Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Đánh giá hiệu quả chuyển đổi đất sản xuất lúa sang mô hình trồng dưa hấu trên địa bàn xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.93 KB, 64 trang )

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Lúa là một trong những cây trồng có lịch sử trồng trọt lâu đời nhất, quá trình
phát triển của cây lúa gắn liền với quá trình phát triển các phương thức canh tác
của nền văn minh nhân loại. Cùng với sự phát triển của ngành nông nghiệp kết
hợp với các thành tựu về khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học đã tạo
ra những giống lúa năng suất cao và chất lượng tốt đã làm cho nền văn minh lúa
nước tại các nước Châu Á phát triển mạnh ko những đáp ứng nhu cầu trong
nước mà còn xuất khẩu với số lượng lớn, tuy nhiên trong những năm gần đây thì
cùng với nhiều vấn đề tự nhiên, thời tiết đã góp phần làm giảm hiệu quả trồng
lúa nhưng biến đổi khí hậu đã làm nước biển dâng gây ngập mặn mất một số
diện tích đất canh tác, hạn hán lũ lụt… đã làm cho cây lúa không giữ được vai
trò như trước, chúng ta đã và đang chuyển đổi mạnh mẽ để thay đổi cơ cấu cây
trồng cho phù hợp với tự nhiên và với nhu cầu thực tiễn hơn.
Cây lúa một trong những cây lương thực chính của Việt Nam nói chung và
tỉnh Quảng Bình nói riêng, chiếm phần lớn về diện tích và sản lượng trong số
các loại cây nông nghiệp ngắn ngày, từ lâu đời nay nông dân tâm niệm lúa là cây
trồng sản xuất chính của hộ gia đình nhưng trong những năm gần đây, biểu hiện
biển đổi khí hậu gia tặng mạnh ảnh hưởng đến sản xuất nông ngiệp một số tỉnh
ven biển và trong số đó có tỉnh Quảng Bình và một số tỉnh khác như ảnh hưởng
của hiện tượng El Nino, hạn hán, xâm nhập mặn gây thiệt hại lớn cho sản xuất
nông nghiệp.. dẫn đến đất canh tác phải dừng sản xuất, diện tích đất trồng lúa và
cây hàng năm chiếm một diện tích lớn
Huyện Bố Trạch là một trong những địa phương đi đầu thực hiện tái cơ cấu
ngành Nông nghiệp, thực hiện Đề án "Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững giai đoạn 2014-2020"
trong đó hiệu quả rõ rệt nhất là chuyển đổi một số diện tích trồng lúa kém hiệu
quả sang các mô hình ngô, đậu xanh, dưa hấu, mô hình kết hợp lúa-cá và trồng


1


rau... Nhìn nhận một cách khách quan, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện
Bố Trạch những năm qua còn bộc lộ nhiều hạn chế như: quy mô sản xuất nhỏ,
diện tích manh mún, chất lượng sản phẩm thấp, chủ yếu xuất thô, ít có sản phẩm
qua chế biến, chưa có thương hiệu, năng suất lao động và thu nhập từ nông
nghiệp không cao so với các ngành khác. Đặc biệt là tình trạng nông dân bỏ
ruộng, ao, chuồng có xu hướng gia tăng.
Đại Trạch, là xã có diện tích đất nông nghiệp lớn nhất huyện, với hơn
1.000ha, trong đó có gần 500ha trồng lúa.Mặc dù có diện tích trồng lúa lớn nhất
nhưng tình trạng người dân bỏ ruộng cũng khá nhiều, đặc biệt là vụ hè-thu. Bên
cạnh đẩy mạnh dồn điền đổi thửa lần 2 thì UBND xã Đại Trạch cũng đã cho
phép chuyển một số diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang các mô hình khác
nhau. Ở xã Đại Trạch bà con chọn cây dưa hấu để trồng trên đất lúa. Năm 2014
dưa hấu đạt năng suất rất cao và thu được trên 100 triệu đồng/ha, vụ đông-xuân
2014-2015, toàn xã Đại Trạch đã chuyển đổi được 6,5ha, trong đó có 5ha dưa
hấu, đạt giá trị kinh tế cao gấp 3-4 lần trồng lúa. Với chính sách này, đã thu hút
nhiều doanh nghiệp, cá nhân tham gia đấu thầu để phát triển trang trại, và bà con
chọn cây dưa hấu để trồng trên đất lúa.
Để đánh giá hiệu quả và tính phù hợp của mô hình chuyển đổi, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài“Đánh giá hiệu quả chuyển đổi đất sản xuất lúa sang
mô hình trồng dưa hấu trên địa bàn xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình” nhằm làm rõ được các hiệu quả của việc tái cơ cấu chuyển đổi
nông ngiệp để có cách nhìn nhận rõ hơn và tìm ra hướng sản xuất, chuyển đổi
đất lúa thiếu nước tưới, đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác né tránh một
phần thiệt hại do thiên tai, đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường dễ
tiêu thụ, tăng hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho bà con nông dân và có thể đề
ra chủ trương giải pháp để thúc đẩy quá trình chuyển đổi.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu

1) Tìm hiểu thực trạng chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng
dưa trên địa bàn xã.
2) Đánh giá hiệu quả lên địa bàn của mô hình trồng dưa được chuyển đổi
từ trồng lúa.
3) Đánh giá tính phù hợp và khả năng nhân rộng của các mô hình trồng
dưa trên địa bàn nghiên cứu.

2


PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1. Một số khái niệm
2.1.1.1. Cơ cấu cây trồng và chuyển đổi cơ cấu cây trồng
Cơ cấu cây trồng được hiểu xuất phát từ thuật ngữ “cơ cấu” theo thuyết
cấu trúc và học thuyết tổ chức hữu cơ thì cơ cấu có thể hiểu là một cơ thể được
hình thành trong điều kiện môi trường nhất định. Trong đó các bộ phận hay yếu
tố của nó được cấu tạo có tính quy luật và hệ thống theo một trật tự và tỷ lệ thích
ứng. Nội dung cốt lõi của nó là biểu hiện vị trí, vai trò của từng bộ phận hợp
thành và có mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong tổng thể.Một cơ cấu có thể
được thay đổi để phù hợp vs điều kiện khách quan nhất định.
Cơ cấu cây trồng là một phạm trù khoa học biểu hiện trình độ tổ chức và
quản lý sản xuất nông nghiệp. Sự phát triển của cơ cấu cây trồng tùy thuộc vào
trình độ của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Quá trình phát
triển của lực lượng sản xuất nói chung và cơ cấu cây trồng nói riêng tự nó xác
lập tỷ lệ theo mối quan hệ nhất định. Cơ cấu cây trồng được hình thành từ nhiều
nhóm khác nhau như: cây lương thực, rau màu, cây ăn quả, cây công nghiệp…
Cơ cấu cây trồng là tổng thể các mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau theo

những tỷ lệ nhất định của mặt lượng và liên quan chặt chẽ về mặt chất chúng tác
động qua lại với nhau trong những điều kiện không gian và thời gian nhất định.
Khái niệm cơ cấu cây trồng nói một cách cụ thể hơn là thành phần và các
loại cây trồng bố trí theo không gian và thời gian một cơ sở hay một vùng sản
xuất nông nghiệp. Hay nói cách khác cơ cấu cây trồng là biểu hiện về số lượng
các loại cây trồng cá biệt và mối quan hệ tỷ lệ giữa chúng trong một cơ sở sản
xuất hay một vùng sản xuất nông nghiệp.Xác định cơ cấu cây trồng là một nội
dung trong hệ thống các biện pháp kỹ thuật gọi là chế độ canh tác.Ngoài cơ cấu
cây trồng, chế độ canh tác còn bao gồm tất cả các chết độ luân canh, làm đất,
bón phân, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh hại… cơ cấu cây trồng là yếu tố cơ bản
nhất của chế độ canh tác vì nó quyết định nội dung các biện pháp kỹ thuật khác.

3


Như vậy, cơ cấu cây trồng là một vấn đề quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp, đặc biệt là nước ta đang phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, vì vậy cần có
sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở nhiều vùng để đáp ứng được yêu cầu của
phương hướng sản xuất cũng như nhu cầu của thị trường.
Theo Phạm Chí Thành: “Chuyển dịch cơ cấu cây trồng khi xem xét trong
một tổng thể nhất đinh là sự phát triển về cơ cấu các bộ phận hợp thành trong
tổng thế đó là một khoảng thời gian nhất định; qúa trình phát triển về cơ cấu đó
bao gồm sự thay đổi những mối quan hệ giữa các bộ phận với nhau trong quá
trình phát triển của quá trình phát triển của tổng thể. Như vậy chuyển dịch cơ
cấu cây trồng là quá trình phát triển của quá trình thay đổi về thành phần và các
loại cây trồng trong một cơ sở hay một vùng nhất định “[12].
Sự phát triển của cơ cấu cây trồng tùy thuộc vào trình độ của lực lượng
sản xuất và sự phân công lao động xã hội. Quá trình phát triển của lực lượng sản
xuất nói chung và cơ cấu cây trồng nói riêng tự nó đã tạo lập những tỷ lệ theo

mối quan hệ nhất định.
Nói cách khác chuyển dịch cơ cấu cây trồng mang tính khách quan thông
qua nhận thức chủ quan của con người; do đó sự chuyển dịch phù hợp với sự
thay đổi nhu cầu thị trường trên cơ sở khai thác tiềm năng, thế mạnh của vùng.
2.1.1.2 Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là bộ phận cấu thành rất
quan trọng của nền kinh tế quốc dân, có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển
kinh tế -xã hội ở nước ta. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là tổng thể
của kinh tế bao gồm mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất thuộc khu vực kinh tế nông thôn trong những khoảng
thời gian và điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
Để đẩy mạnh sự phát triển về kinh tế, thực hiện quá trình công nghiệp hóa
, hiện đại hóa đất nước; Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết 10 và nhiều chính
sách mới và đã giải được những khả năng buộc phong kiến phi kinh tế trong
nông nghiệp và nông thôn, tạo cho nông nghiệp đạt được những thành tựu to
lớn góp phần từng bước chuyển nền nông nghiệp tự cấp tự túc sang sản xuất
hàng hoá. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng và nông thôn
nói chung đã và đang có sự khởi sắc, sản xuất phát triển đời sống nhân dân được

4


cải thiện. Mặt khác, việc chuyển dịch cơ cấu ngành, theo vùng, lãnh thổ, theo
các thành phần kinh tế, theo cơ cấu kỹ thuật -công nghệ hướng tới nền sản xuất
hàng hoá và đạt được nhiều tiến bộ đáng kể, theo đó cơ cấu kinh tế có sự thay
đổi tỷ lệ giữa các ngành nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ… Đặc biệt trong nông nghiệp, đã có xuất hiện chuyển đổi mục đích sử dụng
đất do thay đổi cơ cấu cây trồng. Để hiểu được cụm từ này, đòi hỏi chúng ta
phải nắm được các khái niệm về cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế nông thôn,
chuyển dịch cơ cấu nông thôn.

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một tổng thể bao gồm các mối quan hệ
tương quan giữa các yếu tố của lưc lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thuộc
lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp trong khoảng thời gian và điều kiện kinh tế xã
hội cụ thể.
Theo tác giả Lê Đình Thắng thì “Cơ cấu kinh tế nông thôn là một tổng thể
các bộ phận hợp thành nền kinh tế của mỗi nước. Các bộ phận đó gắn bó chặt
chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các quan hệ tỷ lệ về số
lượng, tương quan về chất lượng trong những thời gian và không gian nhất định,
phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội nhất định, nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã
hội cao[5] còn tác giả Nguyễn Đăng Bằng lại đưa ra khái niệm: “Cơ cấu kinh tế
là một phạm trù kinh tế thể hiện các mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành
nền kinh tế quốc dân. Nói đến cơ cấu kinh tế là nói đến mối quan hệ giữa tỷ lệ
các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Mối quan hệ này phản ánh cả về
mặt số lượng lẫn chất lượng các yếu tố hợp thành[4] . Như vậy có thể hiểu cơ
cấu kinh tế là một tổng thể các bộ phận hợp thành cấu trúc của nền kinh tế trong
quá trình tái sản xuất xã hội. Các bộ phận đó gắn bó với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau và biểu hiện ở các quan hệ tỷ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng
trong những khoảng thời gian và không gian nhất định, phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội nhất định, nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Theo hiểu như cách trên thì: Cơ cấu kinh tế nông thôn là tổng thể các mối
quan hệ kinh tế trong khu vực nông thôn. Nó là cấu trúc hữu cơ các bộ phận
kinh tế trong khu vực nông thôn trong quá trình phát triển, có mối quan hệ gắn
bó hữu cơ với nhau theo những tỷ lệ nhất định về mặt lượng và có liên quan chặt
chẽ về mặt chất, chúng có tác động qua lại lẫn nhau, trong không gian và thời
gian, phù hợp với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, tạo thành một hệ
thống kinh tế nông thôn. Cơ cấu kinh tế nông thôn là một bộ phận hợp thành,
5


không thể tách rời cơ cấu kinh tế quốc dân.Nó đóng vai trò quan trọng trong

phát triển nền kinh tế quốc dân, nhất là đối với các nước kém phát triển.Kinh tế
nông thôn bao gồm các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ được tiến
hành trên địa bàn nông thôn.
Các bộ phận cấu thành kinh tế nông nghiệp:
- Thứ nhất là trong nông nghiệp(theo ngành hẹp) được phân thành trồng
trọt và chăn nuôi. Ngành trồng trọt được phân chia tiếp thành: cây lương thực,
cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu… Ngành chăn nuôi bao gồm: gia súc
gia cầm
- Thứ hai Ngành lâm nghiệp bao gồm trồng rừng, rừng tự nhiên, khoanh
nuôi tái sinh, khai thác rừng tự nhiên…
Ngành ngư nghiệp: bao gồm đánh, bắt cá, nuôi trồng các loại thủy hải sản
như tôm, cá..
Như vậy, chuyển đổi là một yêu cầu tất yếu của chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn, nhất là chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp.Muốn có sự thay
đổi tỷ lệ giữa các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản… thì bắt
buộc phải thực hiện chuyển đổi. Vậy có thể hiểu đơn giản như sau: Chuyển đổi
là hoạt động thay đổi cấu trúc (hay cơ cấu) của nền kinh tế, mà rõ nhất là nền
kinh tế nông thôn. Hay nói hẹp trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp thì chuyển
đổi là thay đổi hệ thống cây trồng, vật nuôi theo những khoảng thời gian và
không gian xác định để phù hợp với những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định
và đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội đã đề ra.
2.1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn chịu sự ảnh hưởng của nhiều nhân
tố khác nhau, mỗi nhân tố đều đóng vai trò, vị trí và tác động nhất định, có
những nhân tố tác động tích cực nhưng cũng có những nhân tố tác động tiêu
cực. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp có thể được chia
thành ba nhóm:
- Thứ nhất nhóm nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên: Những nhân tố về kiều
kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nhất là đối với các nước có trình độ công nghiệp hóa còn thấp như nước

6


ta. Nhóm nhân tố nay bao gồm: vị trí địa lý, điều kiện khí hậu, thời tiết, đất đai,
nguồn nước, rừng, khoáng sản và các yếu tố sinh học khác…
Vị trí địa lý thuận lợi và các tiềm năng tự nhiên phong phú của mỗi vùng
lãnh thổ là nhân tố thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển. Những vùng
có điều kiện tự nhiên thuận lợi thì các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể, tư
nhân, kinh tế hộ và trang trại cũng phát triển với quy mô lớn và nhanh hơn so
với các vùng khác
- Thứ hai Nhóm nhân tố kinh tế - xã hội: Nhóm nhân tố này luôn tác động
mạnh mẽ tới sự hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Các nhân tố xã hội ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn bao
gồm: thị trường( trong nước và ngoài nước), hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô
của Nhà nước, cơ sở hạ tầng nông thôn, sự phát triển các khu công nghiệp và đô
thị, dân số và lao động…
- Thứ 3 nhóm nhân tố về tổ chức kĩ thuật: Nhóm nhân tố này bao gồm:
các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn, sự phát triển của
khoa học và công nghệ và áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất… . Ngày
nay khoa học công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sự phát
triển khoa học công nghệ và việc áp dụng nó vào sản xuất có vai trò ngày càng
to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp và cơ
cấu kinh tế nông thôn nói riêng.
2.1.1.4. Sự cần thiết của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Từ thực tiễn của quá trình đổi mới có thể khẳng định: kinh tế nông thôn
nước ta trước mắt cũng như lâu dài vẫn giữ vị trí hết sức quan trọng. Để tăng tốc
độ phát triển kinh tế nông thôn, tạo ta cơ cấu hợp lý nhất cần phải chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn. Sự cần thiết đó xuất phát từ những nhu cầu chủ yếu

sau:
- Thứ nhất, cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta được hình thành trong thời
gian qua là chưa phù hợp và đang có nhiều yếu tố cản trở sự phát triển kinh tế
nông thôn.
- Thứ hai, do sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường nên
một đòi hỏi khách quan là phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn để phù hợp
với quan hệ sản xuất mới.

7


- Thứ ba, xuất phát từ vai trò, vị trí của nông nghiệp và kinh tế nông thôn
trong đời sống kinh tế - xã hội của người dân Việt Nam: Trải qua nhiêu thời kỳ
khác nhau nhưng nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính và thu hút phần lớn
lao động tham gia.
- Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu nông thôn đóng vai trò quan trọng với việc
tăng trưởng và phát triển kinh tế nông thôn, góp phần quan trọng thực hiện
CNH, HĐH đất nước, góp phần phát triển kinh tế nông thôn toàn diện, nâng cao
năng suất lao động, khai thác có hiệu quả các nguồn lực: đất đai, lao động, cơ sở
vật chất hiện có…
- Thứ năm, do yêu cầu của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
nên đòi hỏi thay đổi hệ thống cây trồng và vật nuôi cho phù hợp.
2.1.1.5 Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
Theo tác giả Nguyễn Đăng Bằng: Một cơ cấu kinh tế nông thôn dù có
hoàn chỉnh đến đâu cũng không thế ổn định và lâu dài mà trái lại luôn vận động,
biến đổi cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất[4]. Theo đó phải thực hiện quá trình chuyển đổi sao cho cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn chuyển dịch theo các hướng sau:
- Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hang
hóa và mở rộng sự phân công hợp tác.

- Hai là, chuyển từ độc canh thuần nông sang đa canh, đa dạng dóa ngành
nghề, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến và dịch vụ.
- Ba là, chuyển từ sản xuất manh mún, phân tán sang sản xuất tập trung,
chuyên môn hóa, quy mô hợp lý, phát huy lợi thế.
- Bốn là, chuyên từ kỹ thuật thủ công lạc hậu, sản xuất theo tập quán thói
quen củ sang cơ cấu kinh tế dựa trên kỹ thuật công nghệ hiện đại.
- Năm là hình thành một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế
nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
2.1.1.6. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong ngành trồng trọt
Trong nội bộ ngành trồng trọt, cơ cấu chủ yếu là giữa cây lương thực với
cây công nghiệp rau, quả.Lương thực là bộ phận cấu thành chủ yếu trong cơ cấu
bữa ăn hàng ngày của con người.Lương thực đã và sẽ còn giữ vai trò chủ yếu,

8


lâu dài trong nguồn thực phẩm mà không thể thay thế được. Tuy nhiên, xu
hướng chung, cơ cấu bữa ăn sẽ dần thay đổi theo hướng giảm bớt lương thực.
Cây công nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ (công nghiệp dệt,
thực phẩm, dược liệu, hóa chất, …). Những ngành công nghiệp này lại là những
ngành thu hút nhiều lao động, do đó phát triển những ngành này sẽ tạo thêm
việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, để phát triển cây công nghiệp cần chú
ý: Yêu cầu về quy trình kỹ thuật, vốn đầu tư ban đầu và thâm canh nhiều hơn so
với cây lương thực. Rau, hoa quả, rất cần thiết cho đời sống con người, nó cung
cấp đường, a-xit, muối khoáng, sinh tố, chất kích thích khẩu vị và các chất bổ
khác cho nhu cầu cơ thể. Có thể sử dụng ở dạng tươi hoặc làm nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến thực phẩm để sản xuất đồ hộp, rượu, nước ngọt, bánh mứt,
kẹo với nhiều chủng loại phong phú. Cây ăn quả có tác dụng làm rừng phòng hộ
và phát triển nuôi ong… nhu cầu về rau, hoa quả, cây cảnh ngày càng có xu
hướng tăng lên cả trong nhu cầu bữa ăn cũng như đời sống xã hội. Sản xuất

những sản phẩm này chú ý áp dụng công nghệ tiên tiến và bố trí gần nơi thuận
lợi cho vận chuyển cũng như nơi tiêu thụ.
2.1.2. Một số vấn đề cơ bản về hiệu quả
2.1.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của hiệu quả
Hiệu quả là một thuật ngữ dung để chỉ các mối quan hệ giữa kết quả thực
hiện với các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có
được kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Hay nói cách khác hiệu quả
chính là kết quả mà chủ thể đạt được theo hướng mục tiêu của mình[6]
Hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn các phương
án sản xuất.
Hiệu quả được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau mà hình thành nên các
khía niệm khác nhau như: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi
trường… Ngoài ra còn có một số hiệu quả khác như hiệu quả tổng hợp, hiệu quả
trực tiếp, hiệu quả gián tiếp…[6]
2.1.2.2. Hiệu quả kinh tế
Có nhiều khái niệm khác nhau về phạm trù hiệu quả kinh tế. Theo
Nguyễn Tiến Mạnh: “ Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan phản
ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu xác định”[6]. Tác giả
Ngô Đình Giao thì cho rằng “ Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự
9


lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự quản
lý của nhà nước”[5]
Bản chất của hiệu quả kinh tế là nâng cao năng suất lao động và tiết kiệm
lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế,
gắn liền với hai quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội là quy luật năng suất
lao động và quy luật tiết kiệm thời gian. Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả
kinh tế là đạt được kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết
quả nhất định với chi phí tối thiểu[7]

Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được đánh giá thông qua một hoặc
một số chỉ tiêu.Về phần mình, những chỉ tiêu này phụ thuộc chặt chẽ vào mục
tiêu hoạt động của chủ thể hiệu quả. Do vậy khi phân tích hiệu quả của các
phương án cần làm rõ chiến lược phát triển cũng như mục tiêu của mỗi chủ thể
trong từng giai đoạn phát triển.
Mục tiêu khác nhau trong hoạt động doanh nghiệp mà doanh nghiệp quan
tâm có liên quan tới lợi nhuận.Vì vậy lợi nhuận ổn định là mục tiêu tổng quát và
bao trùm nhất.Cho đến nay các tác giả đều nhất trí dùng lợi nhuận làm tiêu
chuẩn cơ bản để phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh.
2.1.2.3. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
Để xác định hiệu quả kinh tế cần sữ dụng các chỉ tiêu về kinh tế như giá
trị sản xuất, giá trị gia tăng, năng suất, sản lượng… hay nói cách khác hiệu quả
kinh tế được đo lường bằng các chỉ tiêu thể hiện quan hệ so sánh giữa đầu
vào(chi phí kinh tế) và đầu ra(kết quả kinh tế). Việc xác định hiệu quả kinh tế
cần phải tuân theo các nguyên tắc:
- Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả: Theo
nguyên tắc này, tiêu chuẩn hiệu quả được đặt ra dựa trên cơ sở mục tiêu.
- Nguyên tắc về sự thống nhất các lợi ích: Theo nguyên tắc này thì một
phương án sản xuất được xem là có hiệu quả khi nó kết hợp trong đó các lợi ích.
- Nguyên tắc về tính chính xác, tính khoa học: Để đánh giá được hiệu
quả các phương án phải dựa trên hệ thống các chỉ tiêu, tức là phải phân tích định
lượng và phân tích định tính hiệu quả. Nguyên tắc này đòi hỏi những căn cứ
tính toán hiệu quả phải được xác định chính xác, tránh chủ quan tùy tiện.

10


- Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế: theo nguyên tắc này những
phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu quả kinh tế phải dựa trên cơ sở các số
liệu thực tế, đơn giản, dễ hiểu.

Với quan điểm tổng quát thì các chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế lựa chọn để
nghiên cứu chủ yếu được trình bày dưới một số chỉ tiêu cơ bản sau:
Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế:
- Doanh thu (TR): TR = Q × P
Trong đó:

Q Là lượng sản phẩm.
P Giá bán sản phẩm.

Đối với từng loại hình sản xuất, lượng nhân với đơn giá chính là giá trị
sản xuất đối với người sản xuất nguyên liệu và là doanh thu đối với đơn vị
SXKD.
Chi phí sản xuất bao gồm chi phí cố định và lưu động (CPSX)
Chi phí cố định trong sản xuất nông nghiệp là các khoản chi phí không
thay đổi tùy thuộc vào quy mô sản xuất của từng loại hình chuyển đổi như, khấu
hao đầu tư xây dựng cơ bản các hạng mục (các công trình, tài sản cố định, vật
dụng, công việc có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên), mua thuê đất, đào đắp và
khấu hao từ 3 - 5 năm.
Chi phí biến đổi trong sản xuất nông nghiệplà những khoản chi phí thay
đổi theo quy mô sản xuất hoặc doanh số như :(giống, phân bón, trang thiết bị rẽ
tiền, công lao động thuê ngoài, chi khác) Nghiên cứu không tính công lao động
gia đình vào chi phí lưu động.
Chi phí biến đổi cộng chi phí cố định bằng tổng chi phí sản xuất. Trong
khi tổng chi phí biến đổi thay đổi cùng với sự gia tăng của sản xuất hoặc doanh
số thì tổng chi phí cố định không đổi.
Các chỉ tiêu thể hiện hiệu quả sản xuất:
- Lợi nhuận (LN) LN = TR-CPSX
Tỷ suất lợi nhuận/vốn đầu tư (TLN/VĐT): Là tỷ số giữa lợi nhuận và vốn
đầu tư XDCB ban đầu, được tính bằng công thức sau:
TLN/VĐT = LN/ĐT (Lần)


11


Trong đó: ĐT vốn đầu tư XDCB.
Tỷ suất lợi nhuận/vốn đầu tư là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất theo
góc độ vốn đầu tư ban đầu. Qua chỉ tiêu này cho thấy cứ bỏ ra 1 đồng vốn đầu tư
sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Theo công thức trên, nếu TLN/VĐT càng
lớn thì sản xuất càng đạt hiệu quả kinh tế cao và ngược lại.Đây là chỉ tiêu đánh
giá chất lượng vốn đầu tư và được các nhà kinh tế quan tâm.
- Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu (TLN/DT): Là tỷ số giữa lợi nhuận và
doanh thu được tính bằng công thức sau:
TLN/DT = LN/TR (Lần)
Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất theo
góc độ doanh thu. Qua chỉ tiêu này cho thấy trong một 1 đồng doanh thu sẽ thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Theo công thức trên, nếu TLN/DT càng lớn thì
sản xuất càng đạt hiệu quả kinh tế cao và ngược lại.
- Tỷ suất lợi nhuận/Chi phí sản xuất (TLN/CPSX): Là tỷ số giữa lợi
nhuận và chi phí phải bỏ ra, được tính bằng công thức sau:
TLN/CPSX = LN/CPSX (Lần)
Tỷ suất lợi nhuận/Chi phí sản xuất là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất
theo góc độ chi phí. Qua chỉ tiêu này cho thấy cứ bỏ ra một đồng chi phí sẽ thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Theo công thức trên, nếu TLN/DT càng lớn thì
sản xuất càng đạt hiệu quả kinh tế cao và ngược lại.
Một số chỉ tiêu khác:
- Giá trị sản xuất nông nghiệp (GO): Toàn bộ giá trị của cải vật chất và
dịch vụ được sản xuất ra trong nông nghiệp trong một thời gian nhất định
thường là 1 năm.
- Tổng chi phí (TC): Là tổng số chi phí về vật chất, dịch vụ và lao dộng đã
đầu tư cho việc tổ chức và tiến hành sản xuất trong năm.

TC = IC + A (khấu hao) + CL (lđ gia đình và các vật chất tự có)
2.1.2.4. Hiệu quả xã hội
Trong thực tế chúng ta thấy rằng: kết quả đạt được của các hoạt động sản
xuất rất đa dạng và phong phú, có thể thu được trên phương diện kinh tế tài
chính, cũng có kết quả thu được trên phương diện xã hội và môi trường như:
12


giảm thất nghiệp, cải thiện môi trường, cải tạo nguồn nước, tăng độ phì nhiêu
đất, cải tạo các điều kiện tự nhiên… Do đó hình thành nên các khái niệm hiệu
quả môi trường và hiệu quả xã hội.[8]
Bất kì hoạt động sản xuất kinh doanh nào đều có mục đích chủ yếu là hiệu
quả kinh tế. Tuy vậy, kết quả kinh tế không phải là cái đích chung nhất mà các
nhà sản xuất mong muốn đạt được. Vì các hoạt động này còn tạo ra nhiều kết
quả khác liên quan tới đời sống kinh tế xã hội của con người như: cải thiện chất
lượng cuộc sống việc làm, cải thiện sức khỏe, điều kiện y tế giáo dục, tiếp cận
truyền thông, cải thiện môi trường sống… tóm lại là đạt được các kết quả về xã
hội và môi trường.
Hiệu quả xã hội là tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra với kết quả mà
xã hội đạt được như tăng thêm việc làm, thay đổi phân công lao động xã hội,
giảm khoảng cách giàu nghèo… hay nói ngắn gọn đó là những tác động về mặt
xã hội của một phương án sản xuất cụ thể.
Nhưng thông thường, các hiệu quả kinh tế thường đi kèm với các hiệu quả
xã hội.Vì thế mà hình thành nên khái niệm hiệu quả kinh tế - xã hội. Đó là tương
quan giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được về mặt kinh tế xã hội.
Khi phân tích khía cạnh xã hội của một phương án sản xuất cần chú ý đến
các đối tượng phục vụ của nó. Các tiêu chuẩn xã hội có tính chất tương đối vì nó
phục thuộc vào từng quốc gia, từng thời kì nhưng thường bao gồm các tiêu
chuẩn như: phân phối thu nhập, dân số, việc làm, văn hóa giáo dục, y tế…[9]
Việc đánh giá tác động xã hội của một phương án sản xuất có thể được

xem xét thông qua các vấn đề như mức độ giải quyết việc làm cho cộng đồng
dân cư; khả năng thay đổi tập quán và phương thức canh tác lạc hậu của người
dân; khả năng nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống văn hóa, tinh thần, y tế,
sức khỏe cộng đồng… Ngoài ra còn đánh giá tác động xã hội thông qua khả
năng góp phần thỏa mản tiêu dùng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của
khu vực.
2.1.2.5. Hiệu quả môi trường
Ngoài các hiệu quả kinh tế, xã hội thì bất kỳ phương án sản xuất nào cũng
đều có hiệu quả về mặt môi trường. Đó là tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra
và kết quả thu được về mặt môi trường như sự ô nhiểm môi trường đất, nước,

13


bầukhông khí … Có thể hiểu đơn giản rằng: Hiệu quả môi trường là tác động lên
môi trường sinh thái của một phương án sản xuất cụ thể nào đó.
Hoạt động nông nghiệp nông thôn đều có ảnh hưởng trực tiếp đến môi
trường sinh thái theo hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Do đó phương án
sản xuất sẽ được chấp nhận nếu có chiều hướng tác động tích cực đến bảo vệ và
cải thiện môi trường và các tác động tiêu cực(nếu có) là phải nhỏ nhất hoặc
không vượt quá các tiêu chuẩn cho phép của Nhà nước. Thông thường, các tác
động môi trường được xem xét trên các khía cạnh như: tác động đến việc bảo vệ
và cải tạo đất; tác động đến việc bảo vệ và cải tạo nguồn nước; tác động đến
việc bảo vệ và cải tạo bầu không khí của con người; tác động đến việc bảo vệ và
duy trì các công trình thủy lợi, thủy điện và các công trình khác; tác động đến
việc bảo vệ và phát triển đa dạng sinh học, bảo vệ các nguồn gen…
Vậy hiệu quả của việc chuyển đổi là tương quan so sánh giữa chi phí bỏ
ra với các kết quả về kinh tế, xã hội, môi trường do hoạt động chuyển đổi này
mang lại. Hay nói cách khác: hiệu quả chuyển đổi là sự so sánh chi phí bỏ ra
cũng như kết quả thu được giữa hai hoạt động sản xuất lúa và sản xuất dưa.

2.1.3. Vài trò của cây dưa hấu đối với con người
2.1.3.1. Tình hình sản xuất dưa tại Việt Nam và trên thế giới
Dưa hấu được trồng ở Việt Nam từ lâu đời nay, sự tích Mai An Tiêm
trồng dưa hấu trên đảo hoang là minh chứng dưa hấu dược di thực vào Việt Nam
từ thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, các vùng trồng nhiều dưa hấu lâu đời ở Hải
Dương, Nghệ An, Quảng Nam, Tiên Giang, Long An, ngày nay do xu thế của
nền kinh tế thị trường các vùng trồng dưa hấu đã được mở rộng khắp cả nước ở
những vùng có điều kiện phù hợp với dưa hấu: Lạng Sơn, Hòa Bình, Quảng
Bình… Nhờ vào tiến bộ kỹ thuật về giống mới dưa hấu đã được trồng vào cá
mùa vụ trong năm với sản lượng tăng hằng năm với diện tích trồng dưa hấu
không ổn định: xấp xỉ 20.000 ha/năm. Sản lượng dưa dưa hấu dao động: 500600 ngàn tấn/năm vào năm 2014.
Diện tích gieo trồng trên thế giới hằng năm đạt hai triệu ha, sản lượng đạt
ba mươi triệu tấn. Trong đó châu Á chiếmdiện tích gieo trồng lớn nhất với
những nước Trung Quốc, Ấn Độ, Thái lan, Hàn Quốc, Philippine, Indonexia..
2.1.3.2 Giá trị kinh tế và sử dụng

14


Giá trị kinh tế: Cây dưa hấu làm thay đổi bộ mặt nông thôn ngày nay, nó
được xem là một trong những cây góp phần xóa đói giảm nghèo có hiệu quả,
nâng cao thu nhập người nông dân. Hiện nay diện tích dưa hấu ngày càng được
mở rộng, ở nước ta dưa hấu được xem là mặt hàng xuất khẩu có ý nghĩa chiến
lược và thu về ngoại tệ cho đất nước. Dưa hấu góp phần bảo đảm thắng lợi của
chủ trương đổi mới cơ cấu cây trồng, đa dạng hóa các sản phẩm nông nghiệp
đồng thời góp phần tích cực trong kim ngạnh xuất khẩu rau quả nước ta,
Giá trị dinh dưỡng: Dưa hấu có giá trị dinh dưỡng cao, có lợi cho sức
khỏe con người. Trong trái dưa có chứa 90% nước, protein. Lipit, carotene, các
chất khoáng… Dưa hấu là loại rau quả nổi tiếng xứ nhiệt đới có thành phần dinh
dưỡng như sau(trong 100g ăn được).

Bảng 2.1. Bảng cơ cấu giá trị dinh dưỡng có trong dưa hấu
TT

Các chất

Tỷ lệ (%)

1

Protein

0,2

2

Chất béo

0,2

3

Cacbonhydrat

3,3

4

Năng lượng

16


5

Can xi

11

6

Vitamin PP

0,1

7

Vitamin C

1

8

Photpho

1,2

9

Vitamin B1

0,02


10

B6

0,02

11

Đường

10-14
(Nguồn: Tạp chí nông nghiệp, 2012)

Giá trị sữ dụng: Tuy thành phần dưỡng chất thấp nhưng dưa hấu dùng làm
nước giải khát, ăn tươi, chữa bệnh cảm nắng. Theo Th.s Hoàng Khánh Toàn,
dưa hấu vị ngọt, tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt giải trừ. Được người xưa
mệnh danh là “thiên nhiên bạch hổ thang”, ý nói rằng dưa hấu có tác dụng thanh
nhiệt không khác gì bạch hổ thang, một trong những bày thuốc điễn hình của
nhóm phương thang có công năng thanh nhiệt tá hỏa. Đặc biệt vỏ quả dưa hấu
15


còn gọi là tây qua bì cũng là vị thuốc có công dụng thanh nhiệt giải trừ, thường
được dân gian dùng dưới dạng sắc, hãm uống thay trà hoặc chế thành các món
nộm ăn sống.
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.2.1. Kinh nghiệm chuyển đổi cơ cấu cây trồng của các nước trên thế giới
Hoạt động nông nghiệp ngay từ khi bắt đầu đã tạo ra được những cơ cấu
cây trồng nông nghiệp thích hợp, các cơ cấu nông nghiệp ấy từ lúc bắt đầu hình

thành, từ lúc đầu cso hoạt động nông nghiệp và suốt thời kì chiếm hữu nô lệ hay
phong kiến, bất kỳ ở đâu, dù có đa dạng đến đâu, về cơ bản là những cơ cấu
nông nghiệp mang tính tự cung tự, cấp. Tất nhiên, trong từng quá trình phát triển
cũng có một số nông sản dư thừa được trao đổi tại các chợ địa phương hay ở
một số vùng nhưng tỷ suất hang hóa vẫn thấp. Cơ cấu nông nghiệp tự cung tự
cấp không giải quyết được một cách vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm,
đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu của sự trì trệ của xã hội phong kiến
châu Á lâu đời trong hằng ngàn năm.
Cơ cấu nông nghiệp tự cung tự cấp lần đầu tiên đã bị phá vỡ ở Tây Âu với
sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản.Nó đã từng bước thay thế bằng
một cơ cấu kinh tế mang tính chất hàng hóa cao.
Sau đây là quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng của một số nước:
- Trung Quốc, Năm 1999 diện tích gieo trồng của Trung Quốc là 157
triệu ha. Trong đó, diện tích trồng cây lương thực là 113 triệu ha, cây thương
phẩm 37 triệu ha và các cây trồng khác là 7 triệu ha. Để nâng cao hiệu quả
ngành trồng trọt, Trung Quốc tập trung chuyển từ cơ cấu hai loại cây trồng chính
là cây lương thực và cây thương phẩm sang ba loại cây trồng: Cây lương thực,
thương phẩm và nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi. Mục tiêu chuyển đổi
cơ cấu ngành trồng trọt Trung Quốc là giảm dần tỷ trọng cây lương thực, mở
rộng diện tích trồng cây rau quả, cây thương phẩm… làm nguyên liệu cho ngành
chế biến thực phẩm và chế biến thức ăn gia súc, chuyển dần ưu thế ngành trồng
trọt sang cung cấp nguyên liệu cho chế biến và thị thường.
Với chính sách phát triển nông nghiệp toàn diện, hàng trăm triệu hộ nông
dân Trung Quốc đã chuyển từ trạng thái kinh tế tự cung tự cấp sang nên kinh tế
hàng hóa, nông nghiệp phát triển ổn định tạo điều kiện cho sự phát triển chung
của nền kinh tế quốc dân.[11]
16


- Thái Lan: Trong những năm 60 của thế kỷ XX Thái Lan vẫn là nước

lạc hậu, yếu kém về nông nghiệp và công nghiệp, trên 90% dân số là nông dân
nên họ đã chọn công nghiệp hóa làm con đường để thúc đẩy nông nghiệp phát
triển. Vào thời kì đầu, Thái Lan chọn mô hình công nghiệp hóa đô thị và tập
trung xây dựng mốt số ngành công nghiệp trọng yếu như: dầu hỏa, sản xuất tư
liệu sản xuất…Đi theo hướng này chẵng những nền kinh tế ko phát triển mà còn
lâm vào tình trạng trì trệ, nông nghiệp vẫn lạc hậu, què quặt phân tán. Trước tình
hình trên với quan điểm nông thôn là xương sống của đất nước, Thái Lan
chuyển hướng chiến lược, công nghiệp hóa đô thị đã chuyển sang đa dạng hóa
nền kinh tế, đa dạng hóa cả đô thị lẫn nông thôn, cả công nghiệp lẫn nông
nghiệp đều hướng về xuất khẩu. Trong phát triển nông nghiệp, chú trọng đa
dạng hóa các loại cây trồng vật nuôi, đa dạng hóa sản phẩm nông, lâm, ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến.
Đến nay, kinh tế nông thôn Thái Lan đã có sự phát triển nhanh theo
hướng sản xuất và xuất khẩu ngày càng nhiều nông sản hàng hóa, các vùng
chuyên canh lớn được hình thành, các khu công nghiệp chế biến xuất khẩu cũng
được phát triển. Với chủ trương phát triển nông nghiệp đa dạng gắn với công
nghiệp chế biến hướng về xuất khẩu nên nông sản hàng hóa rất được thị trường
quốc tế ưa chuộng như: Nước dứa, rau, quả tươi, mực, tôm đông lạnh…[11]
Philipinl: Nền kinh tế Philipinl phụ thuộc rất lớn vào nông nghiệp. Năm
1998 dân số Philipinl là 73 triệu người trong đó có khoảng 29 triệu người sống
bằng sản xuất nông nghiệp. Tổng diện tích đất trồng trọt của Philipinl năm 1998
là 11,6 triệu ha, trong đó diện tích lúa gạo và ngô chiếm 5.5 triệu ha. Các mặt
hàng xuấ khẩu chủ yếu của Philipinl là dừa, đường, dứa, chuối, cà phê và
xoài.Mặc dù lúa, ngô chiếm tỷ trọng lớn trong tổng diện tích đât nông nghiệp
những Philipinl vẫn phải nhập khẩu nông sản.
Trong những năm qua do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa cùng
với áp lực tăng dân số đã làm giảm diện tích đất trồng trọt của Philippinl. Chính
phủ Philippil đã triển khai hàng loạt chính sách nhằm phát triển nông nghiệp,
trong đó chuyển đổi cơ cấu cây trồng sẽ giúp tối đa hóa hiệu quả sử dụng đất
đai, tăng năng suất lao động và thu nhâp của các hộ dân.Tại Philippinl, quá trình

chuyển đổi cơ cấu cây trồng diễn ra chủ yếu trên đất trồng lúa và trồng dừa.
Trên đất trồng lúa, đối với Philippinl, ngô, thuốc lá và các loại cây họ đậu là
những cây trồng chính luân canh với lúa. Trong giai đoạn 1991 – 1995, ở các
17


vùng đất thấp chủ yếu dựa vào nguồn nước mưa áp dụng các hệ thống luân canh
chính là: Lúa – ngô, lúa- rau đậu. Trong những năm gần đây hệ thống đa dạng
hóa trên đất trồng lúa của Philippinl lại thay đổi. Theo điều ra của Viện nghiên
cứu Lúa gạo Philippinl, trong 2 năm gần đây, có sáu hệ thống canh tác chính
trên đất trồng lúa là: Lúa - lúa, lúa – rau, lúa – cá, lúa – ngô, lúa – cây họ đậu và
các loại khác[11].
Tóm lại, trong những năm qua, cùng với sự phát triển về sản xuất nông
nghiệp và tăng trưởng về mức sống, nhiều nước trên thế giới đã đẩy mạnh
chuyển đổi cơ cấu cây trồng và đa dạng hóa sản xuất, cố gắng phát huy lợi thế
sao sánh, chấp nhận nhập khẩu nguyên liệu và các mặt hàng sản xuất không có
lợi thế để tập trung sản xuất thật hiệu quả một số mặt hàng xuất khẩu có khả
năng cạnh tranh với khối lượng lớn. Xu thế chung là:
- Chuyển từ đất sản xuất lúa sang rau màu và cây ăn quả.
- Chuyển từ trồng cây lúa sang cây công nghiệp dài ngày.
- Chuyển từ độc canh lúa sang luân canh màu trên nền lúa.
- Chuyển từ trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản.
Như đã biết chuyển dịch cơ cấu cây trồng là xu hướng chung của toàn thế
giới nhằm gia tăng giá trị sản xuất và tăng trưởng kinh tế, ngoài đáp ứng nhu cầu
an ninh lương thực nhưng chúng ta phải chuyển dich cơ cấu cây trồng một cách
hợp lý là nhu cầu tất yếu để phát triển nông nghiệp bền vững dựa trên lợi thế so
sánh giữa các vùng sinh thái và điều tự nhiên.
2.2.2. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng tại Việt Nam
2.2.2.1. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong nước
Đối với nước ta việc cải thiện để hình thành một cơ cấu kinh tế nông

nghiệp hợp lý nên hướng vào đa dạng hóa trên cơ sở chuyên môn hóa sản xuất
phù hợp với thế mạnh thật sự của từng vùng sinh thái, từng địa phương, từng cơ
sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp trước hết là những lợi thế về điều kiện tự
nhiên và lao động so với các vùng khác.
Trong ngành trồng trọt có các tiểu ngành sản xuất lương thực, cây trồng
công nghiệp, cây ăn quả, rau màu, và các cây dược liệu. Cơ cấu của ngành trồng
trọt ở nước ta mấy năm gần đây đã có những biến đổi tốt theo hướng tiến bộ:
cây công nghiệp, cây ăn quả, rau màu và cây dược liệu phát triển khá. Tuy nhiên
18


so với sản xuất lương thực các ngành này vẫn hết sức nhỏ bé. Ngành trồng trọt
nước ta cơ bản vẫn là trồng lương thực trong đó chủ yếu là sản xuất lúa gạo theo
hướng đổi mới gia tăng năng suất cây trồng hoặc tăng vụ trong một năm và đặc
biệt mấy năm gần đây có sự chuyển đổi đất trồng lúa, trồng mía sang trồng các
cây theo hướng thị trường như cây dưa hấu mang lại hiệu quả cao hơn. Theo báo
cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tại các tỉnh phía Bắc đến nay
đã chuyển đổi được 17.150 ha gieo trồng lúa sang trồng các cây trồng hàng năm
khác. Nhiều mô hình mang lại hiệu quả kinh tế rất cao, thu nhập gấp 5-10 lần so
với trồng lúa, một số mô hình đạt 400-500 triệu đồng/ha, mang lại lợi nhuận cao
cho nông dân. Các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên cũng đã
chuyển đổi được 10.276 ha, với nhiều mô hình chuyển đổi cây trồng trên đất lúa
có lợi nhuận hơn từ 1,5 đến 3 lần so với trồng lúa, doanh thu hàng năm bình
quân 100 triệu đồng/ha.
Đặc biệt, đối với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, do được hưởng hỗ
trợ tiền mua giống theo Quyết định 580/QĐ-TTg ngày 22 tháng 4 năm 2014 của
Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ giống để chuyển đổi từ trồng lúa sang
trồng cây mầu, nên tổng diện tích chuyển đổi từ trồng lúa kém hiệu quả sang
trồng dưa leo, dưa dấu, đậu tương, vừng, khoai lang, dưa, rau các loại là 53.800
ha. Kế hoạch năm 2015 các tỉnh vùng này sẽ tiếp tụcchuyển đổi khoảng 80.000

ha gieo trồng lúa sang trồng cây màu.
Do những yêu cầu, điều kiện khí hậu và kinh tế khác nhau mà nhiều địa
phương trên cả nước đã thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng để phát triển kinh
tế mà ở đây ta đang nói đến chuyển đất lúa sang trồng dưa hấu vì những điều
kiện khác nhau của một số địa phương, chẳng hạn, ở Ninh Thuận, Bình Định do
thiếu nước canh tác nên trồng lúa kém hiệu quả mà người dân đã chuyển đổi đổi
đất sản xuất lúa sang trồng cây dưa, và còn đó nhiều địa phương khác trên cả
nước như Quảng Bình, Hòa Bình…. Cũng thực hiện chuyển đổi trên đất lúa
sang các cây lương thực khác như ngô, khoai, sắn, và đã mang lại hiệu quả cao.
Điển hình như hộ dân anh Lê Quang Thành, thôn Láng Me, xã Bắc Sơn (Thuận
Bắc) đã chuyển đổi 9 sào ruộng lúa nước sang trồng dưa, Anh Thành cho biết,
diện tích ruộng lúa vốn hưởng nước từ hồ Sông Trâu, do hiện nay mực nước
xuống thấp, không đủ nước tưới nên gia đình đã chủ động thuê máy bơm và
chuyển toàn bộ 9 sào ruộng sản xuất lúa qua trồng dưa. Đây là năm thứ 3 anh
Thành thực hiện mô hình chuyển đổi này. Dưa trồng từ tháng 6 đến khoảng

19


tháng 8 là có thể cho thu hoạch, mỗi vụ dưa sau khi trừ đi chi phí anh còn thu lãi
khoảng 23 triệu đồng/sào và một trong rất nhiều ví dụ điển hình về chuyển đổi
đất lúa kém hiệu quả. Theo nhận xét ban đầu của các hộ chuyển đổi thì đa số
đều cho rằng việc chuyển đổi này mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn là trông lúa.
Tuy nhiên, đó chỉ mới là hiệu quả ban đầu của các mô hình chuyển đổi và còn
đó nhiều khó khăn thách thức về lâu về dài và cần có những chiến lược chuyển
đổi hợp lý dựa trên nhiều yếu tố khách quan bên ngoài như thị trường, điều kiện
thời tiết khí hậu và bên cạnh đó có những chính sách từ vĩ mô đến vi mô của các
cấp chính quyền, đồng thời các tác động về môi trường và xã hội ra sao thì chưa
có nhiều hộ dân có thể nhận thấy và hiểu rõ được. Do đó cần phải có những
nghiên cứu hoàn chỉnh để cũng cố lòng tin cho họ và có thể khuyến cáo cho các

hộ nông dân khác.
2.2.2.2. Tình hình chuyển đổi đất canh tác trồng lúa sang các các loại dưa tại
địa phương:
Theo Phòng Nông nghiệp huyện Bố Trạch, để công tác chuyển đổi có hiệu
quả huyện đã có chính sách hỗ trợ các hộ tham gia thực hiện 4 triệu đồng/ha. Vụ
Hè Thu năm 2015, huyện Bố Trạch dự kiến sẽ rà soát và tiếp tục chuyển đổi gần
150 ha diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các giống cây trồng khác. Có
thể nói vài năm gần đây tình trạng một số diện tích đất trồng lúa và cây trồng
mang lại hiệu quả thấp trên địa bàn tỉnh bị người dân bỏ hoang là vấn đề được
các cấp, các ngành và địa phương quan tâm, tập trung chỉ đạo giải quyết. Tại
huyện Bố Trạch một số diện tích nói trên đã được người dân mạnh dạn đầu tư,
chuyển sang trồng các loại cây trồng khác có hiệu quả hơn. Trong đó, vụ dưa
hấu năm 2014 mang lại lợi nhuận khá đã khích lệ người dân các địa phương
vùng bắc Sông Dinh chuyển một phần đất màu và đất khác sang trồng cây dưa
đã thu được hiệu quả nhất định nên bà con tự tin hơn. Xã Đại Trạch có 70 ha đất
trồng màu kém hiệu quả và đất không thể sản xuất lúa vụ hè thu, đến thời điểm
này đã chuyển đổi được 10 ha sang trồng dưa hấu. Cũng cần nói thêm, vụ đông
xuân năm 2014-2015 diện tích dưa hấu toàn xã đạt trên 50 ha, trong đó có đến
40 ha trồng manh mún nhỏ lẻ trên đất màu, khó đầu tư thâm canh nên năng suất
thấp. Nhưng theo nhận xét của bà con nông dân ở đây thì hiệu quả kinh tế mang
lại từ trồng dưa vẫn cao hơn so với sản xuất lúa hè thu bấp banh. Còn diện tích
dưa hấu chuyển đổi, do trồng tập trung có điều kiện đầu tư thâm canh, đảm bảo
nước tưới nên năng suất, hiệu quả kinh tế thu được cao hơn nhiều. Điều đáng

20


quan tâm nữa là, mặc dù giá cả dưa hấu các năm gần đây không mấy ổn định và
diễn biến bất lợi của thời tiết luôn là mối lo đối với sản xuất nhưng xu hướng
chuyển đổi vẫn được đa số người dân hưởng ứng mở rộng. Năm 2014, ông Hồ

Văn Chu ở thôn Phúc Tự Đông , xã Đại Trạch đã mạnh dạn đầu tư trồng 5 ha
dưa hấu trên diện tích trồng lúa kém hiệu quả của địa phương. Trong đó 4 ha
kinh doanh còn 1 ha dành để trồng khảo nghiệm nhiều loại dưa khác nhau nhằm
chọn ra giống dưa phù hợp với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng ở đây. Tổng chi
phí sản xuất trên 60 triệu đồng (bao gồm tiền thuê đất, mua hạt giống, phân bón,
tiền công trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, bảo vệ và thu hái). Trong đó trả
công cho lao động thuê mướn thường xuyên 6 triệu đồng/người/tháng, tổng thu
vụ dưa đầu tiên 180 triệu đồng, lãi 120 triệu đồng (bình quân 30 triệu
đồng/ha/vụ). Mặc dù mới vụ đầu nhưng đã có thể khẳng định tiềm năng và hứa
hẹn từ hướng đi mới và do thấy được hiệu quả kinh tế cây dưa mang lại trong vụ
hè thu này nên năm 2015 địa phương đã tạo điều kiện để ông Chu mở rộng diện
tích. Ông Hồ Văn Chu chia sẻ: “Diện tích đất bỏ hoang nhiều tôi thấy quá tiếc
nên mạnh dạn thuê, đầu tư trồng thử dưa hấu, không ngờ hiệu quả mang lại rõ
rệt, lợi nhuận kha khá nên năm nay tiếp tục phát triển cây dưa theo hướng thâm
canh với diện tích lớn hơn”. Ông Phan Văn Ngọ, Phó Chủ tịch UBND xã Đại
Trạch cho biết thêm: “Dân mình chưa giàu, đời sống còn khó khăn, việc bỏ
hoang đất là vấn đề rất nhức nhối cần tập trung giải quyết. Vì vậy, lãnh đạo địa
phương đang vận động, khuyến khích bà con nông dân đầu tư chuyển đổi nhằm
nâng cao hệ số sữ dụng và giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích đất canh tác.
Đây cũng là việc làm quan trọng và cần thiết nhằm nâng cao thu nhập bình quân
đầu người - một trong những tiêu chí hết sức quan trọng trong thực hiện Chương
trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới hiện nay”.

Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU, PHƯƠNG PHÁP VÀ
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là những hộ gia đình có hoạt động chuyển đổi đất
trồng lúa(Oryza sativa) sang trồng dưa hấu (Citrullus lanatus).

21


3.2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Về không gian: đề tại nghiên cứu trên phạm vi một số thôn điển hình
cho chuyển đổi đất lúa sang trồng dưa như thôn Phương Hạ, thôn Xóm Rậy,
thôn Đại Nam 1, Đại Nam 2, Xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Về thời gian: các thông tin thu thập phục vụ cho nghiên cứu từ năm
2013 đến 2016.
3.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.3.1. Chọn điểm nghiên cứu
Chúng tôi chọn xã Đại Trạch làm điểm nghiên cứu vì:
Mục tiêu nghiên cứu chủ yếu của đề tài là đánh giá hiệu quả của việc
chuyển đổi đất sản xuất lúa sang trồng dưa hấu, nên các tiêu chí chọn xã Đại
Trạch làm điểm nghiên cứu được đưa ra như sau:
- Xã Đại Trạch có số hộ trồng dưa đủ lớn để đáp ứng các yêu cầu khi
chọn mẫu điểu tra theo phương pháp ngẫu nhiên không lặp.
- Xã Đại Trạch có hoạt động sản xuất lúa để có thể so sánh hiệu quả giữa
trồng lúa và trồng dưa.
- Xã Đại Trạch có hoạt động chuyển đổi diễn ra mạnh, có các đặc điểm về
đất đai, khí hậu, dân số, lao động, cơ sở hạ tầng… đại diện cho huyện và tỉnh để
đánh giá được tính phù hợp và từ đó đưa ra những khuyến cáo cho nhiều địa
phương khác.
Từ các tiêu chí trên, sau khi khảo sát thực tế tại xã Đại Trạch, chúng tôi
đã quyết định lựa chọn xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch làm địa điểm nghiên cứu,
xã Đại Trạch có 9 thôn.Phần lớn các hộ có sự chuyển đổi đất lúa sang trồng dưa
nằm ở ba thôn: Phương Hạ, Phúc Tự Tây và Đại Nam, đây cũng là địa điểm để
nhân rộng ra toàn xã. Bên cạnh đó, các hộ nuôi trồng dưa này chỉ chuyển đổi
một phần đất lúa sang trồng dưa chứ đa số vẫn canh tác các loại cây trồng nông
nghiệp khác và trồng lúa. Do đó có điều kiện để so sánh và đối chứng, do vậy

chúng tôi chọn ba thôn này để tiến hành nghiên cứu.
3.3.2. Thu thập số liệu thứ cấp
Các thông tin, số liệu về sản xuất nông nghiệp được lấy từ báo cáo tổng
kết tình hình kinh tế xã hội của xã:

22


- Báo cáo tổng kết của xã.
- Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng – an ninh từ năm 2013 đến 2015.
Một số thông tin và số liệu được lấy từ cá tài liệu thống kê như: Niên
giám thống kê; đài khí tượng thủy văn; các số liệu được thu thập từ các cơ quan
địa phương như ban kinh tế xã, nhóm sở thích, địa chính xã, ban dân số xã…
ngoài ra, một số thông tin khác được lấy từ các báo cáo và tạp chí khoa học có
liên quan.
3.3.3. Thu thập số liệu sơ cấp
Chúng tôi đã tiến hành điều tra nông thôn bằng các phương pháp khác nhau
để thu thập số liệu cần thiết về tình hình sản xuất nông nghiệp cũng như sản xuất
các cây trồng lúa và dưa của nông hộ. Các phương pháp được sữ dụng là:
1) Phỏng vấn bằng bảng hỏi
Chúng tôi đã chọn 30 hộ để điều tra bằng các câu hỏi đã chuẩn bị sẵn cho
mục đích nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn chọn hộ: hộ được phỏng vấn phải có các tiêu chuẩn sau:
+ Hộ phải có đất sản xuất lúa và đã trồng dưa trên trên đất lúa hoặc trồng
dưa từ trước lâu đời rồi, có lao động và có tham gia vào sản xuất nông nghiệp.
Đây là tiêu chí quan trọng nhất vì mục đích là tìm hiểu về sản xuất lúa và dưa.
+ Hộ phải có sản xuất dưa để có thể đánh giá hiệu quả sản xuất dưa, đồng
thời xem xét các khoản chi phí đầu tư cho sản xuất dưa.
+ Hộ có thực hiện chuyển đổi đất sản xuất lúa sang trồng dưa để đánh giá

hiệu quả và tính toán các chi phí sản xuất.
Từ các tiêu chí này, chúng tôi nhờ những người am hiểu lập danh sách các
hộ đáp ứng được các yêu cầu. Sau đó chọn hộ dựa trên những hộ có trồng dưa
trên địa bàn và đánh số thứ tự theo danh sách tên, mỗi thôn chọn 10 hộ. Và tiến
hành chọn ngẫu nhiên 1 đơn vị và cách đơn vị lại chọn tiếp 1 đơn vị khi nào đủ
30 hộ thì dừng lại.
2) Phỏng vấn sâu

23


Đối tượng là cán bộ khuyến nông xã(phó chủ tịch xã phụ trách mãng kinh
tế..) cán bộ phụ trách nông nghiệp xã, trưởng thôn, trưởng xóm, những nông dân
điển hình trong sản xuất dưa....
Nội dung phỏng vấn: Những thông tin chung về địa bàn thôn xóm, những
thông tin tình hình kình tế xã hội thôn xóm, những thay đổi về môi trường nông
thôn, xã hội nông thôn, những chuyển biến về đời sống kinh tế xã hội nông thôn
tại địa bàn, các số liệu cụ thể hóa những chuyển biến, những hiệu quả đó...
3.4. Nội dung nghiên cứu
1) Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội xã Đại Trạch, Huyện Bố Trạch, Tỉnh
Quảng Bình.
2) Thực trạng chuyển đổi đất nông nghiệp tại địa phương, thực trạng
chuyển đổi đất lúa sang đất trồng dưa.
3) Đánh giá hiệu quả chuyển đổi đất lúa sang trồng dưa.
- Hiệu quả kinh tế
- Hiệu quả xã hội
- Hiệu quả môi trường
4) Đánh giá tính phù hợp và khả năng nhân rộng của mô hình trồng dưa
đối với địa bàn nghiên cứu.
- Phù hợp với điều kiện kinh tế

- Phù hợp với khả năng sản xuất
- Phù hợp với môi trường
3.5. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
1) Cách tính toán các chỉ tiêu:
Mục đích của đề tài là đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của
việc chuyển đổi sản xuất trên đất lúa kém hiệu quả sang trồng dưa, nên các chỉ
tiêu gồm có cả định tính và định lượng. Hầu hết các chỉ tiêu về xã hội và môi
trường là định tính, còn các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế được tính toán như sau:
- Giá trị sản xuất(GO) của hộ năm 2014: là phần giá trị sản xuất tạo ra
trong năm của hộ từ trồng dưa.
Công thức chung: GO = Tổng sản lượng × Đơn giá

24


- Chi phí sản xuất trong năm(IC): chỉ tiêu này thể hiện chi phí đầu tư
trung bình của hộ cho hoạt động sản xuất trong năm. Chi phí sản xuất năm 2014
của hoạt động trồng dưa là tổng chi phí đầu tư cho trồng dưa. Chi phí đầu tư cho
trồng dưa tương tự như các cây trồng khác, gồm có: tiền giống, thuốc bảo vệ
thực vật, máy móc, phân bón…
- Giá trị gia tăng(VA): là chỉ tiêu thể hiện hiệu quả(lợi nhuận) của hoạt
động trồng dưa mà nông hộ đã thực hiện trong năm. Giá trị gia tăng được tính
như sau:
VA = GO – IC
- Hiệu quả sữ dụng vốn(HQĐT): được xác định bằng chỉ số giữa giá trị
gia tăng(VA) và chi phí sản xuất(IC). Chỉ tiêu này xác định hiệu quả sản xuất
của một đơn vị chi phí mà nông hộ đã đầu tư.
HQĐT = VA/IC
- Hiệu quả lao động(HQLĐ): chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sự dụng lao
động gia đình của nông hộ. Hiệu quả lao động được tính bằng tỷ số giữa giá trị

gia tăng(VA) và tổng số ngày công lao động gia đình mà nông hộ thực hiện.
HQLĐ = VA/Tổng số ngày công lao động gia đình
Phương pháp xử lý số liệu
Các thông tin thu thập được từ phỏng vấn hộ, chúng tôi tiến hành mã hóa
và xử lý trên máy vi tính bằng các phần mềm Excel 2007. Số liệu được xử lý
theo 2 nhóm cơ bản sau.
- Xử lý thống kê mô tả: Nhằm tính các giá trị trung bình.
- Kiểm định ý nghĩa thống kê; Nhằm tìm hiểu sự khác nhau về giá trị
trung bình giữa các yếu tố.

Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

25


×