Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ DÂN

B¶O §¶M QUYÒN Tù DO TÝN NG¦ìNG, T¤N GI¸O
ë VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ DÂN

B¶O §¶M QUYÒN Tù DO TÝN NG¦ìNG, T¤N GI¸O
ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS CHU HỒNG THANH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

LÊ THỊ DÂN


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO .............................................. 9
1.1.

Khái niệm, đặc điểm về bảo đảm quyền tự so tín ngƣỡng, tôn .................... 9

1.1.1. Khái niệm............................................................................................................ 9
1.1.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ............................................... 15
1.2.

Quy định của pháp luật quốc tế .................................................................... 17


1.2.1. Quy định quốc tế ............................................................................................... 17
1.2.2. Các văn kiện khu vực ....................................................................................... 22
1.3.

Kinh nghiệm bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo trong pháp
luật một số nƣớc trên thế giới ........................................................................ 24

1.3.1. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ .................................................................................. 24
1.3.2. Cộng hòa Pháp .................................................................................................. 26
1.3.3. Trung Quốc ........................................................................................................ 29
1.3.4. Một số quốc gia Hồi giáo tiêu biểu ................................................................... 31
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG,
TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM ......................................... 33
2.1.

Khái quát về tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam ............................................ 33

2.1.1. Đặc điểm của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam ...................................... 33
2.1.2. Khái quát về tình hình tín ngưỡng........................................................... 35
2.1.3. Khái quát về tình hình tôn giáo ở Việt Nam ..................................................... 36
2.2.

Bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt Nam ........ 42

2.2.1. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp Việt Nam ......................... 42
2.2.2. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong các văn bản Luật, Nghị định ............. 46


2.3.


Những thành tựu và hạn chế về bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng,
tôn giáo ở Việt Nam ........................................................................................ 52

2.3.1. Thành tựu .......................................................................................................... 52
2.3.2. Hạn chế ............................................................................................................. 58
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO
ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO TRONG PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ..................................................................... 67
3.1.

Quan điểm về bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo ............................. 67

3.2.

Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng,
tôn giáo trong pháp luật Việt Nam................................................................ 73

3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam ........................................................................................................... 73
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ............................................................................................... 84
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 93


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ACHPR


(The African Commission on
Human and Peoples Rights)

Hiến chương Châu Phi về quyền
con người

ACHR

(The American Convention on
Human Rights)

Công ước Châu Mỹ về quyền con
người

ECHR

(The European Convention on
Human Rights)

Công ước Châu Âu về bảo vệ
quyền con người và tự do cơ bản

ICCPR

(International Convenat on Civil
and Political Rights)

Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị


ICESCR

(International Convenat on
Economic, Social and Cultual
Rights)

Công ước quốc tế về các quyền
kinh tế, văn hóa và xã hội

ILO

(International Labour Organization) Tổ chức lao động quốc tế

UDHR

(Universal Declaration of Human
Rights)

Tuyên ngôn toàn thế giới về
quyền con người

UNESCO

(United Nations Educational

Tổ chức giáo dục, Khoa học và
Văn hóa của Liên hợp quốc

Scientific and Cultural
Organization)



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và
sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng bào
tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam là lịch sử thống nhất và đoàn kết của cộng đồng dân tộc,
giữa các tôn giáo và tín ngưỡng bản địa với các tôn giáo du nhập từ bên ngoài. Các
dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn
liền với đời sống kinh tế và tâm linh của mình.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền cơ bản của con người, được
ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của
nhiều quốc gia trên thế giới. Liên hợp quốc đề cao và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo trong Tuyên ngôn về nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Hầu hết các quốc gia đều ghi nhận và bảo
đảm thực hiện quyền này trong hệ thống pháp luật của mình.
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, số lượng người theo tôn giáo khá đông (chỉ
tính riêng 6 tôn giáo lớn, số tín đồ đã chiếm khoảng ¼ dân số) và đang có xu hướng
phát triển mạnh. Với vị trí nằm giữa ngã ba của Đông Nam Á, giáp biển Đông, là nơi
giao lưu của nhiều luồng tư tưởng văn hóa khác nhau và có vị trí thuận lợi cho việc
tiếp thu hai nền văn minh của phương Đông là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn
Độ. Những đặc điểm tự nhiên, lịch sử và văn hóa đó đã tác động sâu sắc đến tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam làm cho chúng trở nên đa dạng và phong phú hơn. Mặc
dù có nguồn gốc khác nhau, phương châm hành đạo không giống nhau nhưng các tôn
giáo đều có giá trị nhân văn cao đẹp, đạo đời hòa hợp, đều mong muốn sống “tốt đời,
đẹp đạo”, làm cho “nước vinh, đạo sáng”. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn quan
tâm, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho tín đồ tôn giáo, bảo đảm cho các tôn
giáo phát triển hài hòa, đồng hành cùng dân tộc. Giáo hội các tôn giáo khi được Nhà
nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp quan tâm và tạo


1


thuận lợi để hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ pháp luật. Cùng với đó,
Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
đồng bào các dân tộc để đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng tôn giáo chính đáng
của các tín đồ. Đó là nhân tố quan trọng để động viên đồng bào có tín ngưỡng, tôn
giáo tích cực tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Xuất phát từ nhận thức mới về vấn đề tôn giáo, năm 1990 Bộ chính trị ra Nghị
quyết 24 về công tác tôn giáo đã khẳng định “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn
giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Từ trước đến nay,
đồng bào các tôn giáo luôn sống chung hòa hợp, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc; kề
vai sát cánh bên nhau đấu tranh chống kẻ thù xâm lược và chế ngự thiên nhiên, hình
thành một truyền thống tốt đẹp: “Nước vinh, đạo sáng”, “Sống phúc âm trong lòng
dân tộc”. Trên cơ sở xác định chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo là một bộ phận
quan trọng của công tác vận động quần chúng nhân dân, cho nên trong quá trình lãnh
đạo, Đảng và Nhà nước luôn coi đây là kim chỉ nam cho mọi hành động của hệ thống
chính trị trong ứng xử đối với các đồng bào các tôn giáo.
Từ kinh nghiệm bảo đảm quyền tự do của các nước trên thế giới và từ chính
sách mở rộng đối ngoại, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế với
việc Việt Nam tham gia hầu hết các công ước quốc tế, Việt Nam cần xây dựng và
hoàn thiện chính sách pháp luật đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời cụ thể
hơn nữa những biện pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Với phương
châm chủ động của Đảng và Nhà nước ta trong nhiều kỳ Đại hội vừa qua đã không
ngừng khẳng định “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Thực tế, Việt
Nam có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, quan hệ
quốc tế của các tổ chức tôn giáo cũng phát triển rộng mở trên nhiều lĩnh vực khác

nhau trong đời sống xã hội. Theo đó, hoạt động đối ngoại tôn giáo đòi hỏi tương xứng
và phù hợp với đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước ta và phải phải
phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó có quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo.

2


Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng đã từng bước
đổi mới về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong quá trình đó, tư duy lý luận
của Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được thể hiện một cách đầy đủ,
hoàn thiện hơn theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong thời kỳ đổi
mới và thực hiện chính sách về tôn giáo: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là một xu thế tiến bộ của nhân loại đã trở thành một chính sách lớn
của nhiều nhà nước. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một nguyên tắc
trong quan hệ của Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tôn giáo; là động lực quan
trọng giúp đồng bào tôn giáo nhận thức rằng: Nhà nước không phân biệt đối xử, luôn
bình đẳng giữa đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo; là
một nhân tố quan trọng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính
vì vậy, Đại hội lần thứ XII của Đảng gần đây tiếp tục chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo” [18].
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta cũng đã và đang bộc lộ một số hạn chế, chưa phù hợp với
tình hình thực tế. Chính sách của Đảng về tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo chưa
được cụ thể hóa kịp thời thành pháp luật; hoặc chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến việc áp
dụng không thống nhất giữa các địa phương, thậm chí sai chủ trương, chưa đáp ứng
được nhu cầu tôn giáo ngày càng tăng của tổ chức, cá nhân tôn giáo. Ở nhiều nơi, các
hình thức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra phức tạp. Một số quan hệ Nhà nước
với các tổ chức tôn giáo, giữa một số tổ chức tôn giáo với nhau hoặc giữa các cộng

đồng thù địch mang màu sắc tín ngưỡng, tôn giáo đã có lúc biến thành xung đột bạo
lực, cản trở sự phát triển của xã hội.
Trình độ văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật, văn hóa nhân quyền của
người dân đến nay vẫn chưa cao, chưa đồng đều, ngay cả cán bộ trong bộ máy nhà
nước cũng chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tín ngưỡng, tôn giáo; về chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo;

3


đặc biệt là khuôn khổ pháp luật quốc tế về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Ngoài ra,
các thế lực thù địch vẫn cố tình xuyên tạc tình hình dân tộc, tôn giáo ở nước ta nhằm
phục vụ cho âm mưu “Diễn biến Hòa Bình” của chúng dẫn đến khó khăn trong việc
luật pháp hóa hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Một bộ phận tín đồ, chức sắc trong tôn
giáo đã bị các thế lực xấu tìm cách lợi dụng để chống phá công cuộc xây dựng đất
nước, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; những phần tử cực đoan ở nước
ngoài cấu kết với bọn phản động trong nước lợi dụng vấn đề tôn giáo với chiêu bài
“tự do, dân chủ, nhân quyền”, coi đó như là con bài gây sức ép với Việt Nam
trong thảo luận về các vấn đề kinh tế, chính trị, ngoại giao để can thiệp sâu vào công
việc nội bộ của ta. Cùng với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đang diễn ra bình thường
trong khuôn khổ pháp luật thì đã xuất hiện nhiều hiện tượng đáng lo ngại, tiềm ẩn
nhiều nguy cơ đối với xã hội. Chẳng hạn như đã có tình trạng nhân danh truyền giáo
để thực hiện những mục đích phi tôn giáo, gây mất ổn định xã hội, phá vỡ kết cấu xã
hội truyền thống, ảnh hưởng đến bảo tồn sắc thái văn hóa cổ truyền. Các hoạt động
hành lễ mang tính chất mê tín, dị đoan; các hiện tượng tệ nạn xã hội ăn theo sự bùng
phát lễ hội làm méo mó đời sống lễ hội, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mĩ tục và
trật tự an toàn xã hội.
Như vậy, từ những nhận thức lý luận mới về tôn giáo, về bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo; từ kinh nghiệm quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tự
do tôn giáo; từ thực trạng chính sách và việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo,

mặc dù có nhiều thành tựu, song chưa tạo được hành lang pháp lý vững chắc, tính khả
thi và hiệu quả chưa cao. Với những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình,
với mục đích góp phần khắc phục những hạn chế trong nghiên cứu khoa học về bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của cá nhân, tổ chức tôn giáo trước yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, nhằm
bổ sung, hoàn thiện và phát triển các quan điểm, chính sách đã có, đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam
trong tình hình hình hiện nay.

4


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm, được pháp luật quốc tế và các
quốc gai tôn trọng và bảo vệ, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, có rất nhiều công trình
nghiên cứu lý luận về tôn giáo, nhiều bài viết về tôn giáo và ảnh hưởng của tôn giáo
đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về tôn giáo ở Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong nước
như: Tình hình và thực trạng tôn giáo ở Việt Nam hiện nay của PGS.TS Nguyễn Đức
Lữ; GS.TS Đặng Nghiêm Vạn với Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia; Trần Minh Thư với Tìm hiểu Pháp luật Việt Nam về
tôn giáo, tín ngưỡng.
Ngoài ra còn có Tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam,
Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự thuộc Bộ quốc phòng, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 2005. Ban tôn giáo Chính phủ với cuốn sách Tôn giáo và chính sách tôn
giáo ở Việt Nam đã giúp tác giả có cái nhìn toàn diện hơn về tình hình tôn giáo, hiểu
rõ quan điểm, nhận thức tư duy lý luận mới của Đảng ta về vấn đề tôn giáo, tôn trọng
tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo trong thời kỳ đổi mới.

Bên cạnh đó, nhiều bài viết đã đề cập đến quan điểm, đường lối của Đảng và
Nhà nước ta, nhất là trong thời kỳ đổi mới, trong đó là bài viết Tôn trọng tự do tín
ngưỡng, tự do tôn giáo – Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước của Đặng Tài
Tính (Công tác tôn giáo, số 1/2005); PGS.TS Nguyễn Hồng Dương với cuốn sách
Quan điểm, đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia.
Luận văn thạc sĩ của Lê Quang Hưng về "Pháp luật Việt Nam về quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo" năm 2014.
Tuy nhiên, các công trình trên mới nghiên cứu, phân tích về chính sách, hoặc
pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc về tình hình tôn giáo, chưa có công
trình nào nghiên cứu tổng thể về vấn đề bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo
trong pháp luật Việt Nam hiện nay cũng như cập nhật các quy định mới của pháp luật

5


3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu tổng quát về pháp luật Việt Nam, về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo. Đánh giá lại hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến tôn giáo và thực hiện
chính sách tôn giáo trong thời kỳ mới, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Tập trung làm sang tỏ những vấn đề lý luận về tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo.
Nghiên cứu, phân tích những quy định của pháp luật quốc tế về tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Quan điểm, chính sách, pháp luật liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo. Từ đó đối chiếu, so sánh pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo với các chuẩn mực quốc tế.

Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật
Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân của những bất cập trong việc
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định pháp luật Việt Nam về
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách của Nhà nước về hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài về không gian là trên lãnh thổ Việt Nam; về
thời gian là từ khi có Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 đến nay.
5. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nội dung nghiên cứu
Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thông qua
thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

6


5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng về và Nhà nước ta về bảo đảm thực hiện quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
- Luận văn được thực hiện dựa trên việc vận dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp, xã hội học, so sánh, đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Luận
văn cũng khai thác những thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố
để chứng minh cho các luận điểm.

6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn góp phần:
- Đưa ra cái nhìn tổng thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: khái niệm; đặc
điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
- Luận văn phân tích những quy định quốc tế và kinh nghiệm bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật một số nước và sự tương thích của pháp
luật Việt Nam.
- Luận văn phản ánh những vấn đề thực tiễn, cập nhập những thành tựu và hạn
chế liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt
Nam hiện nay; trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân của những bất cập trong việc bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo..
- Phân tích, làm rõ nhận thức lý luận mới về tín ngưỡng, tôn giáo; chính sách
mới về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
- Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn cũng đưa ra
các nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay.

7


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu
làm 3 chương như sau:
Chương 1: Các vấn đề lý luận, pháp lý cơ bản về bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp
luật Việt Nam.

Chương 3: Quan điểm, mục tiêu và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt Nam hiện nay.

8


Chƣơng 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO
1.1. Khái niệm, đặc điểm về bảo đảm quyền tự so tín ngƣỡng, tôn
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm về tín ngưỡng
Theo Chủ nghĩa Mác – Lênin thì tín ngưỡng, tôn giáo là một loại hình thái ý
thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan.
Một số nhà thần học thì xem tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin vào cái thiêng,
cái huyền bí ở đó chứa đựng những yếu tố siêu nhiên, nó có một sức mạnh, một
quyền lực to lớn có thể cứu giúp con người khỏi khổ đau và có được hạnh phúc và
sự bình yên.
Ở Việt Nam, tín ngưỡng cũng có nhiều quan điểm khác nhau:
- Theo GS.TS Đặng Nghiêm Vạn, thuật ngữ tín ngưỡng có thể có hai nghĩa.
Khi nói đến tự do tín ngưỡng, người nước ngoài có thể hiểu đó là niềm tin nói chung
(belief, believe, croyance) hay niềm tin tôn giáo (belief, belive, croyance riligieuse).
Nếu hiểu tín ngưỡng là niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo, nếu hiểu là niềm
tin tôn giáo thì tín ngưỡng chỉ là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành của tôn giáo.
- Các học giả như Toan Anh, Phan Kế Bính… xem tín ngưỡng là tín ngưỡng
dân gian với các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, tập quán, phong tục truyền
thống của dân tộc Việt Nam.
- Tác giả Nguyên Chính cho rằng tín ngưỡng là niềm tin, sự trông cậy và yêu
quý một thế lực siêu nhiên mà với tri thức con người và kinh nghiệm chưa đủ để giải
thích và lý giải được.

- Trong từ điển Hán – Việt, Đào Duy Anh đã giải nghĩa: “Tín ngưỡng là lòng
ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa nào đó”.
Hiện nay, Nhà nước ta cũng phân biệt rõ ràng trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo năm 2004: “Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên;
tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần,

9


thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác
tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội”.
Như vậy, có thể hiểu tín ngưỡng là niềm tin của con người và của cả cộng
đồng người vào những gì siêu nhiên hay thần thánh, thiêng liêng cũng như những đạo
lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó. Tín ngưỡng là một niềm tin có
hệ thống mà con người tin vào để giải thích thế giới và để mang lại sự bình yên cho
bản thân và mọi người. Tín ngưỡng còn là thể hiện giá trị của cuộc sống, ý nghĩa của
cuộc sống bền vững. Tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian, không có tổ chức chặt
chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng, người ta thường nói đến tín ngưỡng của
một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn giáo thì không
mang tính dân gian.
1.1.1.2. Khái niệm về tôn giáo
“Tôn giáo” là thuật ngữ không thuần Việt, được du nhập từ nước ngoài vào từ
cuối Thế kỷ XIX. Thuật ngữ “tôn giáo” vốn có nguồn gốc từ phương Tây, Tiếng Anh
là “religion” và “religion” lại xuất phát từ thuật ngữ “relege” (tiếng Latinh) có nghĩa
là “thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên”, “tôn trọng điều linh thiêng, tôn kính thần
linh” hay “bổn phận, sự gắn kết giữa con người với thần linh”, xét trên một cách thức
nào đó, đây là phương cách để giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh siêu
nhiên. Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo: Các
nhà thần học cho rằng: “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con người”. Một
số nhà tâm lý học lại cho rằng: “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi

cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao
giờ có tôn giáo”. C.Mác trong tác phẩm “Góp phần phê phán Triết học Pháp quyền”
của Hêghen viết: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của
thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có
tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [4]. P. Ăngghen thì cho rằng: “Tôn
giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực lượng bên
ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày”.
Ở Việt Nam, gần đây một số nhà nghiên cứu tôn giáo cũng đưa ra những lý

10


giải hoặc chia sẻ quan điểm của mình về tín ngưỡng, tôn giáo. Trong Từ điển tiếng
Việt xuất bản năm 1992, tác giả Hoàng Phê đưa ra định nghĩa: “Tôn giáo là hình thức
xã hội, gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu
nhiên, cho rằng lực lượng siêu tự nhiên quyết định số phận con người, con người phải
phục tùng, tôn thờ”.
Theo Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn thì “Tôn giáo có nghĩa là thu lượm thêm sức
mạnh siêu nhiên”. Trong cuốn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt
Nam” xuất bản năm 1998 ông cho rằng:
Tôn giáo là thế giới siêu nhiên vô hình được chấp nhận một cách
trực giác và tác động qua lại hư ảo giữa con người và thế giới đó nhằm lý
giải những vấn đề trên trần thế, cũng như ở thế giới bên kia trong những
hoàn cảnh lịch sử, địa lý khác nhau, của từng cộng đồng tôn giáo hay xã
hội khác nhau [50, tr.23].
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Xuân, Phó trưởng ban Tôn giáo Chính phủ đã đưa ra
một định nghĩa về tôn giáo khá bao trùm: “tôn giáo là niềm tin của con người vào thế
giới siêu nhiên và hành vi thực hiện những niềm tin đó. Tôn giáo là “đức tin vào sự
thờ phụng”. Như vậy, với định nghĩa trên thì tôn giáo bao gồm hai phạm trù đó là
niềm tin và hành vi của con người để thực hiện niềm tin vào thế giới siêu nhiên và

đấng siêu nhiên.
Như vậy, tôn giáo hành vi hay hoạt động của con người để thực hiện niềm tin
vào thế giới siêu nhiên và đấng siêu nhiên. Những hoạt động của con người như thờ
phụng, cúng bái, cầu nguyện và việc thực hiện các nghi lễ khác. Niềm tin đó được
biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn hóa
khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ,
những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
1.1.1.3. Khái niệm về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Nếu như “tôn giáo” (religion) là một thuật ngữ không thuần Việt, được du
nhập từ nước ngoài vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX thì “quyền tự do tôn giáo” là
một quan niệm còn đến muộn hơn, song lại gây ra không ít tranh cãi trong giao tiếp
quốc tế, trong đời sống xã hội Việt Nam đương đại và nhiều quốc gia khác.

11


“Tự do” là một giá trị phổ quát của nhân loại, song sự thật đã có nhiều lập luận
khác nhau về cái gọi là tự do trong cuộc sống. Vì vậy, để bàn về “tự do tôn giáo”
trong bối cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, trước tiên cần tìm hiểu về khái niệm “tự
do”. Theo Montesquieu: “Tự do là quyền được làm tất cả những điều mà luật cho
phép”, “tự do là nhận thức được cái tất yếu”. Tuy nhiên, tự do ở đây bị giới hạn bởi
luật. “Luật” theo nghĩa rộng là “quy luật” của cuộc sống: luật của tự nhiên và luật của
xã hội (luật của các tổ chức xã hội, của cộng đồng, luật của Nhà nước…). Con người
không thể và không bao giờ có tự do tuyệt đối, bởi lẽ con người luôn sống trong mối
quan hệ với tự nhiên và với cộng đồng. Việc đặt ra giới hạn như trên là nảy sinh từ
quá trình sinh hoạt và căn tính văn hóa của mỗi cộng đồng. Tự do của một người chỉ
có được khi hành vi của người đó không xâm hại đến lợi ích của người khác và thực
tế tự do của một người sẽ bị giới hạn bởi tự do của người khác.
Tự do tín ngưỡng hay tự do tôn giáo thường được coi là một nguyên tắc ủng
hộ quyền tự do của cá nhân hay cộng đồng trong việc công khai hoặc hoặc bí mật

thực hành, thờ phụng, rao giảng hay tu tập một tôn giáo hay tín ngưỡng. Khái niệm
này thường được thừa nhận là có bao gồm cả việc tự do thay đổi tôn giáo hoặc tự do
không theo một tôn giáo nào. Tại nhiều quốc gia, tự do tín ngưỡng được nhiều người
coi là một quyền cơ bản của con người.
Quan niệm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo được hình thành ở Châu Âu với các
cuộc cách mạng tư sản Thế kỷ XVII- XVIII. Những nhà tư tưởng như John Locker đã
đặt nền móng cho quyền tự do tôn giáo khi cho rằng tôn giáo là vấn đề của cá nhân hơn
là của xã hội. Vai trò của nhà nước không phải là khuyến khích phát triển tôn giáo mà
là bảo vệ quyền của mỗi cá nhân có thể sở hữu niềm tin tôn giáo của chính mình và
cách tốt nhất là hãy để cá nhân, mỗi người hãy tự lựa chọn tôn giáo cho mình.
Quan niệm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo dần dần trở nên hoàn thiện hơn theo
tiến trình vận động của lịch sử. Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 đã đề cập
đến tự do, song chưa nói cụ thể về tự do tôn giáo. Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của Pháp năm 1789 đã nói đến tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo
song cũng chưa đề cập đến một cách cụ thể:

12


Mỗi người đều được phát biểu tư tưởng tự do, về tôn giáo cũng vậy,
miễn là những tư tưởng phát biểu đó không làm tổn thương đến nền trật tự
công cộng đã được pháp luật ấn định phân minh [27].
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền định nghĩa về tự do tín ngưỡng như sau:
Mỗi người có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tín ngưỡng,
quyền này bao gồm tự do thay đổi tín ngưỡng và tự do thể hiện tôn giáo
hay tín ngưỡng của mình một cách cá nhân hoặc công khai trong việc rao
giảng, thực hành, thờ phụng và tu tập [28].
Tuyên bố về tự do tôn giáo của Hội đồng nhà thờ thế giới năm 1948:
Mọi người đều có quyền bày tỏ niềm tin tôn giáo của mình trong
giảng dạy, thờ phụng và thực hành, và công bố tác động của niềm tin của

mình cho mối quan hệ trong một cộng đồng xã hội hay chính trị.
Theo Công đồng Vatincan II thì:
Tự do tôn giáo có nghĩa là các cộng đoàn tôn giáo không bị ngăn
cản trong việc tự do biểu lộ các hiệu năng riêng của giáo thuyết mình trong
việc tổ chức xã hội và làm cho toàn thể sinh hoạt nhân loại được sống. Sau
hết, theo bản tính xã hội của con người, cũng như theo bản chất của tôn
giáo, con người có quyền tự do hội họp hay thành lập những hiệp hội giáo
dục, văn hóa, từ thiện và xã hội do cảm thức tôn giáo thúc đẩy [19].
Trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 ghi nhận:
“Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. Theo đó, các tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật, không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị ngăn cấm.
Người có tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được yên tâm và an toàn hành đạo theo
đúng nghĩa của một đạo giáo chân chính và điều này trở thành nguyên tắc hiến định
trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, trở thành một trong những quyền cơ bản
của con người. Mọi người dân hoàn toàn tự do lựa chọn theo hoặc không theo một tín
ngưỡng, tôn giáo nào" [40].

13


Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng bao gồm quyền theo hoặc không theo một
tôn giáo; quyền tự do thay đổi tôn giáo; quyền tự do thể hiện, bày tỏ tín ngưỡng, tôn
giáo (quyền tự do thực hiện các hoạt động tôn giáo). Đó là một trong những quyền cơ
bản của con người, thuộc nhóm các quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của hầu
hết các quốc gia trên thế giới.
1.1.1.4. Khái niệm về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Cho đến đầu Thế kỷ XX, quan niệm về tự do tôn giáo mới chỉ mang tính quốc
gia riêng lẻ, cho đến khi Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền

ngày 10 - 12 - 1948 thì tự do tôn giáo mới trở thành một quyền mang tính quốc tế.
Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, tại phần mở đầu đã tuyên bố: “Khẳng
định một lần nữa sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con
người, vào quyền bình đẳng giữa nam và nữ”. Khoản 3, Điều 1 đã đề cập đến nội
dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng “khuyến khích phát triển sự tôn
trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân
biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Điều 55, mục c ghi nhận Liên hợp
quốc khuyến khích “sự tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền và tự do cơ bản của
tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo” [34].
Trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, lần đầu tiên Đại hội
đồng Liên hợp quốc có một văn bản tuyên ngôn chính thức về nhân quyền, tạo cơ sở
để Liên hợp quốc cụ thể hóa thành các công ước mang tính chất pháp lý bắt buộc đối
với các quốc gia thành viên trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người nói chung,
các quyền về dân sự, chính trị nói riêng trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Điều 18 ghi nhận như sau: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và
tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình bằng các hình thức
như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá
nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc riêng tư” [28]. UDHR đã xác định các bảo
đảm như tôn trọng và thực thi các nguyên tắc quan trọng nhất trong việc bảo vệ
quyền con người:

14


Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và
các quyền, Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong
bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng
tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo..., Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất
kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm bản Tuyên ngôn này, và chống lại bất

kỳ sự kích động phân biệt dối xử nào như vậy [28].
Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật ghi nhận phù
hợp với quy định của Công ước quốc tế về các quyền dân sự. Pháp luật Việt Nam một
mặt thừa nhận và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, mặt khác
cũng đề ra những phạm vi, giới hạn của việc thực hiện quyền đó. Nhìn chung, pháp
luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã thể hiện được khá đầy đủ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo được nêu trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.
Như vậy, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là việc Nhà nước ghi nhận
các quyền tự do của công dân trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và đề ra các biện
pháp nhằm thúc đẩy cho các quyền đó được thực hiện đồng thời có những cơ chế để
bảo vệ các quyền đó.
1.1.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền con người cơ bản thuộc nhóm
các quyền dân sự, chính trị, gắn liền với nhân thân của mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao, không thể chia cắt và không thể bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất kỳ thể
chế chính trị nào.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được xác lập, thực hiện và phát triển phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và trình độ
phát triển của xã hội, nó luôn phản ánh bản chất của chế độ chính trị xã hội và trình
độ phát triển của xã hội. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn gắn liền với độc lập
dân tộc, chủ nghĩa xã hội, chủ quyền quốc gia, với an ninh và ổn định chính trị, kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Tuy nhiên, mọi hoạt động vẫn cần diễn ra
theo đúng khuôn khổ pháp luật.

15


Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có quy tắc riêng đó là quy tắc đối nhân xử
thế giữa con người với con người, giữa con người với thế giới; nó đề cao, cổ vũ tình

yêu thương đồng loại, sự công bằng, bình đẳng, tự do và nhân phẩm, là nền tảng của
quyền con người. Đó là những nguyên tắc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề rất nhạy cảm, có sức ảnh hưởng mạnh tới nhận
thức cá nhân, hiểu biết thế giới quan của mỗi cá nhân. Những người có tín ngưỡng,
tôn giáo họ đều có niềm tin vào một thế giới siêu nhiên nào đó và coi đó là yếu tố chủ
đạo trong việc thể hiện bản sắc văn hóa của mỗi người. Do đó, việc bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo cũng rất khó khăn và không chỉ trong vấn đề luật pháp mà
còn là cả về đạo đức.
Quyền và tự do cơ bản của mỗi người luôn gắn liền với nghĩa vụ và trách
nhiệm của mỗi cá nhân. Sự tôn trọng và bảo đảm quyền tự do của mỗi người không
thể tách rời khỏi sự tôn trọng quyền và tự do của người khác cũng như quyền của tập
thể, cộng đồng thậm chí cả dân tộc, quốc gia và cộng đồng nhân loại. Quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo bản thân nó đã hàm chứa nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người
theo cũng như không theo, có cũng như không có tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên,
thực tế vẫn có không ít người theo đạo chưa nhận thức được đầy đủ mối quan hệ
khăng khít giữa quyền và nghĩa vụ này nên có những hành động làm ảnh hưởng đến
lợi ích chung của xã hội.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo ở 3 cấp độ: tôn trọng quyền, bảo vệ quyền và thực hiện quyền. Do đó, Nhà
nước cần phải kìm chế, không can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc hưởng thụ
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được ghi nhận trong pháp luật. Phải có những
biện pháp nhằm ngăn chặn sự vi phạm từ bên thứ ba bằng việc xây dựng những cơ
chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm. Nhà nước cần có những kế hoạch,
chương trình, chính sách cụ thể để bảo đảm cho mọi công dân, mọi người có tín
ngưỡng, tôn giáo có thể hưởng thụ quyền đến mức cao nhất.
Quyền tự do bày tỏ tín ngưỡng, tôn giáo không phải là quyền tuyệt đối mà vẫn
có những giới hạn nhất định. Theo khoản 3 Điều 18 Công ước ICCPR (Công ước

16



quốc tế về các quyền dân sự, chính trị) thì việc giới hạn này là cần thiết cho việc bảo
vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hoặc những
quyền và tự do cơ bản của người khác. Nhà nước được quyền dùng những biện pháp
cần thiết để trấn áp những hành vi phi tôn giáo như hoạt động lợi dụng tôn giáo hay
truyền bá những niềm tin đi ngược đạo đức, luân lý (tà giáo). Những giới hạn này chỉ
có thể được hình thành và áp dụng trên cơ sở pháp luật mà thôi.
1.2. Quy định của pháp luật quốc tế
1.2.1. Quy định quốc tế
Điều 18 công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Công
ước ICCPR) đã cụ thể hóa Điều 18 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền cũng
khẳng định:
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn
giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc một tín
ngưỡng do mình lựa chọn và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một
mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín
đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền
giảng. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa
chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ [33].
Dưới đây là một số phân tích trong quy định quốc tế:
1.2.1.1. Không phân biệt đối xử dựa trên tôn giáo
Trong Khoản 1, Điều 2 của công ước ICCPR và Khoản 2, Điều 2 của Công
ước ICESCR đã khẳng định: Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng và
bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền tài phán của mình các
quyền đã được công nhận trong Công ước này, không có bất kỳ sự phân biệt nào về
chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm
khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị khác.
Như vậy, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật
bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc,
màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo.


17


Để cụ thể hóa những điều này, Bình luận chung số 22 đã giải thích rằng: Việc
một tôn giáo được xác định là quốc giáo, là tôn giáo chính thức hay truyền thống,
hoặc có số lượng tín đồ chiếm đa số trong xã hội không được sử dụng để làm ảnh
hưởng đến việc thực hiện các quyền tự do quy định ở các Điều 18 và 27 của ICCPR,
cũng như không được tạo ra sự phân biệt đối xử với tín đồ của các tôn giáo khác,
hoặc với những người không theo tôn giáo nào. Những hình thức phân biệt đối xử với
tín đồ của các tôn giáo khác, hay với những người không theo tôn giáo trong bối cảnh
này, ví dụ việc quy định chỉ những tín đồ thuộc tôn giáo chiếm ưu thế mới được tham
gia chính quyền hay dành những ưu đãi về kinh tế cho họ đều trái với các quy định về
quyền bình đẳng nêu ở Điều 26 ICCPR (đoạn 9) [23].
Điều 5, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965 đã
bao gồm một danh sách các quyền các nước thành viên cam kết bảo đảm mà không
phân biệt, trong đó có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo.
Ngoài ra còn được quy định trong Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội
diệt chủng 1948, Công ước số 111 của ILO năm 1958 về việc bảo đảm quyền bình
đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ mà không phân biệt chủng tộc, màu
da, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị….
1.2.1.2. Tự do theo hay không theo một tôn giáo nhất định
Để cụ thể hóa nội dung Điều 18 ICCPR, bình luận chung số 22 cũng khẳng định:
Quyền tự do chính kiến, niềm tin, lương tâm và tôn giáo có tính bao
quát sâu sắc. Nó bao gồm quyền tự do suy nghĩ về tất cả các vấn đề, tự do
tư tưởng và giữ gìn niềm tin vào các tôn giáo hay tín ngưỡng, cả trên
phương diện cá nhân hay tập thể. Các quyền tự do này phải được tôn trọng
và không thể bị hạn chế hay tước bỏ trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong tình
trạng khẩn cấp của quốc gia như nêu ở Điều 4 của ICCPR (đoạn 1) [23].
Quyền tin hoặc theo một tôn giáo hay tín ngưỡng bao gồm quyền tự do lựa

chọn một tôn giáo hay tín ngưỡng để tin hoặc theo, kể cả việc thay đổi niềm tin từ tôn
giáo, tín ngưỡng này sang tôn giáo, tín ngưỡng khác, thay đổi niềm tin từ vô thần
sang hữu thần và từ hữu thần sang vô thần. Khoản 2 Điều 18 cấm cưỡng ép tin, theo,

18


bỏ hay thay đổi tôn giáo, tín ngưỡng, kể cả bằng những chính sách hay tập quán
nhằm gây sức ép để đạt mục đích đó như hạn chế sự tiếp cận với các dịch vụ giáo
dục, y tế, việc làm hoặc hạn chế các quyền quy định trong Điều 25 và các Điều khác
của ICCPR (đoạn 5).
1.2.1.3. Tự do thể hiện, thực hành tín ngưỡng, tôn giáo
Điều 18 ICCPR phân biệt giữa quyền tự do chính kiến, niềm tin, lương tâm,
tôn giáo hoặc tín ngưỡng với tự do thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều này
không cho phép có bất kỳ sự giới hạn nào với quyền tự do chính kiến, niềm tin, lương
tâm, và quyền tự do tin hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng. Những tự do này
phải được bảo vệ không điều kiện, tương tự quyền tự do được giữ ý kiến nêu trong
khoản 1 Điều 19 (đoạn 3) [23].
Quyền tự do thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng có thể được thực thi với tư
cách cá nhân hay cùng với cộng đồng, ở nơi công cộng hay chỗ riêng tư; thể hiện ở
các hành động như thờ cúng, tham gia những lễ hội tôn giáo, quan sát, thực hành và
giảng dạy về tôn giáo. Khái niệm thờ cúng bao gồm những hoạt động lễ nghi, kỷ
niệm, xây dựng những nơi thờ tự, sử dụng hay trưng bày các vật dụng và biểu tượng
nghi lễ, tham gia các lễ hội và các ngày nghỉ lễ tôn giáo. Việc quan sát và thực hành
tôn giáo không chỉ bao gồm các hoạt động nghỉ lễ, mà còn bao gồm việc tuân thủ các
nguyên tắc về ăn kiêng, trang phục, sử dụng ngôn ngữ đặc biệt, lựa chọn lãnh đạo tôn
giáo, tăng lữ, người thầy tâm linh, thành lập các trường tôn giáo, biên soạn và phân
phát các tài liệu tôn giáo (đoạn 4) [23].
1.2.1.4. Quyền tự do tín ngưỡng của trẻ em và trách nhiệm của cha mẹ trong
việc giáo dục tôn giáo, đạo đức cho con cái theo đạo đức riêng của họ

Theo Điều 14 của Công ước về quyền trẻ em (CRC,1989) các quốc gia thành
viên phải tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo của trẻ em.
Quyền tự do thực hành tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể chịu những hạn chế do
pháp luật quy định và là cần thiết để bảo vệ an ninh công cộng, trật tự xã hội, y tế hay
đạo đức của cộng đồng hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.

19


×