4.1. Các biện pháp ngoại giao
4.1.1. Biện pháp đàm phán
Đàm phán giải quyết tranh chấp quốc tế thực chất là
diễn đàn ngoại giao do các bên tranh chấp hoặc bên thứ
ba tổ chức để các bên tranh chấp tiến hành thương
lượng, thỏa thuận tìm kiếm giải pháp giải quyết hòa
bình các tranh chấp có liên quan.
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, tồn tại nhiều loại
hình đàm phán quốc tế như tư vấn, tham vấn, tham
khảo ý kiến, trao đổi ý kiến, hội nghị.
Vd: Từ khi chưa gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), Việt Nam đã tuyên bố ủng hộ Tuyên
bố của các Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN ngày
18 tháng 3 năm 1995.
4.1. Các biện pháp ngoại giao
4.1.2. Biện pháp môi giới
Môi giới là biện pháp hòa bình nhằm giải quyết tranh chấp
quốc tế không được đề cập cụ thể trong Điều 33 Hiến chương
Liên Hiệp quốc, nhưng biện pháp này được áp dụng rất nhiều
trên thực tế. Theo đó, các cá nhân có uy tín lớn như nguyên
thủ, cựu nguyên thủ quốc gia, Tổng thư ký, nguyên Tổng thư
ký Liên Hiệp quốc hoặc những người đứng đầu các tổ chức
quốc liên chính phủ khác tự nguyện hoặc được các bên tranh
chấp đề nghị đứng ra thuyết phục các bên tranh chấp gặp gỡ,
tiếp xúc để giải quyết tranh chấp.
Ví dụ, năm 1966 Liên Xô đã làm môi giới, tạo điều kiện
cho Ấn Độ và Pa-kít-stan gặp nhau đàm phán ở Tát-xken
nhằm giải quyết xung đột giữa hai nước.
4.1. Các biện pháp ngoại giao
4.1.3. Biện pháp trung gian hòa giải
Trung gian hòa giải là một trong những biện pháp
hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, trong đó có sự
tham gia của bên thứ ba nhằm giúp các bên tranh chấp
giải quyết có hiệu quả các tranh chấp giữa họ với
nhau. Bên trung gian hòa giải có thể là đại diện các
quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc cá nhân có uy tín lớn
trên trường quốc tế.
Ví dụ: Vai trò của nhóm “Bộ tứ” (Liên Hiệp quốc,
Liên minh châu Âu, Cộng hòa Liên bang Nga và Mỹ)
trong việc bảo trợ cho tiến trình hòa bình Trung Đông;
hoặc của Mali và Êthiôpi những năm 1963 – 1964.
4.1. Các biện pháp ngoại giao
4.1.4. Biện pháp thành lập các ủy ban điều tra và ủy
ban hòa giải quốc tế
Các quốc gia tranh chấp sẽ cử một số lượng thành viên
ngang nhau tham gia vào các ủy ban này, sau đó các thành
viên này sẽ tiến hành lựa chọn và mời một công dân của
nước thứ ba làm Chủ tịch ủy ban. Nhiệm vụ của ủy ban
chủ yếu là điều tra, thu thập tất cả các thông tin, ủy ban
hòa giải có nhiệm vụ đưa ra các dự thảo Nghị quyết hoặc
những kết luận để phân tích, trình bày với các bên tranh
chấp.
Ví dụ: Năm 1904, Anh và Nga đã thành lập Ủy ban điều
tra gồm đại diện của Nga, Anh, Pháp, Mỹ, Áo để điều tra
về việc Anh cho rằng hải quân của Nga đã bắn chết một
số ngư dân của họ.
4.1. Các biện pháp ngoại giao
4.1.5. Biện pháp giải quyết tranh chấp trong
khuôn khổ Liên Hiệp quốc
Các biện pháp mà Hội đồng Bảo an có thể sử dụng để
giải quyết các tranh chấp này là biện pháp trung gian
(Điều 36 Hiến chương), hòa giải (Điều 37 Hiến chương);
thực hiện vai trò Ủy ban điều tra (Điều 34 Hiến chương)
và Ủy ban hòa giải( Điều 38 Hiến chương).
Tuy nhiên, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc không có
thẩm quyền xét xử những vấn đề thuộc nội bộ của các
quốc gia và ngược lại, các quốc gia cũng không bị bắt
buộc đưa các vấn đề thuộc nội bộ của quốc gia ra giải
quyết trước Hội đồng Bảo an.
4.2. Các biện pháp tài phán
4.2.1. Giải quyết tranh chấp trước Tòa án công lý quốc
tế
Tòa án có thể tiến hành xét xử theo trình tự đầy đủ hoặc
rút gọn. Thủ tục xét xử đầy đủ phải có 15 Thẩm phán, bao
gồm cả Thẩm phán ad hoc; trong trường hợp đặc biệt, phiên
xử đầy đủ phải có tối thiểu 09 Thẩm phán. Ngoài ra, theo
Điều 26, 29 Quy chế Tòa án, Tòa án cũng có thể thành lập
các Tòa đặc thù (rút gọn trình tự tố tụng) gồm 5 Thẩm phán
(Chánh án, Phó chánh án và 3 Thẩm phán).
Thủ tục nói sẽ được tiến hành bằng việc Tòa án nghe
nhân chứng, luật sư, người đại diện của các bên trình bày
quan điểm, lập luận của mình dưới sự điều hành của Chủ
tịch Tòa án.
4.2. Các biện pháp tài phán
4.2.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế
Cũng như Tòa án Công lý quốc tế, phán quyết của Trọng tài có giá
trị chung thẩm, bắt buộc thi hành đối với các bên tranh chấp. Tuy
nhiên, phán quyết Trọng tài có thể được xem xét lại khi có những
tình tiết, điều kiện mới làm ảnh hưởng đến nội dung của phán
quyết mà trước đó Trọng tài chưa biết đến.
Phán quyết Trọng tài sẽ bị coi là vô hiệu nếu điều ước quốc tế hoặc
điều khoản về Trọng tài mà các bên ký kết vô hiệu hoặc Trọng tài
giải quyết vượt quá thẩm quyền được các bên thỏa thuận hoặc
thành viên hội đồng Trọng tài bị mua chuộc hoặc trong quá trình
giải quyết vụ việc, Trọng tài đã vi phạm thủ tục tố tụng.