vụ án Cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ............. 12
Đặc điểm mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát
điều tra trong việc khởi tố, điều tra các vụ cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác................................. 16
1.2.
Cơ sở của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ
quan Cảnh sát điều tra trong khởi tố, điều tra các vụ án Cố ý
gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác...... 22
1.3.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Viện kiểm sát
nhân dân và Cơ quan cảnh sát điều tra trong việc khởi tố,
điều tra các vụ án hình sự............................................................... 23
1.3.1. Viện kiểm sát nhân dân ..................................................................... 23
1.3.2. Cơ quan cảnh sát điều tra .................................................................. 25
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 29
Chƣơng 2: NỘI DUNG, HÌNH THỨC VÀ THỰC TIỄN MỐI QUAN
HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ CƠ QUAN
CẢNH SÁT ĐIỀU TRA CÔNG AN TỈNH NINH BÌNH
TRONG VIỆC KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN CỐ Ý GÂY
THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI TỚI SỨC KHỎE
CỦA NGƢỜI KHÁC .............................Error! Bookmark not defined.
2.1.
Nội dung, hình thức của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân
dân và Cơ quan cảnh sát điều tra trong việc khởi tố, điều tra
các vụ án Cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của ngƣời khác ................................. Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Hình thức của mối quan hệ ............... Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Nội dung của mối quan hệ ................ Error! Bookmark not defined.
2.2.
Thực tiễn mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ
quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình trong việc
khởi tố, điều tra các vụ án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của ngƣời khác ... Error! Bookmark not defined.
Kết luận chƣơng 2 ......................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3: MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA TRONG VIỆC
KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƢƠNG
TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƢỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNHError! Bookmark not def
3.1.
Một số kết quả, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân tồn tại, hạn
chế trong mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ
quan cảnh sát điều tra trong việc khởi tố, điều tra các vụ án
cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
ngƣời khác ........................................ Error! Bookmark not defined.
3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.
Những kết quả đạt được .................... Error! Bookmark not defined.
Những tồn tại, hạn chế ...................... Error! Bookmark not defined.
Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ..... Error! Bookmark not defined.
3.2.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa Viện
kiểm sát nhân dân và Cơ quan cảnh sát điều tra trong việc
khởi tố, điều tra các vụ án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của ngƣời khác ... Error! Bookmark not defined.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật .......... Error! Bookmark not defined.
Tiếp tục kiện toàn, đổi mới cơ cấu tổ chức hoạt động của Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát .......... Error! Bookmark not defined.
Nâng cao năng lực của đội ngủ cán bộ, Kiểm sát viên, Điều tra
viên làm công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về trật
tự xã hội ............................................. Error! Bookmark not defined.
Kiểm tra, giám sát hoạt động của Điều tra viên, Kiểm sát viênError! Bookmark no
Xây dựng quy chế phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ
quan cảnh sát điều tra ........................ Error! Bookmark not defined.
Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất ........ Error! Bookmark not defined.
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.
3.2.4.
3.2.5.
3.2.6.
Kết luận chƣơng 3 ......................................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 30
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu
Viết đầy đủ
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CQCSĐT
Cơ quan cảnh sát điều tra
CQĐT
Cơ quan cảnh sát điều tra
CSĐT
Cảnh sát điều tra
ĐTV
Điều tra viên
KSV
Kiểm sát viên
TAND
Tòa án nhân dân
TNHS
Trách nhiệm hình sự
TPVTTXH.
Tội phạm về trật tự xã hội
TTATXH
Trật tự an toàn xã hội
TTXH
Trật tự xã hội
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng
trong đó Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành các
hành vi tố tụng nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của luật
Tố tụng hình sự một cách độc lập, không phụ thuộc vào nhau. Trong đó, Cơ
quan điều tra có chức năng, nhiệm vụ tiến hành các hoạt động theo quy định
để phát hiện tội phạm và người phạm tội, tiến hành các hoạt động điều tra, lập
hồ sơ đề nghị truy tố; Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan có chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự để
bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện nhanh chóng, kịp thời, đầy
đủ và xử lý công minh, đúng pháp luật. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự các cơ quan vẫn có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ thể hiện
sự phối hợp và chế ước lẫn nhau nhằm thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong
vụ án hình sự của mình.
Thực tế trong những năm qua, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình tình hình tội
phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vẫn
xảy ra nhiều, tính chất, mức độ, hành vi, hậu quả có chiều hướng nghiêm
trọng. Đã xuất hiện tình trạng một số nhóm thanh, thiếu niên đi chơi thường
mang theo hung khí nguy hiểm như: Dao, mã tấu, kiếm để sẵn sàng sử dụng
khi có mâu thuẫn xảy ra. Tình trạng xung đột, mâu thuẫn, xô xát trong tầng
lớp thanh thiếu niên ngày càng gia tăng, nảy sinh từ những mâu thuẫn rất đơn
giản phát sinh trong giao tiếp xã hội hàng ngày dẫn đến hành vi gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, dẫn đến những hậu quả
đau lòng cho cá nhân, gia đình và xã hội.
1
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ quan cảnh sát điều tra
trong giai đoạn khởi tố và điều tra vụ án hình sự đã được pháp luật quy định,
tuy nhiên vẫn còn những thiếu sót. Bên cạnh đó, thực tế thực hiện mối quan hệ
phối hợp giữa VKSND với các Cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự nói chung, đặc biệt với Cơ quan cảnh sát điều tra nói riêng
vẫn còn có những tư tưởng ngại va chạm nên không sâu sát, kịp thời phát hiện
ra các vi phạm pháp luật của cơ quan điều tra hoặc còn phụ thuộc vào sự chỉ
đạo của cấp trên hoặc của liên ngành, làm cho mối quan hệ phối hợp chất
lượng chưa cao, mang tính hình thức, chưa giải quyết được hết những vấn đề
khó khăn, phức tạp nên ảnh hưởng một phần không nhỏ đến hoạt động đấu
tranh phòng, chống các tội phạm. Nhiều vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác chưa khám phá được hoặc khám phá được
nhưng khi xử lý lại còn nhiều bất cập làm cho việc giải quyết vụ án chưa kịp
thời theo đúng quy định, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Ngoài ra, nghiên cứu về mối quan hệ giữa VKSND và cơ quan CSĐT
trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự nói chung là đề tài không còn mới
mẻ, việc nghiên cứu làm rõ vấn đề lý luận và trên thực tiễn trong mối quan hệ
giữa VKSND và cơ quan CSĐT trong việc khởi tố, điều tra các vụ án hình sự
nói chung, vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác nói riêng đã đạt được một số thành tựu đáng kể tuy nhiên cần
được nghiên cứu và hoàn thiện một cách tổng thể hơn nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật tố tụng hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta
trong thời gian tới.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát
nhân dân và Cơ quan cảnh sát điều tra trong việc khởi tố, điều tra các vụ
án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Ninh Bình)” có ý nghĩa hết sức quan
trọng và cần thiết cả về lý luận và thực tiễn trong tình hình hiện nay.
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra trong tố
tụng hình sự, đã có một số công trình khoa học và bài viết nghiên cứu đề cập
đến trên nhiều phạm vi và lĩnh vực khác nhau, trong đó nổi lên một số đề tài
sau: “Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan cảnh sát điều tra
trong tố tụng hình sự”- Luận án tiến sỹ của Đào Hữu Dân; Luận văn Thạc sĩ
“Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tiến Sơn, hoàn thành năm 2006 tại Học viện
Cảnh sát nhân dân; “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án
hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị” - Đề tài
khoa học cấp Bộ của TS. Lê Hữu Thể, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; Bài phát biểu của đồng chí Bộ trưởng Bộ Công an Lê Hồng Anh
đăng trên tạp chí kiểm sát số tháng 2/2003 “Tăng cường quan hệ phối hợp,
hiệp đồng công tác giữa Viện kiểm sát nhân dân và Công an nhân dân”; Các
bài nghiên cứu đăng trên số chuyên đề: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố” Tạp chí kiểm sát số 12 (tháng 6/2009) v.v...
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có nhiều chế định quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng liên quan đến quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt
động TTHS. Nhìn chung, các công trình khoa học, các bài viết nêu trên ở
những góc độ, nhất định đã nghiên cứu tổng quát về mối quan hệ giữa Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát trong quá trình khởi tố, điều tra các vụ án hình
sự nói chung và các vụ án về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác nói riêng.
3
Các tác giả đã phân tích cơ sở pháp lý và mối quan hệ giữa Cơ quan điều
tra và Viện kiểm sát, cũng như mối quan hệ giữa CQĐT với các cơ quan, tổ
chức hỗ trợ tư pháp trong TTHS. Mối quan hệ phối hợp được thể hiện thông
qua việc định kỳ thông báo cho nhau về tình hình tội phạm và công tác của hai
bên bao gồm các hoạt động khởi tố, điều tra, kiểm sát khởi tố, điều tra; trao đổi
trước với nhau về các quyết định khởi tố hay áp dụng biện pháp ngăn chặn;
tham gia xây dựng kế hoạch, chuẩn bị nội dung và phương pháp tiến hành bảo
đảm kết quả điều tra... Tuy nhiên, chưa chỉ ra được quan hệ chế ước giữa VKS
với CQĐT được thể hiện cụ thể như thế nào, trách nhiệm cụ thể của từng cơ
quan đến đâu trong từng chế định cụ thể, cũng như những vấn đề nảy sinh
trong việc áp dụng các quy định của BLTTHS trong quan hệ phối hợp. Hơn
nữa, chưa thể hiện được mối quan hệ chế ước là mối quan hệ cơ bản và xuyên
suốt trong quá trình giải quyết vụ án, còn mối quan hệ phối hợp chỉ là cơ sở để
đem lại hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
Ngoài ra, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu một cách toàn diện, có hệ thống về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát
nhân dân và Cơ quan cảnh sát điều tra trong việc khởi tố, điều tra các vụ án
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá quan
hệ phối hợp giữa VKSND với Cơ quan CSĐT trong hoạt động đấu tranh
phòng, chống các tội về xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con người nói chung, tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác nói riêng, làm rõ những bất cập, vướng mắc làm hạn
chế đến hiệu quả hoạt động tố tụng hình sự, kiến nghị đề xuất các giải pháp
4
nhằm nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa VKSND với Cơ quan CSĐT trong
đấu tranh phòng, chống các tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Nhiệm vụ của đề tài:
- Làm rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tiến
hành tố tụng thông qua các quy định về Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát
trong Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật hiện hành.
- Phân tích, đánh giá một cách khoa học thực trạng quan hệ phối hợp và
chế ước giữa CQĐT và VKS trong việc khởi tố, điều tra các tội phạm cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình; làm rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả mối quan hệ giữa VKSND và Cơ quan CSĐT trong việc đấu tranh
phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác đang gia tăng như hiện nay. Trên cơ
sở đó đề xuất sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật cho phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành đáp ứng với tinh thần cải cách tư pháp
và hội nhập quốc tế.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mối
quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong việc khởi tố, điều tra vụ án cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình.
5
Phạm vi nghiên cứu:
- Về mặt không gian: Nghiên cứu mối quan hệ giữa VKSND với CQ
CSĐT thuộc lực lượng Công an nhân dân trong lĩnh vực đấu tranh phòng,
chống các tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Về thời gian: Nghiên cứu trong thời gian 05 năm gần đây (từ năm
2010 đến năm 2015).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đấu
tranh phòng chống tội phạm để phân tích, lý giải các vấn đề. Ngoài phương
pháp luận trên, để phù hợp với tính chất của đề tài, tác giả còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu, cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương
pháp tổng kết kinh nghiệm; phương pháp thống kê, so sánh... để đánh giá,
khái quát thực trạng hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ
quan tư pháp mà trọng tâm là Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Từ đó đánh
giá một cách khoa học và chính xác, khách quan về việc duy trì và củng cố
mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong hoạt động TTHS.
6. Ý nghĩa và yếu tố mới của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa nhất định trong việc làm
sáng tỏ cả về phương diện lý luận và thực tiễn, xác định rõ mối quan hệ giữa
hai cơ quan VKSND và Cơ quan CSĐT là mối quan hệ chế ước và mối quan
hệ phối hợp, trong đó mối quan hệ chế ước xuyên suốt trong quá trình giải
quyết vụ án. Từ đó có sự nhận thức, vận dụng thống nhất đúng đắn các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự, góp phần tăng cường hoạt động phối hợp
có hiệu quả giữa hai Cơ quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói
6
chung, các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác nói riêng.
- Điểm mới của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo các công
trình khoa học, bài viết nghiên cứu đề cập đến quan hệ phối hợp giữa VKSND
và Cơ quan CSĐT trong hoạt động TTHS. Tác giả đi sâu vào tìm hiểu, nghiên
cứu, phân tích, so sánh, đối chiếu làm rõ những chế định mới và thực tiễn thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát,
quan hệ phối hợp trong việc khởi tố, điều tra các tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Đề xuất một số giải pháp mang tính khoa học nhằm nâng cao hiệu quả
mối quan hệ phối hợp giữa VKSND với CQCSĐT trong điều tra các tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình
7. Bố cục của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát
nhân dân và Cơ quan cảnh sát điều tra trong việc khởi tố, điều tra các vụ án cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2: Nội dung, hình thức và thực tiễn mối quan hệ giữa Viện
kiểm sát nhân dân với Cơ quan Cảnh sát điều tra trong khởi tố, điều tra vụ án
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 3: Một số hạn chế và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả mối
quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ quan Cảnh sát điều tra trong
khởi tố, điều tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
7
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT
ĐIỀU TRA TRONG VIỆC KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN CỐ Ý
GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƢỜI KHÁC
1.1. Khái niệm, đặc điểm mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân
với Cơ quan Cảnh sát điều tra trong khởi tố, điều tra các vụ án Cố ý gây
thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác
1.1.1. Khái niệm các tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác
Như chúng ta đã biết, con người là vốn quý của xã hội, là đối tượng
hàng đầu được pháp luật bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự và tự do của họ. Hiến pháp năm
2013 đã quy định một trong những quyền cơ bản của con người đó là quyền
bất khả xâm phạm về thân thể. Thể chế hóa các quy định của Hiếp pháp, Bộ
luật hình sự Việt Nam đã đưa ra nhiều điều luật quy định về những hành vi
phạm tội và mức hình phạt khi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự
và nhân phẩm của con người [9].
Nằm trong nhóm tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người, tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể và
quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người. Tội phạm “Cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” lần đầu tiên được quy
định tại Sắc luật số 03/SL ngày 15/3/1976. Sắc luật quy định tội danh của 05
8
tội thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
con người là tội giết người, tội vô ý làm chết người, tội cố ý gây thương tích,
tội cố ý gây thương tích và tội hiếp dâm. Còn các tội khác chỉ được nêu chung
là “các tội khác xâm phạm thân thể và nhân phẩm của người dân”. Năm
1985, BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời
thì tội phạm này được quy định tại Điều 109 BLHS với tội danh “Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”.
Đến năm 1999, Quốc hội đã ban hành BLHS năm 1999 (có hiệu lực từ
ngày 01/7/2000; sau đó đã được sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009) tội phạm
này được quy định thành 03 điều luật: Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 Điều 109
của BLHS năm 1985 chuyển thành Điều 104, BLHS năm 1999 (Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Khoản 4 Điều
109 BLHS năm 1985 chuyển thành Điều 105 BLHS năm 1999 (Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh) và Điều 106 BLHS năm 1999 (Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng). Tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm của con người được quy định trong Chương XIIBLHS năm 1999.
Đến năm 2015, Quốc hội đã ban hành BLHS năm 2015 (có hiệu lực từ
01/7/2016. Tuy nhiên, ngày 29 tháng 6 năm 2016 Quốc hội ban hành Nghị
quyết số: 144/2016/QH13 về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự số
100/2015/QH13, Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13; Luật Tổ chức cơ
quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số
94/2015/QH13 từ ngày 1 tháng 7 năm 2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành) tội
9
phạm này được quy định thành 03 điều luật mới: Điều 134, BLHS 2015 (Tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều
135 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh); Điều 136 (Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm
tội). Tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự
của con người được quy định trong Chương XIV - BLHS năm 2015.
Một trong những điểm mới cơ bản của BLHS năm 2015 là bổ sung các
trường hợp phạm tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác; phân định mức độ gây tỷ lệ thương tích để quy định khung hình
phạt thay vì gộp chung như trước; bổ sung trường hợp bị phạt tù từ 12 năm
đến 20 năm, hoặc tù chung thân ngoài các trường hợp đã được quy định tại
BLHS 2015; bổ sung quy định đối với người chuẩn bị phạm tội. Và một số
điểm mới nữa góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý, phục vụ đáp ứng kịp
nhu cầu phát triển của xã hội, của tình hình tội phạm.
Trong hoạt động điều tra tội phạm, để giải quyết vụ án một cách
nhanh chóng, chính xác thì một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra đó
là phải hiểu rõ về bản chất của hành vi phạm tội cũng như những dấu hiệu
pháp lý đặc trưng của loại tội phạm đó. Chính vì vậy, để đấu tranh phòng
chống tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác có hiệu quả, vấn đề đầu tiên đặt ra là phải xác định rõ khái
niệm của loại tội phạm này.
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam cho thấy
tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
10
bao gồm một nhóm tội danh được quy định tại các Điều 134,135,136 của
BLHS 2015, cụ thể:
Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được hiểu là:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: là
hành vi mà người phạm tội dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể
người khác làm cho người đó có những thương tích nhất định (để lại dấu vết)
như: đâm, chém, đấm đá, đốt cháy, đầu độc... Việc dùng sức mạnh vật chất có
thể bằng chân tay hoặc các công cụ phương tiện hỗ trợ khác như: dao, súng,
gậy gộc…làm cho nạn nhân mất đi một hay nhiều bộ phận trên thân thể [8].
- Do lỗi cố ý: nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi dùng sức
mạnh vật chất tác động trực tiếp lên cơ thể người khác là hành vi có thể hoặc
nhất định gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và
mong muốn gây thương tích hoặc gây tổn hại tới sức khỏe của nạn nhân, để
mặc cho hậu quả đó xảy ra [8].
Điều đó chứng tỏ việc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác là do ý thức chủ quan của người phạm tội và trái pháp luật
hình sự, Điều 2 BLHS quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ
luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Đối với hành vi cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong các
trường hợp khác nhau, người phạm tội thực hiện những hành vi mà luật hình
sự ngăn cấm cụ thể được quy định tại các Điều 134, Điều 135, Điều 136
BLHS 2015 [13].
Ngoài ra, phân tích dấu hiệu pháp lý của tội Cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định ở 3 tội danh cụ thể
nhưng đều có đặc trưng chung là:
11
Tội phạm đã xâm hại vào quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe
của con người; đều có hành vi gây thương tích, do lỗi cố ý. Tội phạm cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện bởi
người có đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi nhất định. Trong đó, dấu hiệu bắt
buộc về mặt hậu quả của loại tội phạm này là để lại thương tích cho nạn nhân
với tỷ lệ % thương tật theo luật định. Cơ sở để xác nhận nạn nhân bị thương
tích là kết luận của Hội đồng giám định y khoa. Việc xác định tỷ lệ thương
tích được căn cứ vào Bảng tiêu chuẩn thương tật được ban hành kèm theo
Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 27/9/2013 của
Bộ Y tế và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định tỷ lệ tổn thương
cơ thể do thương tích, bệnh, tật và bệnh nghề nghiệp, để xác định tỷ lệ thương
tật của người bị hại. Xác định tỷ lệ thương tật một cách khách quan, chính
xác, nhanh chóng sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để khởi tố vụ án
hình sự và tiến hành các hoạt động điều tra tiếp theo.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về tội phạm Cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau: Tội phạm
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tội
phạm xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý dùng sức mạnh vật chất và thể
chất tác động trực tiếp lên cơ thể người khác, nhằm gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của họ một cách trái pháp luật và bị xử lý theo quy định
tại các Điều 134, 135, 136 BLHS 2015.
1.1.2. Khái niệm mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ
quan Cảnh sát điều tra trong khởi tố, điều tra các vụ án Cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Theo “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học - Nhà xuất bản Đà
12
Nẵng năm 2002 do tác giả Hoàng Phê chủ biên thì: “Quan hệ là sự gắn liền
về mặt nào đó giữa hai hay nhiều sự vật khác nhau, khiến sự vật này có biến
đổi, thì có thể tác động đến sự vật kia” [34].
Theo “Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam” trên trang website
thì:
Quan hệ là phạm trù triết học nói lên sự phụ thuộc lẫn nhau
của các yếu tố trong một hệ thống nhất định, một trong những hình
thức của sự thống nhất của các đối tượng, các thuộc tính của chúng.
Quan hệ mang tính chất khách quan và phổ biến. Phạm trù quan hệ
liên hệ chặt chẽ với khái niệm quy luật, thể hiện mối liên hệ bản
chất của các sự vật, quy luật phát sinh và phát triển của chúng thông
qua quan hệ của chúng với các sự vật khác. Khi vạch ra mối quan
hệ giữa hai hoặc nhiều đối tượng, nhận thức khoa học dựa vào đặc
tính khách quan của các đối tượng đó và vào thông số khách quan
của đặc tính từng đối tượng. Nghiên cứu và phân loại những 11 vấn
đề quan hệ là đối tượng của logic quan hệ - một bộ phận của logic
hình thức hiện đại.
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2006, NXB Đà Nẵng thì “mối quan hệ
nghĩa là sự gắn liền chặt chẽ, có tác động qua lại lẫn nhau về mặt nào đó
giữa hai hay nhiều sự vật với nhau” [34].
Từ đó có thể hiểu mối quan hệ giữa hai hay nhiều sự vật, hiện tượng thể
hiện ở sự tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau trong sự tồn tại và phát triển.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đã khẳng định rằng các sự vật hiện tượng
tồn tại trong thế giới khách quan không thể tồn tại độc lập mà luôn là một thể
thống nhất, có sự tác động qua lại lẫn nhau. Vì vậy, không thể hiểu được bất kỳ
sự vật, hiện tượng nào nếu không đặt chúng trong mối quan hệ chặt chẽ với các
13
sự vật hiện tượng khác. Nói cách khác, các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan đều có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ này phản ánh tính toàn
diện và tính phát triển, quan hệ qua lại tác động qua lại lẫn nhau phản ánh sự
vận động và phát triển liên tục trong không gian và thời gian.
Xuất phát từ nguyên lý trên, trong cách thức tổ chức bộ máy nhà nước,
để đảm bảo sự vận hành và hoạt động có hiệu quả của toàn bộ hệ thống cơ
quan nhà nước thì mỗi cơ quan tuy được quy định chức năng, nhiệm vụ riêng
song không thể không có mối quan hệ với các cơ quan khác trong quá trình
hoạt động. Do đó, theo quy định của BLTTHS hoạt động TTHS là một quá
trình nhiều giai đoạn kế tiếp nhau như: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án. Mỗi giai đoạn đều gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của các cơ quan tiến hành tố tụng nhất định. Và trong từng giai đoạn, mối
quan hệ giữa các cơ quan có đặc điểm, cách thức biểu hiện khác nhau.
Mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT vừa thể hiện mối quan hệ biện
chứng, vừa thể hiện những nét riêng biệt của TTHS, đó là mối quan hệ đa
dạng, phong phú thể hiện ở tất cả các hành vi tố tụng của những người tiến
hành tố tụng của hai cơ quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói
riêng. Tính riêng biệt của mối quan hệ này được thể hiện ở hai mặt của một
vấn đề, đó là quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước. Hai mặt này vừa đan xen
với nhau, bổ sung cho nhau nhưng lại không loại trừ, hạn chế lẫn nhau và
cùng có chung một mục đích là giải quyết đúng đắn, chính xác, đúng pháp
luật các vụ án liên quan đến tính mạng, sức khỏe của con người trong đó có
các vụ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại tới sức khỏe của người khác.
Quan hệ phối hợp có nghĩa là các chủ thể (Điều tra viên, Kiểm sát viên)
tham gia vào mối quan hệ cùng hoạt động trong phạm vi chức năng nhiệm vụ
của mình theo quy định của pháp luật để hỗ trợ lẫn nhau trong giải quyết một
công việc cụ thể nhất định liên quan đến quá trình điều tra vụ án.
14
Quan hệ chế ước giữa CQĐT và VKSND trong quá trình điều tra vụ án
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại tới sức khỏe của người khác được hiểu
là sự hạn chế lẫn nhau giữa các chủ thể tiến hành tố tụng trong những điều
kiện nhất định được quy định bởi pháp luật nhằm đảm bảo tính khách quan,
chính xác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tôn trọng quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
Chính vì vậy, BLTTHS đã có nhiều quy định mang tính chế ước giữa
hai CQĐT và VKS nhằm đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ mà pháp luật tố
tụng hình sự đã đặt ra.
Như vậy, quá trình giải quyết vụ án hình sự đã làm nảy sinh các mối
quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, mối quan hệ trong nội bộ các cơ
quan tiến hành tố tụng; mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với
những người tham gia tố tụng và các cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ tham gia
vào việc giải quyết vụ án hình sự. Trong tổng thể các mối quan hệ đó thì mối
quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là mối quan hệ xuyên suốt và cơ
bản nhất của hoạt động TTHS. Đó là mối quan hệ phát sinh trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự, trên cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của từng cơ quan tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật TTHS.
Từ những vấn đề trên cho thấy: Mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT
trong việc khởi tố, điều tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác là mối quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau,
phát sinh trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi
cơ quan theo quy định của pháp luật để hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhau trong
quá trình điều tra các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát hiện và xử lý
kịp thời, công minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phục vụ công tác
điều tra, truy xét xử tội phạm.
15
1.1.3. Đặc điểm mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát
điều tra trong việc khởi tố, điều tra các vụ cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác
Mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT được xác định cụ thể trong
BLTTHS, trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật tổ chức
Cơ quan điều tra hình sự 2015 và những văn bản pháp lý tố tụng hình sự khác
có liên quan. Qua nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự hiện hành và thực tiễn
hoạt động điều tra và kiểm sát điều tra thì mối quan hệ giữa VKSND và
CQĐT trong điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác nói riêng, tội phạm nói chung, vừa là quan hệ phối hợp
(là cơ bản), vừa là quan hệ chế ước nhưng cùng chung một mục đích là giải
quyết tính đúng đắn của vụ án, bảo vệ pháp chế, góp phần ổn định trật tự an
toàn xã hội mang lại cuộc sống bình yên cho mọi người. Mối quan hệ đó được
biểu hiện ở những đặc điểm cơ bản sau.
* Mối quan hệ phối hợp
+ Xuất phát từ nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tối phạm, CQĐT và
VKS phải chủ động phối hợp trong từng công việc cụ thể, sự phối hợp càng
chặt chẽ thì càng phát huy được hiệu quả trong công việc
- Sự phối hợp CQĐT và VKS thể hiện trong hoạt động xây dựng một
số văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật. Trong công tác xây dựng pháp
luật, VKS và CQĐT phải xuất phát từ đường lối, chính sách của Đảng để
xây dựng những định hướng, sau đó cùng nhau bàn bạc thống nhất về quan
điểm, đường lối.
- Sự phối hợp giữa CQĐT và VKS xuất phát từ yêu cầu của thực tế, căn
cứ vào quy định của pháp luật hiện hành, CQĐT và VKS phải thường xuyên
họp liên ngành để cùng nhau xác định những vấn đề, những quy định pháp
16
luật cần phải có văn bản hướng dẫn thi hành; từ đó đưa ra những vấn đề cần
thực hiện một cách thống nhất. Trên cơ sở đó, mỗi cơ quan thực hiện phần
việc được phân công để có được những quyết định đúng đắn, đảm bảo tuân
thủ theo đúng quy định của pháp luật.
- Trong quá trình giải quyết từng vụ án cụ thể, CQĐT và VKS phải
luôn phối hợp để giải quyết ở từng khâu, mọi bước. Đối với các vụ án đơn
giản, rõ ràng thì cơ quan điều tra có thể tự mình quyết định việc ra quyết định
khởi tố vụ án; còn đối với những vụ án phức tạp, án trọng điểm, án được dư
luận xã hội quan tâm thì trước khi khởi tố, CQĐT và VKS cần có sự họp bàn
thống nhất, để vừa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm,
vừa phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
- Sự phối hợp giữa CQĐT và VKS phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục và trong tất cả các khâu của quá trình điều tra đối với từng vụ án cụ
thể. Từng cơ quan tiến hành tố tụng không thể hoàn thành nhiệm vụ do pháp
luật quy định nếu không có sự phối hợp chặt chẽ để làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ án. Sai sót của cơ quan tiến hành tố tụng này có thể dẫn đến một
loạt sai sót khác của cơ quan tiến hành tố tụng khác.
+ Phối hợp được hiểu là cùng hành động hoặc cùng hoạt động hỗ trợ
lẫn nhau để giải quyết một công việc nào đó. Sự phối hợp giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng để cùng giải quyết vụ án hình sự là một trong các đặc trưng
điển hình phản ánh sự phân công, phân nhiệm bộ máy tư pháp của Nhà nước
ta. Sự phối hợp giữa hai cơ quan được thể hiện trên một số khía cạnh như sau.
- Mối quan hệ này được xác lập từ khi nhận được tin báo, tố giác tội
phạm về tính mạng, sức khỏe cho đến khi tiến hành các hoạt động khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; áp dụng các biện pháp ngăn chặn,
khởi tố vụ án, khởi tố bị can... cho đến khi kết thúc điều tra.
17
- VKS có trách nhiệm phê chuẩn hay không phê chuẩn các quyết định,
đề nghị của CQĐT trong thời gian ngắn nhất để tạo điều kiện cho CQĐT tiến
hành các hoạt động điều tra đạt kết quả nhanh nhất, hiệu quả cao nhất. Không
được gây khó khăn cho CQĐT trong các thủ tục TTHS một cách trái pháp
luật. BLTTHS 2015 quy định những cơ quan và người tiến hành tố tụng (Điều
34) mới được tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự và phải thực
hiện đúng những nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm luật định cho Điều tra
viên, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT (các Điều 36, 37); cho Kiểm sát
viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND (các Điều 41, 42).
- CQĐT có trách nhiệm cung cấp tài liệu thông báo kịp thời cho VKS
và tạo thuận lợi cho VKS trực tiếp tham gia thực hiện chức năng kiểm sát các
hoạt động điều tra tố tụng của CQĐT, đồng thời qua đó để VKS nắm chắc
hơn nội dung vụ phạm tội giúp cho việc truy tố và thực hiện quyền công tố
trước Toà án. Ngoài ra, BLTTHS 2015 còn quy định mối quan hệ phối hợp
trong những hoạt động điều tra cụ thể như: hỏi cung bị can (Điều 183), lấy lời
khai người làm chứng (Điều 186), khám nghiệm hiện trường (Điều 201)...
theo đó Cơ quan điều tra chỉ được thực hiện các hoạt động đó, đồng thời quy
định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát điều tra (Điều 166), quy định
trách nhiệm của CQĐT trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của
VKS (Điều 167).
+ Sự phối hợp này sẽ tạo điều kiện cho hai cơ quan thực hiện tốt hơn
chức năng nhiệm vụ của mình trong khởi tố, điều tra, truy tố tội phạm, đạt
hiệu quả cao hơn, tránh được oan sai, bỏ lọt tội phạm. Cụ thể:
- Trong hoạt động của cơ quan điều tra: CQĐT phải thông báo kịp thời
và đầy đủ về tình hình vi phạm, tội phạm cho VKS để bộ phận kiểm sát thực
hiện chức năng kiểm sát việc phát hiện và giải quyết tin báo vi phạm, tội
18