Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

BÀI GIẢN SAU đại học xây DỰNG ĐẢNG và CHÍNH QUYỀN NHÀ nước CHUYÊN đề cải CÁCH tư PHÁP đáp ỨNG yêu cầu NHIỆM vụ xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.57 KB, 24 trang )

CẢI CÁCH TƯ PHÁP ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Phần 1: Ý ĐỊNH GIẢNG BÀI
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1. Mục đích yêu cầu:
- Giới thiệu cho người học những kiến thức cơ bản về tư pháp và cải cách
tư pháp đáp ứng yêu cầu nhà nước pháp quyền và NNPQ XHCN Việt Nam hiện
nay;
- Định hướng, gợi mở người học nghiên cứu, vận dung thực hiện tốt chức
trách, nhiệm vụ trên cương vị công tác được giao tham gia góp phần vào cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay
2. Yêu cầu:
- Nắm được những kiến thức cơ bản về tư pháp; cơ sở khách quan và thực
trạng công tác tư pháp và cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
- Nắm chắc quan điểm, yêu cầu, phương hướng, nội dung và nhiệm vụ giải
pháp cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
II. NỘI DUNG

Bố cục 3 phần

I. Tư pháp và tính tất yếu khách quan của cải cách tư pháp trong xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
II. Quan điểm, yêu cầu, phương hướng, nội dung và nhiệm vụ giải pháp cải
cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay
III. THỜI GIAN: 4 tiết
IV. ĐỊAĐIỂM: Giảng đường
V. TỔ CHỨC, PHƯƠNG PHÁP


- Tổ chức: Lên lớp tập trung tại hội trường


- Phương pháp:
Kết hợp hình thức diễn giảng với sử dụng trình chiếu Powerpoint; hướng
dẫn người học tự nghiên cứu với phân tích làm rõ những vấn đề quan trọng.
Học viên nghe ghi theo ý hiểu, tìm đọc tài liệu tham khảo để mở rộng kiến
thức của bản thân
VI. VẬT CHẤT ĐẢM BẢO:
1. Vật chất: Giáo án, tài liệu, phần mềm trình chiếu, phấn bảng
2. Tài liệu:
* Tài liệu bắt buộc:
1. Học viện Chính trị - Tập bài giảng Nhà nước pháp quyền (dùng cho đào
tạo cao học xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước) – H. 12.2013
2. Các chuyên đề bài giảng Lý luận Chính trị cao cấp, Học viện CT-HC
quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb CT-HC, H. 2011.
3. Nghị Quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII; VIII; IX; X; XI.
4. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
5. Luật hành chính Việt nam Nxb CTQG, H.2008
6. Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị khóa X về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020
* Tài liệu tham khảo:
1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn/ PTS.Nguyễn Văn Niên.- H.: Chính trị quốc gia; 1996. - 204tr., 19cm.
2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân.-H.:Quân đội Nhân dân; 2003. - 592tr., 27cm
3. Cơ sở lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân; Chương trình KX.04. Đề tài khoa học cấp Nhà nước.
Mã số KX.04.01/ Nguyễn Duy Quý.- H.; 2004


4. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân; Kỷ yếu hội thảo khoa học. Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà

nước giai đoạn 2001 - 2005. Mã số KX.04- Quyển I.- H. Viện Khoa học xã hội
Việt Nam; 2002. - 150tr.
5. Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng/ LS.
Nguyễn Văn Thảo.- H.: Tư pháp; 2006. - 532 tr., 24 cách mạng
6. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân: Thông tin chuyên đề phục vụ nghiên cứu và giảng dạy; Lưu hành nội bộ/
Viện Thông tin Khoa học.- H.: Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
2007. - 130tr.
7. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân.- H.: Quân đội Nhân dân; 2003. - 592tr., 27cm
8. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam lý luận và
thực tiễn: Sách chuyên khảo/ PGS, TS. Nguyễn Văn Mạnh.- H.: Chính trị quốc
gia; 2010. - 272tr., 20,5cm
9. Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì Nhân dân/ Nguyễn Phú Trọng.- H.: Chính trị quốc
giaSự thật; 2011. - 742tr., 22cm
.

Phần 2: THỰC HÀNH GIẢNG BÀI
I. THỦ TỤC LÊN LỚP
- Nhận báo cáo, kiểm tra công tác chuẩn bị học tập của học viên.
- Báo cáo cấp trên (nếu có)
II. TRÌNH TỰ GIẢNG BÀI
NỘI DUNG

Phần 1

THỜI GIAN

PHƯƠNG PHÁP


60 ph

Thuyết trình + Nêu vấn đề

VẬT CHẤT

Giáo

án,

Powerpoint
Phần 2

120 ph

Thuyết trình + Nêu vấn đề

Giáo

án,


Powerpoint
I. TƯ PHÁP VÀ TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA CẢI CÁCH
TƯ PHÁP TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Khái niệm tư pháp
“Tư pháp” (theo tiếng Latinh cổ “Justitia” hay “Justition”) có nghĩa là
“công lý”, “công bằng”, “pháp chế”, đồng thời dưới góc độ hẹp nội dung bao

gồm toàn bộ các cơ quan Tòa án và hoạt động thực hiện quyền xét xử của
những cơ quan này. Hiện nay, quan điểm và nhận thức về “tư pháp” được xem
xét dưới nhiều khía cạnh khoa học và thực tiễn khác nhau.
Trong thuật ngữ tiếng Việt, chữ “tư pháp” có tới ba nghĩa hoàn toàn khác
nhau:
Trước hết, “tư pháp” là quyền xét xử (tiếng Pháp viết là: pouvoir
judiciaire, tiếng Anh viết là judiciary power). Khái niệm “tư pháp” dùng trong
trường hợp này để chỉ các cơ quan tham gia vào hoạt động xét xử của nhà nước
đối với các hành vi vi phạm pháp luật và các vụ kiện tụng về dân sự giữa công
dân với nhau. Cụ thể, đó là các cơ quan phụ trách công tác điều tra, công tố, xét
xử để xử lý tội phạm theo trình tự tố tụng hình sự và tố tụng dân sự. Chữ “cải
cách tư pháp” dùng hiện nay là nhằm cải cách tổ chức và hoạt động ở các cơ
quan điều tra (công an) công tố (viện kiểm sát) và xét xử (tòa án).
Trong học thuyết tam quyền phân lập, nhà nước có ba quyền: lập pháp
(làm pháp luật), hành pháp (thi hành pháp luật) và tư pháp, thì chữ tư pháp này
được dùng để chỉ một nhánh quyền lực nhà nước phụ trách công việc xét xử và
bảo vệ pháp luật. Hiểu theo nghĩa này, hiện nay chúng ta cũng có từ “tư pháp lý
lịch” hay “lý lịch tư pháp” nghĩa là loại giấy tờ do cơ quan chuyên trách lập, ghi
các quyết định của tòa án đối với người phạm tội theo bản án của tòa án tuyên
(chú ý: cơ quan phụ trách tư pháp lý lịch hiện nay lại thuộc ngành hành pháp,
hành chính nói dưới đây, chứ không thuộc ngành tòa án).
“Tư pháp” còn có nghĩa là sự công bằng, pháp luật (tiếng Pháp và tiếng
Anh đều viết là Justice). Trong nhánh hành pháp (chú ý: không phải là nhánh tư
pháp như nói trên) của nhà nước, ở nhiều nước đều có ngành phụ trách các công
việc liên quan đến pháp luật. Hiểu theo nghĩa này, ở nước ta hiện nay có Bộ Tư


pháp (cơ quan thành viên của Chính phủ), Sở Tư pháp (cơ quan chuyên môn
giúp việc cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương), Phòng Tư pháp
(cơ quan chuyên môn giúp việc cho UBND quận, huyện, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh) và các cán bộ Tư pháp - Hộ tịch giúp việc cho UBND ở cấp phường,
xã, thị trấn. Các cơ quan này phụ trách hoạt động quản lý nhà nước (hành
chính) chuyên môn liên quan đến pháp luật như: xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
pháp luật; và các tổ chức phụ trách quản lý các hoạt động chuyên môn khác
như: công chứng, thi hành án dân sự, giám định pháp y, luật sư, tư vấn pháp
luật, thừa phát lại... gọi chung là “bổ trợ tư pháp”.
Ngoài ra, chữ “tư pháp” còn có một nghĩa khác nữa là ngành luật tư
(tiếng Pháp viết là droit privé, tiếng Anh viết là private law). “Luật tư” (tư
pháp) nghĩa là ngành luật điều chỉnh các quan hệ giữa tư nhân với nhau (như:
luật dân sự hay dân luật, luật hôn nhân và gia đình, luật thương mại...) khác với
“luật công” (công pháp) là ngành luật điều chỉnh các quan hệ mang tính chất
nhà nước (như luật hiến pháp, luật hành chính, luật hình sự, luật tố tụng...).
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do GS. Hoàng Phê chủ
biên thì thuật ngữ “tư pháp” được hiểu là “Việc xét xử các hành vi vi phạm
pháp và và các vụ kiện tụng trong nhân dân (nói khái quát)”1.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba
quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó, quyền tư pháp được hiểu là
hoạt động xét xử của tòa án và những hoạt động của các cơ quan nhà nước
hoặc các tổ chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của tòa án,
nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế, trật tự pháp luật, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Vì vậy, cơ
quan tư pháp bao gồm: tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan
điều tra và các cơ quan, tổ chức tư pháp bổ trợ như: luật sư, công chứng, giám
định, tư vấn pháp luật…

Xem: GS. TS. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học), Nxb. Đà Nẵng - Trung
tâm Từ điển học, 2002, tr.1071.
1



Ở đây, chúng ta nghiên cứu tư pháp với quan niệm là các cơ quan nhà
nước trực tiếp thực hiện quyền tư pháp, trong đó tòa án nhân dân, viện kiểm sát
nhân dân và các cơ quan điều tra là các cơ quan quan trọng nhất.
2. Các cơ quan tư pháp
Khái niệm cơ quan tư pháp cũng là chủ đề còn nhiều ý kiến khác nhau ở
nước ta. Ở các nước phát triển, cơ quan tư pháp chỉ được hiểu là tòa án. Ngay
trong Hiến pháp năm 1946 (Điều thứ 63), cơ quan tư pháp cũng được hiểu chỉ
là các tòa án (gồm có Tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị
cấp và sơ cấp).
Tuy nhiên, cùng với thời gian, nhất là kể từ khi Việt Nam có Hiến pháp
năm 1959, khái niệm cơ quan tư pháp được hiểu theo nghĩa rất rộng, không chỉ
bao gồm các tòa án mà còn bao gồm cả các cơ quan công tố/kiểm sát, các cơ
quan điều tra thuộc ngành Công an.
Khi này, khái niệm “tư pháp” không chỉ được hiểu là ‘xét xử” nữa, mà đã trở
thành khái niệm “bảo vệ pháp luật”. Khái niệm các cơ quan tư pháp với khái niệm
các cơ quan bảo vệ pháp luật trong giai đoạn này gần như trở nên đồng nhất với
nhau.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020” cũng quan niệm các cơ quan tư pháp không chỉ là tòa án, mà
còn bao gồm cả các viện kiểm sát, các cơ quan điều tra và cả các cơ quan thi
hành án (dân sự/hình sự). Với quan niệm như thế, cải cách tư pháp được Nghị
quyết 49 quan niệm theo nghĩa rộng trong đó có việc hợp lý hóa lại thẩm
quyền, chức năng, cơ cấu, tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ của hệ thống tòa án
(dù coi tòa án là trung tâm của nền tư pháp), hệ thống viện kiểm sát, hệ thống
cơ quan điều tra, hệ thống cơ quan thi hành án, hệ thống các thiết chế bổ trợ tư
pháp.
a. Cơ quan điều tra
Cơ quan điều tra tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện

pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người đã thực
hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, điều kiện
phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc
phục và ngăn ngừa.


Hiện nay chúng ta có 3 loại cơ quan điều tra: CQĐT trong CAND, CQĐT
trong QĐND và CQĐT của VKSNDTC
* Trong Công an nhân dân có các Cơ quan điều tra sau đây:
- Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công
an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan Cảnh
sát điều tra Công an cấp tỉnh); Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an cấp huyện);
- Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan An ninh điều tra Công an
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan An ninh
điều tra Công an cấp tỉnh).
* Trong Quân đội nhân dân có các Cơ quan điều tra sau đây:
- Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; Cơ quan điều tra hình sự quân
khu và tương đương; Cơ quan điều tra hình sự khu vực;
- Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan An ninh điều tra
quân khu và tương đương.
* Viện kiểm sát nhân dân tối cao có các Cơ quan điều tra sau đây:
- Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương.
b. Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân gồm có:
1. Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

2. Các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
3. Các Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
4. Các Viện kiểm sát quân sự.
Nhiệm vụ, quyền hạn:
- Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và
các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.


- Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có
trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét
xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh,
kịp thời.
- Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn
nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy
định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật, kịp
thời.
- Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án
nhân dân, cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá
nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật và những bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp
luật nhằm bảo đảm các bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp luật, đầy
đủ, kịp thời.
- Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và
giáo dục người chấp hành án phạt tù.
c. Tòa án nhân dân
Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân
sự và các Toà án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam.
Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp
luật.
Trong phạm vi chức năng của mình, Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân
dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân.
Bằng hoạt động của mình, Toà án góp phần giáo dục công dân trung thành
với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của


cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm
pháp luật khác.
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các Toà án sau đây:
- Toà án nhân dân tối cao;
- Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Các Toà án quân sự;
- Các Toà án khác do luật định.
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc
biệt.
* Nguyên tắc xét xử của TAND:
- Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, việc
xét xử của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của
pháp luật tố tụng. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.
- Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
- Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
- Toà án xét xử công khai, trừ trường hợp cần xét xử kín để giữ gìn bí mật
nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của các đương sự

theo yêu cầu chính đáng của họ.
- Toà án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội,
địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ sở
sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp
luật.
- Toà án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự.
- Toà án bảo đảm cho những người tham gia tố tụng quyền dùng tiếng nói,
chữ viết của dân tộc mình trước Toà án.
- Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.


Đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà phát
hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo trình
tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm do pháp luật tố tụng quy định.
2. Cải cách tư pháp là một tất yếu khách quan trong xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
a. Từ vị trí, vai trò của tư pháp hiện nay
Thứ nhất, trước khi Hiến pháp năm 2013 ra đời thì Hiến pháp năm 1992
chưa xác định rõ quyền lực tư pháp do ai thực hiện.
Hiến pháp năm 2013 có quy định ba quyền: quyền lập pháp, quyền hành
pháp, quyền tư pháp. Điều 69 quy định “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước”. Đặc biệt, khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 có
quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”; khoản 1 Điều 107 quy định “1
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố, kiểm soát hoạt động tư
pháp”. Đây là những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 mà Hiến pháp năm
1992 chưa quy định được. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 cũng mới chỉ hiến

định cái chung nhất Tòa án thực hiện quyền tư pháp, Viện kiểm sát kiểm soát
hoạt động tư pháp còn các vấn đề cụ thể thực hiện quyền tư pháp của Tòa án
như thế nào còn do luật định vấn đề đặt ra trong cải cách tư pháp là phải khẩn
chương sửa đổi bổ sung ban hành luật đển làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Tòa án trong thực hiện quyền tư pháp như thế nào, các cơ quan khác
như Viện kiểm soát và các cơ quan hỗ trợ tư pháp thực hiện quyền này như thế
nào thì chưa có quy định cụ thể.
Thứ hai, nền tư pháp trong những năm vừa qua chưa khẳng định được
tầm quan trọng, vị trí và chức năng của mình trong nhiệm vụ xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong một nền pháp quyền thì vị trí, vai trò của tư pháp rất quan trọng để
bảo đảm việc duy trì sự thượng tôn của Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền
con người. Hiến pháp hiện hành đã chưa thể hiện được tư tưởng chủ đạo này.
Để thực hiện được sứ mệnh đó thì hoạt động xét xử phải được độc lập và trong
sạch.


Mặc dù Hiến pháp năm 2013 mới có bổ sung mới tại khoản 2 Điều 103
“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá
nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” tuy nhiên thực tế
hiện nay không thể phủ nhận rằng việc xét xử vẫn chưa được độc lập nhìn từ
nhiều góc độ, với các cơ sở pháp lý và các cơ chế hiện hành. Sự can thiệp từ
một số yếu tố bên ngoài đối với một số vụ án cụ thể, mối quan hệ phụ thuộc của
tòa án đối với chính quyền địa phương, sự lệ thuộc của tòa án cấp dưới đối với
tòa án cấp trên, của thẩm phán đối với lãnh đạo của tòa án cùng cấp và tòa án
cấp trên, chế độ bổ nhiệm và tuyển chọn thẩm phán hiện nay, nhiệm kỳ thẩm
phán..., là những vấn đề làm cho sự độc lập xét xử chưa được thực hieenjj
nghiêm túc. Hiện tượng tham nhũng trong ngành tư pháp ở mức đáng lo ngại
đã được chỉ rõ trong những văn kiện của Đảng gần đây.
Thiếu sự độc lập và hiện tượng tham nhũng khá phổ biến trong công tác

xét xử đặt ra hai vấn đề cần giải quyết: Làm thế nào để việc xét xử được bảo
đảm độc lập và đồng thời cơ chế giám sát, kiểm soát hoạt động xét xử cần phải
thay đổi ra sao để cho nền tư pháp được trong sạch hơn?
Rõ ràng có nhiều vấn đề thuộc về cơ chế, về phạm vi điều chỉnh của pháp
luật nhưng phải thừa nhận còn thiếu vắng một số cơ chế nhằm nâng cao vị thế
các cơ quan tư pháp, nhằm bảo đảm độc lập xét xử (ví dụ như việc bổ nhiệm
thẩm phán tòa án các cấp, nhiệm kỳ thẩm phán). Hiện nay, khoản 3 Điều 105
Hiến pháp năm 2013 mới bổ sung quy định “Việc bổ nhiệm, phê chuẩn, miễn
nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Thẩm phán và việc bầu, nhiệm kỳ của Hội
thẩm do luật định”; đồng thời khoản 3 Điều 88 cũng mới bổ sung quy định
Chủ tịch nước có quyền “Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn
cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó tránh án Tòa
án nhân dân tối cao, Thẩm phán các tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao…” Đây cũng là điểm mới so với Hiến pháp
năm 1992. Trước khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực để bảo đảm sự kiểm soát
của các quyền lực khác trong việc bổ nhiệm thẩm phán (ví dụ như vai trò của
Quốc hội, của Chủ tịch nước trong việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án Nhân dân


tối cao, vai trò của hội đồng nhân dân địa phương trong việc bổ nhiệm thẩm
phán tòa án nhân dân địa phương) chưa có quy định cơ sở hiến định.
Việc kiểm soát và giám sát của các quyền lực khác với hoạt động tư pháp
thông qua việc xem xét tín nhiệm, bãi nhiệm thẩm phán thay vì cơ chế giám sát
cụ thể đối với các phán quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối
cao như theo quy định của tố tụng hành chính và tố tụng dân sự hiện nay - điều
đó vô hình trung đã “lấn sân” vào quyền tư pháp đã được trao cho ngành tòa án.
b. Từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và những thách thức đối với
công cuộc cải cách tư pháp

Đặc thù của hoạt động tư pháp là duy trì và bảo vệ công lý, bảo vệ pháp
luật, thúc đẩy quan hệ kinh tế, bảo đảm quyền con người và quyền công dân.
Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần thiết phải có một thể chế chính trị
dân chủ, một hệ thống tư pháp đúng đắn, công bằng mà không chấp nhận hệ
thống yếu kém, nhiều phần thiếu công bằng, và có phần tham nhũng như hiện
nay.
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, thực
hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, thực hiện hội nhập kinh tế quốc
tế và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, cải cách tư pháp để đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng phát huy vai trò của
quyền tư pháp trong việc thực thi quyền lực nhà nước thống nhất nhằm bảo đảm
cho nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ
chức và cá nhân đều tuân theo pháp luật và được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở pháp luật, các hành vi vi phạm pháp luật đều được xử lý nhanh chóng, chính
xác, đúng pháp luật, công bằng và nghiêm minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nhà nước, xã hội và công dân.
Hiện nay chúng ta thiếu là thiếu một cơ chế giám sát hữu hiệu, hay nói
cách khác là dân chủ trong việc kiểm tra, giám sát còn hạn chế. Nếu không sớm
cải cách, cứ giữ nguyên như hiện nay thì sẽ không có tư pháp độc lập và đúng
đắn. Do vậy, cần cải cách tư pháp thay đổi căn bản thể chế, đáp ứng sự thay đổi
của đi lên của đất nước
c. Từ thực trạng của công tác tư pháp và cải cách tư pháp


Thời gian qua, hệ thống các cơ quan tư pháp đã góp phần quan trọng vào
việc giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp cả tổ chức, công dân nhưng thực tế, công tác
này cũng còn bộc lộ một số hạn chế, cụ thể như:
- Chính sách hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính còn nhiều bất
cập, chậm sửa đổi bổ sung

- Pháp luật về thủ tục tố tụng tư pháp còn nhiều hạn chế, rườm rà, thiếu thuận
lợi
- Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan
tư pháp còn bất hợp lý
- Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, một bộ phận có trình dộ
nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị yếu, sa sút về phẩm chất
- Vẫn còn tình trạng oan sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử
- Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp còn thiếu
thốn, lạc hậu
- Chế độ, chính sách đối với cán bộ tư pháp chưa tương xứng với nhiệm vụ,
chức trách được giao
- Hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với cơ quan tư
pháp đạt hiệu quả thấp
Những yêu cầu và đòi hỏi của tình hình mới đã đặt ra yêu cầu khách
quan, cấp thiết cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn
nhằm mục tiêu "xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, đất
nước... đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị và góp
phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
II. Quan điểm, định hướng, nội dung và nhiệm vụ giải pháp cải cách
tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Ban chấp hành Trung ương
Đảng xác định một trong các đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN hiện nay là:


“xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản”.
Nhằm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện tốt chủ trương trên, Bộ Chính trị đã
ban hành trong một thời gian ngắn hai nghị quyết 48-NQ/TW về chiến lược xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến
2020 (sau đây gọi là nghị quyết 48) và nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải
cách tư pháp đến 2020 (sau đây gọi là nghị quyết 49), mục tiêu chung là nhằm
hướng đến việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật tiến tới việc xây dựng
thành công mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Văn kiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng cũng xác định: “Đẩy mạnh việc
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp
trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và
về tơ chức bộ máy cơ quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính
độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp.”
VK. Tr250 – 251, Nxb CTQG-ST, H.2011.
1. Quan điểm cải cách tư pháp
- Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm
sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải
cách hành chính.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách tư
pháp. Các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự giám sát
của các cơ quan dân cử và nhân dân.
- Cải cách tư pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành
tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam: tiếp thu có chọn
lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu



cầu chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong
tương lai.
- Cải cách tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng
tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc.
2. Định hướng cải cách tư pháp:
Trong định hướng cải cách tư pháp lần này Bộ Chính trị đã xác định hai
nội dung lớn:
Một là, Tòa án là khâu trung tâm của quá trình cải cách, xét xử là
khâu trọng tâm của toàn bộ họat động tư pháp
Bởi vì thực chất hiệu quả của họat động tư pháp thế hiện chủ yếu ở họat
động xét xử, ở bản án hay quyết định của toàn án, nếu án đúng thấy ngay kết
quả, nếu án sai là họat động không có hiệu quả.
Các họat động khác của tiến trình tư pháp như điều tra, kiểm sát, truy tố
v.v…nếu có sai phạm vẫn có thể khắc phục được và ít để lại hậu quả nhưng nếu
xét xử sai hậu quả để lại rất lớn và đôi khi không thể nào khắc phục được, khó
phục hồi nguyên trạng như trước.
Hai là, từng bước xã hội hóa các họat động tư pháp và họat động bổ
trợ tư pháp.
Ví dụ một số các tranh chấp dân sự và kinh tế không nhất thiết phải cần
đến tòa án có thể giải quyết bằng con đường hòa giải hoặc trọng tài, do một cơ
quan khác đảm nhận vừa nhanh chóng đỡ tốn kém về chi phí và thời gian
Việc tống đạt giấy tờ, quyết định đến bị can và những người có liên quan
có thể giao cho cơ quan tư nhân đảm nhận.
Các họat động bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng, giám định tư pháp
phải tiến đến việc xã hội hóa mạnh để đáp ứng kịp thời yêu cầu phục vụ người
dân.
3. Nội dung cải cách tư pháp:
Nội dung cải cách lần này tập trung ở tám vấn đề lớn quan trọng cần thực
hiện trước tiên, làm khâu đột phá của toàn bộ tiến trình, trong tám nội dung đó
cũng bộc lộ một số quan điểm, ý tưởng hết sức mới mẻ và có tính chiến lược.

Thứ nhất, là vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật,


Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đưa ra là giảm bớt đến mức tối đa
các hình phạt tù trong giai đọan hiện nay, tăng hình phạt tiền nhất là đối với
các án về kinh tế.
Điều này vừa để giảm bớt gánh nặng cho các cơ quan tư pháp, vừa có tác
dụng răn đe và nhất là có thể khôi phục lại sự tổn hại về vật chất và tài sản đã
gây ra
Thứ hai là việc giao trách nhiệm chứng minh cho hai bên trong việc
giải quyết các tranh chấp dân sụ tại tòa án
Điều này vừa giảm tải công việc và trách nhiệm cho tòa án vừa đảm bảo
khách quan và công bằng trong khi xét xử, tránh việc "làm thay" cho người dân
như trước đây.
Các tranh chấp về mặt hành chính cũng nên chuyển giao cho tòa án hành
chính giải quyết trong trường hợp các cơ quan hành chính nhà nước không xử
lý được hoặc người dân không đồng ý kết quả xử lý
Thứ ba, đó là việc tổ chức lại hệ thống tòa án, tòa án nhân dân cấp
quận huyện
Không nên tổ chức theo địa giới hành chính như hiện nay mà nên tổ chức
lại theo cụm vừa giảm bớt lãng phí về tài chính, nhân sự, cơ sở vật chất, vừa tạo
thuận lợi trong tổ chức xét xử. Tòa án tỉnh vẫn giữ nguyên cơ cấu tập trung cho
xét xử phúc thẩm là chính, chỉ xét xử một số án sơ thẩm đặc biệt và quan trọng
mà Tòa án cấp dưới không giải quyết được.
Thời gian dự kiến sắp xếp xong chậm nhất là đến hết năm 2008. Quốc
hội cũng dự kiến sẽ tách Ủy ban pháp luật trực thuộc Quốc hội ra thành Ủy ban
pháp luật (chuyên đảm nhận việc xây dựng các văn bản pháp luật) và Ủy ban tư
pháp (chủ yếu thực hiện các họat động kiểm tra, giám sát).
Chủ trương của Bộ Chính trị lần này bên cạnh việc tổ chức sắp xếp lại hệ
thống tòa án thì đồng thời tăng thêm thẩm quyền cho tòa án cấp huyện quận

được xét xử các vụ án với mức án đến 15 năm tù; từng bước giảm tiến đến xóa
bỏ việc xét xử giám đốc thẩm.
Tòa án tối cao cần tập trung làm tốt nhiệm vụ chính của mình là hướng
dẫn xét xử, là khâu yếu nhất và ít được quan tâm nhất trong thời gian vừa qua,
để đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật được thống nhất, không còn án oan sai.


Thứ tư, tổ chức của Viện kiểm sát cũng phải được cải tổ lại
Không tiến hành công tác điều tra như trước nữa mà chuyển công việc
này về cơ quan điều tra của công an. Viện kiểm sát tập trung làm tốt nhiệm vụ
công tố tại tòa án, về lâu dài có thể sắp xếp lại và đổi tên thành Viện công tố.
Cơ quan thi hành án cũng cần được cải cách và tổ chức lại họat động bởi
vì bấy lâu nay hầu như chỉ có án phạt tù được tổ chức thi hành nhưng lại do cơ
quan công an chịu trách nhiệm, các án khác chủ yếu là án dân sự thì hầu như bị
"thả nổi", không được thi hành đến nơi đến chốn.
Thứ năm, là việc xây dựng lại các cơ quan giám định thành một hệ
thống cấp quốc gia (Viện giám định) có sự tham gia của các chuyên gia đầu
ngành để đảm bảo kết quả giám định được chính xác, khách quan góp phần
quan trọng vào việc giải quyết các vụ việc.
Thứ sáu, là việc chấn chỉnh lại họat động của các cơ quan công chứng
Nhà nước nhằm làm giảm thiểu đến mức thấp nhất sự "quá tải" trong công việc
như hiện nay; mạnh dạn thực hiện phân cấp một số công việc thuộc thẩm quyền
cơ quan công chứng về cho địa phương. Chế định thừa phát lại đang được xem
xét và sắp tới có thể cho tổ chức thí điểm mô hình này tại Thành phố Hồ Chí
Minh.
Đảng và Nhà nước ta cũng chủ trương trong giai đọan hiện nay cần nâng
cao vai trò của luật sư hơn nữa trong tiến trình tham gia tố tụng,đảm bảo vị trí
cân bằng của luật sư và bên công tố khi tham gia xét xử. Quản lý luật sư cần
mềm dẻo, linh họat và trong khuôn khổ pháp lý rộng rãi, luật sư có quyền tự do
hành nghề theo quy định pháp luật.

Thứ bảy, là việc giảm thiểu tối đa các án oan sai, xây dựng một cơ chế
bồi thường thiệt hại hợp lý và thỏa đáng cả về vật chất và tinh thần đối với
những cá nhân, tổ chức trong các trường hợp này. Muốn vậy cần nâng cao chất
lượng của họat động xét xử, có chính sách, chế độ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ
tư pháp đồng thời phải thiết lập một cơ chế tuyển chọn, bồi dưỡng và đào tạo
nghiêm túc lực lượng này.
Thứ tám, là việc yêu cầu các cơ quan thông tin đại chúng, báo chí, đoàn
thể, mặt trận tham gia tích cực vào họat động giám sát tư pháp; mạnh dạn
phát hiện, thông tin và điều tra các họat động vi phạm pháp luật, cố ý làm trái,


làm sai quy định pháp luật của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các cơ
quan nhà nước và các cán bộ lãnh đạo.
4. Nhiệm vụ giải pháp cải cách tư pháp:
a. Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ
tục tố tụng tư pháp
- Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù
hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi
trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu
quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm
hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ
đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hương chỉ
áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung
hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình
sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm
đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế.
- Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm
là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền

hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác.
- Xây dựng cơ chế phát huy sức mạnh của nhân dân, cơ quan, các tổ chức
quần chúng trong phát hiện, phòng ngừa tham nhũng; bảo vệ người trung thực
phát hiện, tố cáo, người điều tra truy tố, xét xử hành vi tham nhũng; khen
thưởng người có công trong đấu tranh phòng chống tham nhũng. Đề cao trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc ngăn ngừa, kiểm soát
các hành vi tham nhũng.
- Hoàn thiện pháp luật dân sự, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển
lành mạnh; hoàn thiện chế định hợp đồng, bồi thường, bồi hoàn…
- Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm quyền hạn
tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm
cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong thực thi


nhiêm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các
hành vi và quyết định tố tụng của mình. Xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế
việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối
tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp tạm giam.
- Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy
định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra
kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ. Xây dựng cơ chế xét xử
theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định.
- Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát
triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự
chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến tòa án, tòa
án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn. Khuyến khích việc giải quyết một số

tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết
định công nhận việc giải quyết đó.
- Mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính.
Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại tòa án; tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa
công dân và cơ quan công quyền trước tòa án.
- Từng bước thực hiện việc công khai hóa các bản án, trừ những bản án
hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến thuần phong mỹ
tục. Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của tòa
án phải nghiêm chỉnh chấp hành.
b) Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ
chức, bộ máy các cơ quan tư pháp.
- Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào
đơn vị hành chính, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một
số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét
xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; tòa thượng thẩm được tổ chức
theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm. Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm


vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát
triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập tòa chuyên trách
phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ
chức Tòa án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là
những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành.
- Nghiên cứu, xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của tòa án quân
sự theo hướng chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự…
- Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng

bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng
tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
- Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay
là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện Kiểm sát nhân
dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của tòa án. Nghiên cứu việc
chuyển viện kiểm sát thành viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố
trong hoạt động điều tra.
- Xác định rõ nhiệm vụ của cơ quan điều tra trong mối quan hệ với các cơ
quan khác được giao một số hoạt động điều tra theo hướng cơ quan điều tra
chuyên trách điều tra tất cả các vụ án hình sự, các cơ quan khác chỉ tiến hành
một số hoạt động điều tra sơ bộ và tiến hành một số biện pháp điều tra theo yêu
cầu của cơ quan điều tra chuyên trách. Trước mắt, tiếp tục thực hiện mô hình tổ
chức cơ quan điều tra theo pháp luật hiện hành; nghiên cứu và chuẩn bị mọi
điều kiện để tiến tới tổ chức lại các cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu
mối, kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng hình
sự.
- Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp
giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án. Xác định rõ trách
nhiệm của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và của cơ quan chuyên môn của
ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trong việc thi hành các hình phạt không phải là
hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản án của tòa án. Từng bước thực
hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức
không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án.


c) Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp
- Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị,
đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực
hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm
đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản

của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành
viên của mình.
- Hoàn thiện chế định giám định tư pháp. Nhà nước cần đầu tư cho một số
lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng.
Thực hiện xã hội hóa đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn,
không thường xuyên. Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn
trưng cầu và thực hiện giám định. Ban hành quy chuẩn giám định phù hợp với
từng lĩnh vực. Xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng
đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc.
- Xây dựng lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp chính quy, đáp ứng kịp thời
cho hoạt động xét xử, thi hành án…
- Hoàn thiện chế định công chứng. Xác định rõ phạm vi của công chứng và
chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lý
nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng
thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này.
- Nghiên cứu chế định thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt, có thể tổ
chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá
thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo.
d) Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững
mạnh
- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo
cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư
pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp
luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm
chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa.


- Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật.

- Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo cán bộ tư
pháp.
- Có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào
làm việc ở các cơ quan tư pháp. Mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh
tư pháp, không chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp, mà còn là các ... luật sư.
Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức
danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ
bổ nhiệm không có kỳ hạn.
- Có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của
cán bộ tư pháp.
- Tăng cường kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh tra, kiểm tra từ bên
ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư pháp
e) Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân đối với cơ quan tư pháp
- Đổi mới, nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn đối với hoạt
động của các cơ quan tư pháp tại các kỳ họp Quốc hội, hội đồng nhân dân.
Quốc hội và hội đồng nhân dân nên có nghị quyết riêng về hoạt động tư pháp
sau khi nghe báo cáo và trả lời chất vấn.
- Tăng cường và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp luật của
các cơ quan tư pháp, đặc biệt là của lãnh đạo các cơ quan tư pháp. Nghiên cứu
việc thành lập Ủy ban Tư pháp của Quốc hội để giúp Quốc hội thực hiện nhiệm
vụ giám sát hoạt động tư pháp, trọng tâm là việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; không ngừng nâng
cao trình độ dân trí pháp lý, ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật
cho mọi người dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tập trung làm
tốt cộng tác động viên nhân dân phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong
hoạt động tư pháp, qua đó kiến nghị với các cơ quan tư pháp khắc phục, sửa
chữa.



- Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc
tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp
f) Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp
- Tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia.
- Tiếp tục ký kết hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết
là với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ
truyền thống.
- Tăng cường sự phối hợp chung trong hoạt động phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm có yếu tố quốc tế và khủng bố quốc tế với các tổ chức
INTERPOL, ASEANPOL,… với cảnh sát các nước láng giềng và khu vực, với
cảnh sát một số quốc gia có nhiều công dân Việt Nam sinh sống, lao động, học
tập.
- Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ
chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
và khu vực.
g) Bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp
- Nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù hợp với
đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước.
- Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan và hoạt
động tư pháp theo hướng ngân sách tư pháp do Quốc hội phân bổ và giao các cơ
quan tư pháp địa phương quản lý và sử dụng, có sự giám sát, kiểm tra của các
cơ quan tư pháp trung ương; có cơ chế cho phép địa phương hỗ trợ kinh phí
hoạt động cho cơ quan tư pháp từ khoản vượt thu ngân sách của địa phương.
- Từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang
trang, hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác
điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám định
tư pháp. Khẩn trương trong một vài năm xây xong trụ sở làm việc các cơ quan
tư pháp cấp huyện; nâng cấp các nhà tạm giam theo đề án đã được Chính phủ

phê duyệt.
- Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan
tư pháp


h) Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp
- Đảng lãnh đạo chặt chẽ hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp về
chính trị, tổ chức và cán bộ; khắc phục tình trạng cấp ủy đang buông lỏng lãnh
đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp.
- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt
động của các tổ chức đảng, đảng viên; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo,
tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan tư pháp.
- Phân công đồng chí cấp ủy viên có trình độ, năng lực, uy tín và bản lĩnh
bổ nhiệm làm viện trưởng viện kiểm sát và chánh án tòa án các cấp.
- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy đảng trong việc chỉ
đạo giải quyết những vụ việc quan trọng, phức tạp; cơ chế phối hợp làm việc
giữa các tổ chức đảng với các cơ quan tư pháp và các ban, ngành có liên quan
theo hướng cấp ủy định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến định hướng về công tác
tư pháp. Xác định rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân cấp ủy viên trong lãnh đạo,
chỉ đạo công tác tư pháp.
- Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Nội chính Trung
ương; kiện toàn Ban Nội chính cấp ủy ở những tỉnh, thành có nhu cầu và được
Bộ Chính trị cho phép thành lập; tăng cường cán bộ tham mưu về công tác nội
chính – tiếp dân của cấp ủy đảng.
Kết luận:
NHỮNG VẤN ĐỀ ÔN
1. Tính tất yếu khách quan của cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2. Quan điểm, định hướng cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

3. Những nội dung cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
4. Nhiệm vụ giải pháp cải cách tư pháp ơ nước ta hiện nay.



×