Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

KẾ THỪA và PHÁT HUY CHỦ NGHĨA yêu nước của dân tộc VIỆT NAM TRONG xây DỰNG và bảo vệ tổ QUỐC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.87 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt
Nam. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân ta đã viết lên những bảo thiên anh hùng
ca vĩ đại bằng sự nghiệp dựng nước và giữ nước oanh liệt. Trên thế giới, hiếm thấy có
một dân tộc nào phải trải qua quá trình liên tục đấu tranh chống ngoại xâm, lâu dài, gian
khổ và hy sinh to lớn như dân tộc Việt Nam. Nhân dân thường phải chống lại những thế
lực ngoại bang có tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự mạnh hơn hẳn với những mưu mô
và thủ đoạn xảo trá, quyết thôn tính Việt Nam biến nước ta thành thuộc địa của chúng.
Nhưng cuối cùng nhân dân Việt Nam đã chiến thắng, giành được độc lập và bảo vệ
được sự trường tồn của Tổ quốc. Chính từ trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm
kiên cường, bất khuất, dân tộc ta đã xây dựng nên truyền thống đánh giặc giữ nước và
nó trở thành truyền thống vô cùng quý báu, độc nhất vô nhị của dân tộc Việt Nam mà
trên thế giới không một dân tộc, quốc gia nào có được.
Vấn đề đặt ra là: sức mạnh nào khiến nhân dân Việt Nam chiến thắng
những kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm?
Nhiều học giả, nhà chính trị, quân sự, ngoại giao…trong và ngoài nước với những
công trình nghiên cứu của mình đã có những hướng tiếp cận khác nhau. Nhưng
theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh
ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc” 1. Tinh thần đó chính là chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam. Chính chủ nghĩa yêu nước đã tạo ra thế tất thắng và
không thể chiến bại của toàn thể dân tộc Việt Nam trước mọi kẻ thù xâm lăng.
Hiện nay, chúng ta đang sống trong bối cảnh có nhiều biến động, phức tạp
trên mọi bình diện của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Công cuộc đổi mới ở
nước ta gần 30 năm qua đã thu được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị
thế và uy tín của nước ta không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Tuy
nhiên, sự nghiệp cách mạng nước ta cũng chịu sự tác động đan xen của những
thách thức không nhỏ. Để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, vấn đề
mang tính khách quan đặt ra phải kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam trong điều kiện mới, ra sức đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH và hội nhập
kinh tế quốc tế, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững Tổ quốc XHCN.
1



Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 77.


2
NỘI DUNG
1. Tính tất yếu khách quan phải kế thừa, phát huy chủ nghĩa yêu nước
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện nay chính là nguồn sức mạnh nội sinh
của dân tộc Việt Nam, trở thành một trong những động lực mãnh mẽ giúp công
cuộc đổi mới ở nước ta giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ
vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, vấn đề đặt ra cần nhận thức đẩy đủ tính tất yếu, khách quan phải kế thừa và
phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trước những tác động của những điều kiện mới. Tính tất yếu kế thừa và
phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt nam được quy định bởi những biến đổi và những
yêu cầu đặt ra của chính những nhân tố đã góp phần hình thành chủ nghĩa yêu
nước. Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn cho thấy, tính tất yếu khách quan của
việc kế thừa, phát huy chủ nghĩa yêu nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN hiện nay được quy định bởi các yếu tố sau:
Một là, xuất phát từ vị trí địa kinh tế, chính trị, quân sự vô cùng quan trọng
của nước ta, đặt ra yêu cầu khách quan phải kế thừa, phát huy chủ nghĩa yêu nước
trong điều kiện mới.
Việt Nam là quốc gia có vị trí địa kinh tế, chính trị, quân sự vô cùng
quan trọng, điều đó được quy định bởi:
Về tự nhiên: Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, phía Bắc giáp
Trung Quốc, phía Tây và Tây Nam giáp các nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào và Vương quốc Campuchia, phía Đông và phía Nam giáp Biển Đông (Thái
Bình Dương) với 3260 km đường bờ biển và khoảng trên 3000 hòn đảo lớn nhỏ.
Việt Nam có diện tích khoảng 331.590 km 2 đất liền và khoảng 700.000 km 2

thềm lục địa, phần biển rộng gấp nhiều lần so với phần đất liền.Việt Nam là cửa
ngõ của Đông Nam Á, cầu nối liền phần lục địa của Đông Nam Á với các quần
đảo bao bọc quanh biển Đông; là đầu mối giao thông quan trọng của những con
đường biển quốc tế đi từ Ấn Độ Dương lên phía bắc Thái Bình Dương, từ bán
đảo Đông Dương đến các quần đảo ở Châu Đại Dương và khống chế một ngã tư
đường biển trọng yếu. Một đầu của đất nước nằm ở phía bắc của bán đảo Đông
Dương, Việt Nam nằm ở vị trí án ngữ con đường từ Trung Quốc xuống các


3
nước Đông Nam Á. Chiều dài của đất nước kéo dài ở phía đông của bán đảo,
Việt Nam như một chiếc áo giáp che trở cho Lào và Campuchia ở hướng biển
Đông. Từ Hà Nội đến Rănggun (theo đường chim bay) là 1120km, Hà Nội Manila là 1170km. Trong khí đó Hà Nội - TP Hồ Chí Minh là 1726km, TP Hồ
Chí Minh - Singgapo là 1100km, TP Hồ Chí Minh - Giacácta là 1890km,… Một
cách tự nhiên, Việt Nam trở thành trung tâm của toàn bộ khu vực Đông Nam Á.
Do có vị thế tự nhiên đặc biệt như vậy nên Việt Nam sớm trở thành cửa ngõ, yết
hầu giao thông quan trọng, là chiếc cầu nối giữa Châu Á và Thái Bình Dương,
giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, nơi giao điểm của các luồng
đường, luồng hàng từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc, nơi tiếp xúc và giao thoa
của nhiều nền văn hóa, văn minh lớn trên thế giới.
Về vị trí chính trị: Trong lịch sử, Việt Nam đã từng là nơi chặn đứng vó
ngựa của quân xâm lược Mông - Nguyên, từng là “tiền đồn” của phe xã hội chủ
nghĩa ở Đông Nam châu Á - nơi đối đầu giữa lực lượng cách mạng với những
lực lượng phản động đế quốc hung hãn nhất. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam
trong thế kỷ XX có ảnh hưởng to lớn tới cách mạng Lào và Campuchia. Hiện
nay Việt Nam đang là một trong số ít nước xã hội chủ nghĩa tồn tại trên thế giới
và là nước duy nhất trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam trở thành một trọng
tâm chống phá của các thế lực chính trị phản động trên thế giới.
Về vị trí quân sự: Có thể nói Việt Nam là một nước có vị trí địa quân sự
trọng yếu trong khu vực Đông Nam Á. Vịnh Cam Ranh của Việt Nam được các

chuyên gia quân sự thế giới đánh giá là một trong 5 cảng quân sự quan trọng
nhất trên thế giới (một trong ba cảng biển tự nhiên tốt nhất thế giới)… Do đó, từ
xưa tới nay bất kỳ một tên xâm lược nào, dù ở phương Bắc hay các nước
phương Tây, có tham vọng bành trướng ra vùng Đông Nam Á đều coi chiến
trường Việt Nam là là một địa bàn cần chiếm lấy để cướp đoạt những tài nguyên
giàu có, dùng Việt Nam làm bàn đạp để đánh ra các nước Đông Dương, nếu kẻ
địch đã thôn tính được nước ta thì sẽ đồng thời uy hiếp chủ quyền của tất cả các
nước còn lại trong khu vực.
Về tài nguyên thiên nhiên: Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú bao
gồm: tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên biển, tài nguyên rừng, tài
nguyên sinh vật, tài nguyên khoáng sản và tài nguyên du lịch. Trong đó có
những nguồn tài nguyên đặc biệt quan trọng, không những đối với nước ta mà


4
còn đối với nhiều nước trong khu vực như dầu mỏ và khí đốt ở biển Đông. Vì
vậy kẻ thù luôn coi đây là những “mảnh đất màu mỡ”, nếu chúng chiếm được sẽ
tạo động lực quan trọng phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay, khi quá trình toàn cầu hóa càng phát triển nhanh chóng bao
nhiêu thì giá trị địa kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa…của Việt Nam càng lớn
bấy nhiêu. Điều đó không những được chúng ta nhận thức sâu sắc hơn mà các
nước trong khu vực và trên thế giới cũng nhận rõ điều đó. Vì thế, bất kỳ một thế
lực nào trong hiện tại và tương lai muốn tạo sự ảnh hưởng (dù về mặt quân sự,
chính trị, kinh tế hay bất kỳ một lĩnh vực nào) đối với toàn bộ khu vực Đông
Nam Á, từ đó mở rộng ra khu vực châu Á Thái Bình Dương, tất yếu phải tính
đến trung tâm của nó là Việt Nam.
Hai là, Từ những thách thức đang đe dọa cách mạng Việt Nam, nhất là
âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đặt ra yêu cầu khách
quan phải kế thừa, phát huy chủ nghĩa yêu nước trong điều kiện mới.
Những nguy cơ được Đảng ta đưa ra từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ (Khóa

VII) (1/1994) đến nay đã trở thành những thách thức đối với Đảng cầm quyền,
trực tiếp đe dọa đến sự tồn vong của chế độ XHCN mà chúng ta đang ra sức xây
dựng. Trong số những thách thức ấy, thách thức từ “diễn biến hòa bình” của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động chống phá cách mạng nước ta là
một trong những thách thức tác động trực tiếp đến công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình mới.
Nghiên cứu dự báo tình hình có liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc của chúng ta từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo có thể khẳng
định chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch là thách thức lớn,
nổi lên hàng đầu, rất nguy hiểm và trực tiếp liên quan đến sự sống còn của độc
lập dân tộc và CNXH ở nước ta; đồng thời, cũng không thể loại trừ khả năng kẻ
thù tiến hành chiến tranh xâm lược kiểu mới có sử dụng vũ khí công nghệ cao
đối với nước ta.
Để đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế
lực thù địch, chủ động ngăn chặn nguy cơ chiến tranh xâm lược và sẵn sàng
đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù, chúng ta cần tích cực bồi dưỡng
nâng cao chất lượng tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, của chiến tranh
nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới, trong đó cần chú trọng nâng cao chất


5
lượng chính trị - tinh thần của dân tộc, mà cốt lõi là chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Trong suốt hành trình lịch sử của mình, dân tộc Việt Nam liên tục trải qua
những cuộc chiến tranh điển hình về tính chất ác liệt và sự gian khổ hy sinh, luôn
phải đương đầu với những thế lực xâm lược điển hình về tính chất tàn bạo và sự
hiếu chiến, có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần, nhưng dân
tộc ta không chịu khuất phục, không bị đồng hoá như một số dân tộc khác trong
lịch sử nhân loại. Vì sao như vậy? Đó là vì dân tộc ta đã tự xây dựng được bản
lĩnh chính trị, bản sắc văn hoá và sức mạnh chính trị - tinh thần to lớn, mà cốt lõi

là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó là yếu tố quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa
quyết định trong sức mạnh của dân tộc Việt Nam để trường tồn và phát triển.
Trong suốt 85 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh thắng
hai thế lực xâm lược lớn là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Dân tộc ta
tiếp tục vượt lên qua cơn lốc sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu,
thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới
theo định hướng XHCN, đồng thời bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Chính trong điều kiện lịch sử đó, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được bồi đắp và
phát triển lên tầm cao mới, từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Hiện nay và trong những thập kỷ tới, do ở vị trí chiến lược quan trọng và
luôn kiên định lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, Việt Nam là một
trong những trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Chúng đang ráo riết
đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, tăng cường chống
phá về chính trị tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội v.v…Để thúc đẩy tự diễn biến
trong nội bộ ta, ra sức lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, “dân chủ”, “nhân
quyền” để cô lập Việt Nam trong quan hệ quốc tế; nhằm kích động chống đối ở
trong nước và tạo cớ can thiệp từ bên ngoài, không loại trừ khả năng kẻ thù tiến
hành chiến tranh xâm lược kiểu mới đối với nước ta. Chúng ta không thể xem
nhẹ sự nguy hiểm của “cuộc xâm lăng mới về văn hoá”, khi các thế lực thù địch
ra sức truyền bá, áp đặt những “giá trị văn hoá” của TBCN phương Tây, mà cốt
lõi là chủ nghĩa cá nhân thực dụng cực đoan, âm mưu dùng văn hoá để “phi


6
chính trị hoá” lực lượng vũ trang nhân dân và cả dân tộc ta, nhất là đối với
thanh thiếu niên, làm phai nhạt những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam. Chúng ta cũng cần tỉnh táo trước những tác động tiêu cực của cơ chế thị

trường, làm cho không ít người đánh mất lòng tự hào dân tộc, bị cuốn hút vào
vòng xoáy của chủ nghĩa cá nhân thực dụng, đáng chú ý là sự chuyển hoá từ cơ
hội thực dụng về kinh tế sang cơ hội thực dụng về chính trị.
Dưới góc độ khoa học chính trị - quân sự, chúng ta có thể dự báo cuộc
chiến tranh xâm lược kiểu mới của các thế lực thù địch tiến hành đối với nước ta
sẽ gay go, quyết liệt hơn gấp nhiều lần các cuộc chiến tranh vừa qua ở: vùng
Vịnh, Nam Tư, Ápganixtan, Irắc, không phải chỉ do phương thức tiến hành
chiến tranh xâm lược kiểu mới, với vũ khí trang bị công nghệ cao mà còn là
cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng, về đường lối, quan điểm và thể chế chính trị-xã
hội. Nếu phải đối phó với cuộc chiến tranh ấy, chắc chắn chúng ta vẫn thua kém
về tiềm lực kinh tế, quân sự, vũ khí và phương tiện chiến tranh. Chúng ta chỉ có
thể giành thắng lợi bằng sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam, với
đường lối chính trị - quân sự đúng đắn và nghệ thuật quân sự Việt Nam, với sự
vượt trội kẻ thù về sức mạnh chính trị - tinh thần, mà cốt lõi là chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Ba là, xuất phát từ những yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trước những tác động phức tạp của tình hình khu vực, thế giới đang đặt ra
hiện nay
Xây dựng đất nước tiến theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa là
sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Tuy
nhiên, đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề với rất nhiều khó khăn, thách thức
đặt ra cho cách mạng Việt Nam. Nước ta quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
trong bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã sụp đổ, tạo
ra những ảnh hướng xấu tới cách mạng nước ta. Chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực bành trướng ngày càng trở nên nguy hiểm và trắng trợn hơn trong việc can
thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, thậm chí xâm lược các quốc gia có
chủ quyền bất chấp công luận thế giới. Hiện nay thế giới đang thay đổi rất
nhanh, phức tạp và khó lường. Trong thập niên tới hòa bình, hợp tác và phát
triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc và tôn giáo, tranh giành tài
nguyên và lãnh thổ, nạn khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia có thể gia tăng



7
cùng với các vấn đề toàn cầu như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thảm
họa thiên nhiên,…buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó. Trong đó Việt
Nam không phải là một ngoại lệ, thậm chí nhiều vấn đề còn diễn ra rất nóng
bỏng.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động nhưng
cũng luôn tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định, nhất là tranh giành ảnh
hưởng, tranh chấp chủ quyền biển đảo, lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên…
Sau khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, tương quan sức mạnh của
các nền kinh tế và cục diện phát triển toàn cầu thay đổi với sự xuất hiện của
những liên kết mới. Nhưng sau khủng hoảng chủ nghĩa bảo hộ cũng trỗi dậy trở
thành rào cản lớn cho thương mại quốc tế. Qúa trình tái cấu trúc nền kinh tế thế
giới thời hậu khủng hoảng và sự điều chỉnh chính sách của các nước, nhất là các
nước lớn sẽ có tác động nhiều đến nước ta.
Như vậy, tất cả những yếu tố nêu trên, từ vị trí địa chính trị, địa quân sự,
địa kinh tế, địa văn hóa, tài nguyên thiên nhiên đến yêu cầu thực hiện nhiệm vụ
xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới, tất cả tạo cho chúng ta
những thuận lợi và cơ hội to lớn cùng những khó khăn và thách thức gay gắt. Yêu
cầu tất yếu đặt ra trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc là kế thừa và phát huy những truyền thống quý báu của
dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước mà cốt lõi là chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là cơ sở, nền tảng và là động lực tạo ra
và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, tranh thủ thời cơ, vượt qua mọi
khó khăn thử thách để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Vì thế, kế thừa và phát
huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trở thành vấn đề tất yếu, khách quan trong thực
hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay.
2. Những nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam

Yêu nước là một tình cảm thiêng liêng của mỗi người đối với Tổ quốc,
với đất nước mình. Khi nói về điều này, V.I.Lênin đã khẳng định: Yêu nước là
“một trong những tình cảm sâu sắc nhất, đã được củng cố qua hàng trăm năm,
hàng nghìn năm tồn tại của những tổ quốc biệt lập” 1. Một khi lòng yêu nước
phát triển thành một tình cảm thiêng liêng, thành một triết lý sống, thành nhu
1

V.I.Lênin. Toàn tập, t.37. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.226.


8
cầu nội tâm, thành khát vọng khiến cho con người lao động hết mình, cống hiến
hết khả năng về sức lực, trí tuệ, thậm chí không tiếc máu xương sẵn sàng hy sinh
cho quê hương đất nước thì được gọi là chủ nghĩa yêu nước.
Chủ nghĩa yêu nước được phát triển trên nền tảng của lòng yêu nước.
Bắt nguồn từ lòng yêu thương gia đình, họ hàng, làng xóm, yêu quê hương đất
nước và lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước trở thành tình cảm đạo đức vừa sâu
sắc, vừa thiêng liêng đối với mỗi người dân. Lòng yêu nước của mỗi người dân
được biểu hiện ở xu hướng muốn đem toàn bộ trí tuệ, sức lực và cả tính mạng
của mình để phục vụ lợi ích của Tổ quốc.
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam luôn phải
liên tục chống thiên tai và đấu tranh với những kẻ địch mạnh hơn mình gấp nhiều
lần, do vậy đã hình thành một chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước của con
người Việt Nam đã được thử thách qua quá trình lịch sử. Chủ nghĩa yêu nước là
một trong nhiều yếu tố hợp thành bản sắc dân tộc, tạo thành sức mạnh Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước là yếu tố cơ bản, là chuẩn mực cao quý thiêng liêng của đạo lý
dân tộc, là giá trị có ý nghĩa nền tảng vững chắc tạo nên sức mạnh truyền thống
đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam. Là “chủ nghĩa yêu nước”, “chủ nghĩa
dân tộc” hay “tinh thần yêu nước”, tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo GS
Trần Văn Giàu và nhiều nhà nghiên cứu khác, đa số họ cho rằng nên chọn “chủ

nghĩa yêu nước”. Ông viết: “chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam hẳn không
phải là một triết lý thâm viễn, cũng không phải là một tín ngưỡng huyền diệu; nó là
một hệ thống tư tưởng nhận thức và ứng xử đơn giản, nhưng vừa đủ để cho dân tộc
Việt Nam tồn tại và tồn tại trong danh dự”1.
“Chủ nghĩa yêu nước là ý thức sâu sắc về lãnh thổ, về quốc gia, dân tộc;
lòng tự hào, tự tôn về văn hiến; ý thức tự lực tự cường và tinh thần bất khuất bền
bỉ, sáng tạo trong lao động, tranh đấu để dựng nước, giữ nước” 2. Chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam không do một ai, một vĩ nhân nào sáng tạo ra; mà là sản phẩm của
tinh thần yêu nước, hành vi ứng xử, hành động xả thân vì dân, vì nước của toàn
thể dân tộc Việt Nam được hun đúc, kết tinh trong suốt chiều dài lịch sử tạo
thành. Khi nói về tinh thần yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có
1
2

Trần Văn Giàu, Thông tin chuyên đề, PKHCNMT – TCCT xuất bản, số 62, 01/1999, tr.34.
PGS, PTS Phùng Hữu Phú, Thông tin chuyên đề, PKHCNMT – TCCT xuất bản, số 62, 01/1999, tr.2.


9
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”1.
Trong tác phẩm: “Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam”, GS Trần Văn Giàu
cũng nhấn mạnh: Chủ nghĩa yêu nước là đặc trưng cơ bản nhất của lịch sử dân tộc
Việt Nam, “truyền thống lớn của ông cha ta là yêu nước, là chủ nghĩa yêu nước” 2.
Gần đây nhiều nhà nghiên cứu khác như PGS Phùng Hữu Phú cũng nhấn mạnh “chủ
nghĩa yêu nước là một đặc trưng cơ bản của bản sắc dân tộc Việt Nam”.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trước hết biểu hiện ở ý thức độc lập dân
tộc, chủ quyền quốc gia dân tộc. Đó là nét đặc trưng cơ bản trong bản sắc dân

tộc Việt Nam, một nét độc đáo mang giá trị nhân văn cao cả. Truyền thống yêu
nước gắn liền với ý thức độc lập dân tộc đã hình thành và phát triển từ rất sớm.
Nó gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước, gắn liền với quá trình hình
thành và phát triển quốc gia dân tộc Việt Nam. Đồng chí Lê Duẩn đã viết: “Chủ
nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là cái vốn quý nhất và là đặc điểm của dân
tộc Việt Nam ta trải qua mấy nghìn năm lịch sử. Chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần dân tộc ấy đã hình thành trong nhân dân ta ngay từ khi dựng nước và phát
triển trong quá trình đấu tranh lâu dài chống ngoại xâm”3.
Yêu nước còn thể hiện ở lòng căm thù giặc sâu sắc, đức tính xả thân hy
sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc và cuộc sống mọi người; lòng yêu nước đó không chỉ
biểu hiện bằng những tình cảm thiêng liêng mà còn được đúc kết thành lý luận
làm cơ sở vững chắc cho lòng tin của muôn người, muôn thế hệ, làm cơ sở thế
giới quan, phương pháp luận cho việc xây dựng sách lược đánh giặc, xây dựng và
phát triển đất nước.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một nét độc đáo của văn hóa Việt Nam,
có giá trị đích thực trong việc bồi dưỡng tâm hồn và nhân cách người Việt nam
yêu nước; nó đã ngầm sâu vào máu thịt của mỗi người dân - chiến sĩ, là nội lực để
tạo nên sức mạnh cộng đồng suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Chủ
1
2
3

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 171.
Trần Văn Giàu, Sự phát triển tư tưởng Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1973, tập 1, tr.10.
Lê Duẩn, Giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.316.


10
nghĩa yêu nước đó đã, đang và ngày càng phát triển phong phú, tô đậm trang sử
vàng chói lọi của dân tộc. Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng dân tộc nào cũng

có chủ nghĩa yêu nước của mình, nhưng có lẽ ít có dân tộc nào lại có chủ nghĩa
yêu nước đặc sắc như dân tộc ta.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam vừa nói lên trạng thái tình cảm của mỗi con
người Việt Nam đối với quê hương, đất nước, đồng thời cũng nói lên ý thức và tự ý
thức của mỗi người về nguồn gốc, giống nòi, tổ tông về cộng đồng quốc gia dân
tộc, về vận mệnh “sống - còn” của dân tộc trước những thử thách ngặt nghèo của
lịch sử. Những biểu hiện đó được đúc kết, khái quát thành hệ thống các quan điểm,
lý luận qua lịch sử của nhiều thời đại khác nhau, là học thuyết về con đường, biện
pháp đấu tranh để giải phóng dân tộc, củng cố và phát triển cộng đồng dân tộc. Vì
vậy, nói chủ nghĩa yêu nước là nói đến tình cảm thiêng liêng, các quan điểm của
cha ông ta về nguồn gốc giống nòi, về ý thức độc lập, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc,
về hành vi ứng xử, thái độ tích cực, của hàng chục triệu người dân bình thường hợp
thành sức mạnh to lớn trong truyền thống Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mang nội dung rất đa dạng, phong phú.
Một mặt nó phản ánh đời sống tinh thần, tâm hồn và phong cách người Việt
Nam bằng những trạng thái tình cảm, tâm trạng, tâm lý, phong tục tập quán, nếp
sống văn hóa hoặc những chuẩn mực đạo đức, những hiện tượng và hành vi đạo
đức, biểu hiện sinh động sự gắn bó mật thiết, không thể chia cắt được giữa
người Việt Nam với quê hương đất nước - nơi chôn rau cắt rốn của mình. Mặt
khác, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thắm đượm tinh thần nhân đạo, tình người,
sáng ngời chân lý và lẽ sống. Đã là người Việt Nam, cùng một giống nòi thì phải
có nghĩa vụ đùm bọc, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau, có vậy mới có thể có sức
mạnh dời non, lấp biển, mở mang đất nước, làm cho đất nước phồn vinh, văn
hóa phát triển, nhân dân ấm no hạnh phúc. Đó là sức mạnh để chiến thắng bất cứ
kẻ thù nào; nó hợp đạo trời, hợp lòng người. Quốc gia, dân tộc sẽ lam vòng
khủng hoảng, suy yếu và bị ngoại bang nô dịch, thống trị nếu đi ngược lại quỹ
đạo đó. Lịch sử thịnh suy của bao triều đại phong kiến Việt Nam đã chứng minh
điều đó.



11
Chủ nghĩa yêu nước được hình thành, phát triển cùng lịch sử dân tộc, là
hằng tố xuyên suốt chiều dài lịch sử và kết thành nguyên khí quốc gia, mạch
sống trường tồn của dân tộc Việt Nam; là một tình cảm rất thiêng liêng, nó ăn
sâu bám rễ trong lòng dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử; là giá trị
thiêng liêng chung của toàn dân Việt Nam, của tất cả các dân tộc anh em, hiện
đang sống trên lãnh thổ Việt Nam, cũng như của những người Việt Nam đang
sống ở nước ngoài. Đó là điều kiện quyết định để hình thành những phẩm chất
tốt đẹp của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam như: tinh thần đoàn kết dân tộc, sự
chịu đựng gian khổ, hy sinh, đức tính kiên cường, dũng cảm, tự cường, tự hào,
tự tôn dân tộc, thông minh sáng tạo; lòng thương người sâu sắc và chủ nghĩa
nhân đạo cao cả đã được hun đúc, kết tinh tạo thành tâm hồn, cốt cách của con
người Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là cội nguồn của sức mạnh
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Môi trường kinh tế, xã hội, chính
trị, văn hoá thay đổi theo lịch sử, cho nên chủ nghĩa yêu nước ở mỗi thời đại
khác nhau cũng có nội dung khác nhau, nó được quy định bởi những điều kiện
lịch sử - kinh tế - xã hội.
3. Một số yêu cầu cơ bản nhằm kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu
nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay
Để kế tục xứng đáng chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam trong mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước của cha ông, bồi dưỡng và phát huy chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới, chúng ta cần tiến hành
đồng bộ những chủ trương, giải pháp trên các lĩnh vực: chính trị - tư tưởng, kinh tế,
văn hoá, xã hội v.v. Trong tiểu luận này, tác giả xin đề xuất một số yêu cầu cơ bản,
cấp thiết sau:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được kết tinh từ trong lịch sử đấu tranh anh
dũng của dân tộc với bao giá trị đặc sắc là cội nguồn và là một trong nhưng nội
dung cốt lõi của sức mạnh truyền thống dân tộc Việt Nam; là đầu mối kết nối mỗi
người Việt Nam yêu nước, khơi dậy mạch nguồn của trí tuệ Việt Nam, tư tưởng,

tình cảm, ý chí và hành động Việt Nam; là chìa khóa để giải mã sức sống trường
tồn của dân tộc ta.
Khẳng định tính lịch sử của các giá trị yêu nước giúp chúng ta cách nhìn
khách quan và quan điểm biện chứng khi tiếp thu và kế thừa những giá trị trong


12
chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam. Chúng ta chỉ lựa chọn, tiếp thu
những giá trị tốt đẹp và tiếp tục bổ sung làm cho nó phong phú hơn, đáp ứng với
nhiệm vụ cách mạng mới của đất nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam tiềm ẩn
những giá trị rất lớn, song trong chiều dài lịch sử, sức mạnh đích thực của nó
chưa được phát huy đầy đủ. Bởi vì các triều đại phong kiến đều có chung một
hạn chế cốt tử là tồn tại dựa trên nền tảng tư hữu, duy trì áp bức bóc lột và bất
công – cội nguồn của những mâu thuẫn đối kháng. Mà đó lại là vật cản lớn nhất
đến việc phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước. Dò đó, như một quy luật,
sau khi đã yên vị trên ngôi báu, các thế lực cầm quyền sớm hay muộn đều trở
nên xa lạ với nhân dân. Do vậy, nó đã làm cho sức mạnh đoàn kết của dân tộc bị
suy giảm, các giá trị và sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước tiềm ẩn trong nhân
dân không được phát huy đầy đủ.
Từ khí có Đảng, Bác Hồ lãnh đạo, nhân dân ta đã nhất tề vùng lên đấu
tranh, đi theo con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội, giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Thời đại
mới mở ra một cuộc hội tụ những tinh hoa, giá trị truyền thống dân tộc với tinh
hoa văn hóa nhân loại. Qua đó, nâng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lên một tầm
cao mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời đại mới.
Để tiếp tục giữ gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam trong giai đoạn mới, một yêu cầu có tính nguyên tắc là luôn giữ vững
định hướng chính trị của Đảng ta, nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trong xây dựng và củng cố vững chắc tiềm lực chính trị
tinh thần cách mạng của toàn xã hội. Phát huy vai trò to lớn của ý thức chính trị

tiên tiến, cách mạng của Đảng trong công tác tuyên truyền, giáo dục cho toàn
dân, toàn quân, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Từng bước
quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý
tưởng, phương hướng, nội dung và phương pháp cách mạng của Đảng nhằm tạo
sự đồng thuận về tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn xã hội. Luôn
kiên định con đường các mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Đó là điều kiện bảo đảm vững chắc cho dân tộc ta được sống trong độc lập, tự
do, ấm no và hạnh phúc; cũng là điều kiện để giữ gìn và phát huy chủ nghĩa yêu
nước.


13
Xây dựng Đảng thực sự trong sạch vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là
văn minh”, là người đại biểu trung thành cho lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân. Đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt định hướng
chính trị cho quá trình kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam trong điều kiện mới. Hai thành tựu lớn nhất của nhân loại là
độc lập cho mỗi dân tộc và tự do cho nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Bác Hồ, nhân dân ta đều đã đạt được thông qua việc phát huy chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam. Một khi chủ nghĩa yêu nước được phát huy trong nhân dân thì
sức mạnh tinh thần và vật chất của cả dân tộc sẽ được nhân lên gấp bội, tạo sức
mạnh vô địch để bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc và chế độ xã hội
chủ nghĩa của nhân dân.
Sự định hướng chính trị của Đảng thông qua ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội nhằm phát triển nhân tố chính trị tinh thần của nhân dân là cơ
sở vững chắc đem lại sự thống nhất và sức mạnh toàn dân đoàn kết, nâng chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam lên một tầm cao mới – chủ nghĩa yêu nước thời đại
Hồ Chí Minh. Qua đó, chủ nghĩa yêu nước trở thành “thế trận lòng dân” vững
chắc của nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, tạo
thế và lực mới cho đất nước đi vào thế kỷ XXI.

Hai là, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam hiện
nay là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là tiếp
tục truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước trong thời đại mới .
Dựng nước đi đôi với giữ nước trở đã thành một quy luật tồn tại và phát triển
của dân tộc Việt Nam. Quy luật đó được đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn lịch sử
mấy nghìn năm đấu tranh, đánh giặc giữ nước của dân tộc ta. Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển
sáng tạo quy luật này, nhờ đó mà cách mạng Việt Nam tiến lên và giành được nhiều
thắng lợi to lớn. Ngày nay, Đảng ta đã xác định: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Hai nhiệm vụ đó
có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, có xu hướng thâm nhập vào nhau, hỗ trợ
tích cực cho nhau một cách thường xuyên. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ đó sẽ tạo


14
nên sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa phát triển
nhanh chóng và ngày càng bền vững.
Kế thừa, vận dụng và phát triển truyền thống đánh giặc giữ nước của dân
tộc ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
hiện nay cần quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc là “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ
vững hòa bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; chủ
động đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực
thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”1.
Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn
nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng. Đó là một trong những
phương hướng cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Quan điểm kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chính là thể hiện sự nhận thức quy luật dựng
nước đi đôi với giữ nước của dân tộc trong thời kỳ lịch sử mới; quy luật xây
dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo lý
luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, quy luật đó được thể hiện ở hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ
nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đối với nước ta các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược "Diễn
biến hòa bình", bạo loạn lật đổ hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Hoạt động "Diễn
biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với Việt Nam là sự tiếp tục âm mưu
chiến lược cơ bản của chúng hòng tiêu diệt chủ nghĩa xã hội. Chúng sử dụng tổng
hợp các biện pháp và thủ đoạn tinh vi, thâm độc để chống phá Nhà nước Việt
Nam trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, răn đe
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.44-45.


15
quân sự... Các thế lực thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" đối với Việt Nam
trong bối cảnh nước ta đổi mới về kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đến nay, nền kinh tế của nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm
và có sự phát triển tương đối toàn diện. Tuy nhiên, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh
tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tiềm ẩn, những biểu hiện
xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch
đã và đang triệt để khoét sâu những khó khăn yếu kém của chúng ta để thực hiện
cho âm mưu chiến lược của chúng. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có thể
mất bằng nhiều cách, không nhất thiết bị đánh chiếm bằng quân sự. Vì vậy, bảo
vệ Tổ quốc không chỉ chống giặc ngoại xâm mà còn chống cả "thù trong" và

những nguy cơ nội sinh; không chỉ chống các loại hình chiến tranh xâm lược vũ
trang mà còn chống cả các loại hình chiến tranh xâm lược phi vũ trang; không chỉ
nhằm chuẩn bị và tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa mà còn duy trì, phát triển cục diện hòa bình và ổn định chính trị - xã hội của
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng
trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới, lợi ích quốc
gia, dân tộc. Bảo vệ an ninh quốc gia không chỉ an ninh chính trị mà còn là an
ninh kinh tế, an ninh văn hóa, an ninh tư tưởng, an ninh xã hội.
Trong thời kỳ mới, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc không
chỉ đối phó hành động vũ trang xâm lược từ bên ngoài mà còn đặc biệt coi trọng
việc xây dựng và giữ vững bên trong, đối phó những thủ đoạn phi vũ trang của
kẻ địch. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc không chỉ là riêng sức mạnh của lực lượng
vũ trang mà là sức mạnh tổng hợp của quốc gia và chế độ, lấy sức mạnh chính
trị, tinh thần, kinh tế, khoa học công nghệ của đất nước làm cơ sở để kết hợp và
phát huy sức mạnh thời đại vào sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.


16
Vì thế, điều quyết định cho sự bền vững của độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, bảo đảm cho đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải
kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi
lẽ, sự ổn định và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội sẽ bảo đảm cho sự phát
triển bền vững của mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, đồng thời là nền tảng của quốc phòng - an ninh. Không có quốc phòng, an
ninh mạnh, không có trật tự an toàn xã hội thì không thể có ổn định chính trị - xã
hội và càng không thể đối phó thắng lợi với những âm mưu thủ đoạn phá hoại của
các thế lực thù địch.

Trong thời kỳ mới, cần nhận thức một cách toàn diện và thấu đáo về mối
quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa phát triển kinh tế - xã hội với
củng cố quốc phòng, an ninh. Mục tiêu của sự kết hợp ấy là khai thác, sử dụng
có hiệu quả nguồn lực tổng hợp của quốc gia và chế độ nhằm bảo đảm cho kinh
tế - xã hội phát triển ổn định, nhanh và bền vững; xây dựng quốc phòng, an ninh
vững chắc; lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế
- xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Sự kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ
chiến lược không chỉ trong nhận thức mà cả trong hành động, trong mỗi nhiệm
vụ, lĩnh vực, khu vực và địa bàn chiến lược nhất định mà xác định trong mọi chủ
thể, ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy, phải kết hợp chặt chẽ giữa quân sự, quốc phòng với chính trị, kinh
tế, đối ngoại, khoa học, công nghệ, văn hóa, xã hội; xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; kết
hợp quốc phòng với an ninh và hoạt động đối ngoại.
Sự kết hợp giữa hai nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay là sự vận dụng quy luật xây dựng và bảo vệ tổ quốc của Chủ
nghĩa Mác- Lênin, đồng thời là sự vận dụng và phát triển lên một tầm cao mới
truyền thống kinh nghiệm của dân tộc ta trong quá trình dựng nước và giữ nước
vào thời kỳ lịch sử mới của đất nước ta- thời kỳ cả nước đẩy mạnh công cuộc
đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ


17
nghĩa. Thời kỳ mới đòi hỏi phải có hệ thống tổ chức, đội ngũ cán bộ của Đảng,
Nhà nước trong sạch vững mạnh, có như vậy mới đảm bảo cho đất nước vừa
được xây dựng phát triển mạnh mẽ đồng thời được bảo vệ một cách vững chắc.
Ba là, Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng,
đoàn kết toàn dân, toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, trên lãnh thổ Việt Nam, suốt mấy
nghìn năm lịch sử, các dân tộc phải thường xuyên đối phó với thiên tai, địch họa

nên muốn tồn tại họ phải biết chung lưng đấu cật mới có thể bám đất, giữ nước.
Sự tồn tại, đứng vững của các dân tộc đã đánh đổi bằng mồ hôi, thậm chí
cả xương máu của biết bao thế hệ con người. Từ thế hệ này đến thế hệ khác, từ
thời này qua thời khác, truyền thống đoàn kết luôn được vun đắp, hun đúc tạo nên
sự gắn kết không thể chia cắt giữa các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam. Bởi vậy, nhiều nhà Dân tộc học cho rằng, lịch sử Việt Nam là lịch sử thống
nhất quốc gia - dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một" có ý nghĩa như một chân lý. Đoàn kết là một nội
dung cốt lõi, là con đường hiệu quả nhất để huy động và phát huy sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam. Lịch sử Việt Nam tự nó đã chứng
minh nhờ truyền thống đoàn kết mà các thế hệ cha ông đã đánh thắng nhiều kẻ
thù hùng mạnh nhất của các thời đại, giữ cho Tổ quốc Việt Nam thống nhất, mãi
mãi trường tồn và phát triển. Tuy nhiên, đoàn kết dưới chế độ phong kiến vẫn có
những hạn chế khi phát huy sức mạnh, bởi đó là sự đoàn kết xung quanh vua,
chúa và toàn bộ giai cấp phong kiến bóc lột. Do đó, sự đoàn kết đó chưa thực sự
huy động được sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước trong khối đoàn kết đó.
Từ khi có Đảng lãnh đạo, dân tộc ta được đoàn kết xung quanh hạt nhân
là Đảng và Bác Hồ kính yêu. Trên cơ sở khởi dậy tinh thần yêu nước, phát huy
chủ nghĩa yêu nước, khối đại đoàn kết, mà hạt nhân là Đảng, đã không ngừng
được mở rộng thành đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đến lượt nó, sức mạnh của khối đại đoàn kết làm cho chủ nghĩa yêu nước thời
đại Hồ Chí Minh được phát triển rực rỡ hơn bao giờ hết. Chủ nghĩa yêu nước


18
thông qua việc xây dựng khối đại đoàn kết mà phát huy sức mạnh, trở thành
nguồn cội cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.
Hiện nay, đứng trước những đòi hỏi của công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, muốn huy động và phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhất
thiết phải không ngừng củng cố và tăng cường đoàn kết. Phải thường xuyên

chăm lo xây dựng và bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nòng cốt là liên
minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bồi đắp cơ sở xã hội sâu rộng và vững chắc của
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Phải đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết trên tinh thần yêu nước Việt
Nam và tôn trọng những lợi ích chính đáng của Việt Nam. Muốn vậy, Đảng phải
có cương lĩnh, đường lối đúng đắn, có hình thức tổ chức và phương pháp xây
dựng và bảo vệ phù hợp để tập hợp và phát huy sức mạnh của quần chúng. Phải
đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để phân tích đầy đủ thái độ
chính trị - xã hội của các giai tầng, phân biệt rõ đối tượng – đối tác, bạn – thù,
nhằm xây dựng và sắp xếp lực lượng cách mạng, không ngừng mở rộng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Nắm vững mục tiêu và nguyên tắc đoàn kết, xây dựng tinh
thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích.
Phải tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng làm cơ sở cho đàn kết
toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế vững chắc. Đoàn kết cần dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh đường lối, chủ
trương chính sách và Điều lệ của Đảng để thống nhất nhận thức và hành động.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng cần dựa trên cơ sở thực hiện nghiêm túc các
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng.
Phải tăng cường đoàn kết quốc tế, mà trước tiên là đoàn kết trong phong
trào cộng sản. Mở rộng đoàn kết với phong trào cộng sản quốc tế là một nguyên
tắc chiến lược của cách mạng vô sản. Sự đoàn kết đó phải dựa trên cơ sở của
chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Kiên quyết
đấu tranh với mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái, chống chủ nghĩa cơ hội xét lại dưới
mọi màu sắc. Chống chủ nghĩa dân tộc nước lớn, chủ nghĩa xô vanh và tư tưởng
bành trướng dân tộc.


19
Trước đây trong chiến tranh giải phóng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Việt Nam được định hướng và qui tụ dưới ngọn cờ tư tưởng thống nhất giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, với khát vọng “không có gì quý hơn
độc lập tự do”. Ngày nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam được định
hướng và qui tụ dưới ngọn cờ tư tưởng thống nhất độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, với khát vọng “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh”. Đó là sự kế tục, bổ sung và phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
thời đại Hồ Chí Minh lên tầm cao mới, đáp ứng sự phát triển của tình hình và
nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Đó cũng là yếu tố quan trọng hàng đầu bảo đảm
cho đất nước ta luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống, ổn định và
phát

triển

bền

vững

.

Bốn là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng của giai cấp công nhân.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam – mà ngôn ngữ thông thường gọi là “lòng
yêu nước” hay “lòng ái quốc” – là một biểu lộ đầy cảm tính nhằm bảo vệ những
biểu hiện cụ thể đương đại liên hệ đến Tổ quốc như: sự toàn vẹn lãnh thổ, sự tồn
vong của chế độ đương thời (mà an sinh của dân tộc cũng như chính gia đình
mình tùy thuộc vào) trước mối đe dọa từ bên ngoài, nếu cần, bằng chính sinh
mạng của mình. Việc khơi dậy và huy động sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
nhằm xây dựng và đặc biệt là bảo vệ Tổ quốc phụ thuộc rất lớn vào vai trò lãnh
đạo và tổ chức của nhà cầm quyền.
Trong lịch sử thế giới, chủ nghĩa yêu nước thường được kích động và huy

động bởi nhà cầm quyền. Vì vậy, chủ nghĩa yêu nước thường bị liên hệ chặt chẽ
và đôi lúc dễ dàng bị thao túng bởi những ý đồ của các triều đại hoặc thể chế
đương thời. Trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chủ
nghĩa yêu nước hay ái quốc thường đi đôi với trung quân. Nhưng khi các thế lực
cầm quyền tranh giành quyền lực thì chủ nghĩa yêu nước có thể bị các nhà cầm
quyền sử dụng phục vụ mục đích bá quyền nhiều hơn và vì dân tộc quốc gia.
Cũng vì thế mà chủ nghĩa yêu nước thường không thực sự phát huy được sức
mạnh vốn có của nó. Thậm chí có lúc bị hiểu lầm là chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, cách mạng Việt Nam đi theo con
đường cách mạng. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam kết hợp với chủ


20
nghĩa Mác –Lênin, kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản của giai cấp công nhân,
làm cho nó trở nên trong sáng, chân chính hơn trong thời đại Hồ Chí Minh. Sự
trong sáng và chân chính đó đã giúp chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ
Chí Minh trở thành nguồn cội sức mạnh vô địch, mà không kẻ thù hùng mạnh nào
trên thế giới có thể khuất phục được. Sự kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản làm
cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trở nên mạnh mẽ hơn, không bó hẹp khép kín,
mà rộng mở, hòa chung dòng chảy tiến bộ của cách mạng thế giới, trở nên trường
tồn cùng thời gian.
Sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính Việt Nam với chủ nghĩa quốc
tế trong sáng của giai cấp công nhân đã tạo ra chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
thời đại Hồ Chí Minh. Để kế thừa và phát huy đầy đủ sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, cần tăng cường giáo dục sâu rộng
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh trong các tầng lớp nhân
dân, nhất là trong cán bộ, đảng viên, trong lực lượng vũ trang nhân dân và trong
thanh thiếu niên, định hướng giá trị cho sự phát triển những phẩm chất nhân
cách của con người Việt Nam đương đại.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh được định hướng và

thể hiện tập trung ở lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH dựa trên nền
tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Công tác chính trị-tư tưởng của chúng ta cần
làm cho các yếu tố được quán triệt sâu sắc trong tư duy chiến lược, trong hoạch
định chiến lược phát triển, được cụ thể hoá và xã hội hoá sâu rộng trong các
phong trào xã hội và hoạt động xã hội, được chuyển hoá thành nhận thức, tình
cảm, trách nhiệm và hoạt động của mỗi người, của mọi tổ chức chính trị-xã hội.
Chúng ta cần khảo sát thực tiễn để có những chủ trương, giải pháp cụ thể
thiết thực khắc phục tình trạng tuổi trẻ bị lôi kéo vào các hoạt động tôn giáo, bị
kích động ly khai dân tộc dẫn đến tham gia biểu tình bạo loạn chống lại chế độ
hoặc bị cuốn hút vào lối sống chạy theo đồng tiền mà đánh mất lòng tự tôn dân
tộc.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh có cội nguồn lịch
sử, là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm dựng


21
nước và giữ nước. Do đó, chúng ta cần tăng cường giáo dục truyền thống để
khơi dậy lòng tự hào và tự tôn dân tộc trong mỗi người Việt Nam, không để xẩy
ra tình trạng như ở Tây Nguyên vừa qua.
Thực hiện tốt các chiến lược, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn
với tăng cường quốc phòng-an ninh, chứng minh và khẳng định cho được tính
chất tiến bộ và ưu việt của chế độ kinh tế-xã hội mới đang được xây dựng và bảo
vệ trên đất nước ta. Đây là cơ sở vững chắc bảo đảm cho sự phát triển và phát
huy tố chất chính trị - tinh thần của mỗi người và trạng thái chính trị - tinh
thần lành mạnh của xã hội, tạo nên động lực chính trị - tinh thần to lớn nhằm khơi
dậy và phát huy đầy đủ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh trong
thực hiện nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, kết hợp phương thức đánh giặc truyền thống và hiện đại trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy cao độ truyền
thống đánh giặc giữ nước của dân tộc. Vận dụng sáng tạo học thuyết bảo vệ tổ
quốc của Chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn nước ta, đề ra đường lối chiến tranh
nhân dân. Chiến tranh nhân dân do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là
cuộc chiến tranh thực sự do dân, vì dân, toàn dân toàn diện phát triển lên đỉnh cao.
Nhờ có đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã động viên được ý chí độc lập tự chủ, tự lực tự cường của dân tộc, phát huy
được truyền thống “cả nước chung sức, toàn dân đánh giặc”, “lấy ít địch nhiều, lấy
nhỏ thắng lớn”… Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng ta
đã khai thác được sức mạnh tổng hợp từ tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự lực tự
cường của nhân dân ta, từ tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống xâm
lược, từ sức mạnh của cả dân tộc, của lực lượng vũ trang và của quần chúng nhân
dân với sức mạnh của thời đại; từng bước chuyển hóa tương quan lực lượng tạo lên
sức mạnh to lớn giành thắng lợi.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, hơn bao giờ hết chúng ta phải biết kế thừa, vận dụng và phát triển truyền
thống đánh giặc giữ nước của dân tộc cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Sức


22
mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sức mạnh của sự kết hợp sức
mạnh truyền thống và hiện đại, sức mạnh của ý chí độc lập tự chủ, tự lực tự cường
của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa ngày nay còn được tạo lên từ trong quan hệ hợp tác quốc tế, biết tranh
thủ vận hội thời cơ mới, trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ. Kết hợp phương thức truyền thống và hiện đại trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay đòi hỏi Đảng,
Nhà nước ta phải tiếp tục tổng kết kinh nghiệm đánh giặc giữ nước, kinh nghiệm
chỉ đạo chiến tranh, phát triển lý luận bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững

chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trước hết toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta phải nhất trí cao, kiên định sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở những thành tựu của công
cuộc đổi mới, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, những thành tựu mới
nhất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, tích cực xây dựng nền
quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân
đội nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
đủ sức đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, trong mọi tình huống.
Sáu là: Giữ vững, tăng cường và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩ hiện nay
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam đó là điều đã được thực tiễn lịch sử kiểm nghiệm. Khi chuẩn bị thành
lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ, cách mạng trước hết phải có Đảng
cách mạng. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy. Suốt hơn bảy mươi năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng đã đưa dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong sự nghiệp
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa.


23
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trước hết là do Đảng nắm vững lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam
để đề ra Cương lĩnh, đường lối thích hợp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng
phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có lý luận "cũng giống như người không
có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam" hoặc giống như "người đi trong đêm tối".
Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng nâng cao
trình độ lý luận, coi trọng xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, coi trọng tổng
kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để không ngừng phát triển, hoàn chỉnh
đường lối. Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,

Đảng đã đề ra đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đường lối chiến
tranh nhân dân đúng đắn và sáng tạo dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám 1945 và hai cuộc kháng chiến giành độc lập thống nhất hoàn toàn.
Vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng đã đề ra đường lối từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh và lấy chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng và là bước phát triển quan trọng
trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Đảng lãnh đạo trước hết bằng đường lối chính trị. Đường lối chính trị
đúng đắn phản ánh trình độ trí tuệ, nhận thức và tư duy lý luận của Đảng, là
kết quả của tổng kết thực tiễn, phản ánh lợi ích của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động và toàn dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng không
ngừng bổ sung, phát triển, cụ thể hoá đường lối nhằm đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn không ngừng phát triển và biến đổi. Trong lịch sử đấu tranh cách
mạng, Đảng ta thường xuyên biết tự phê bình và phê bình để kịp thời sửa
chữa những sai lầm, khuyết điểm, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, những
biểu hiện chệch hướng "tả", hữu, bảo đảm cho sự thống nhất về quan điểm
đường lối, về ý chí và hành động trong toàn Đảng. Bài học lớn là phải luôn
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan,


24
kết hợp nhuần nhuyễn sự kiên định về nguyên tắc với sự linh hoạt sáng tạo về
phương pháp, đó là điều kiện cơ bản bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng. Bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí cũng như sự xa rời nguyên tắc và
mục tiêu cơ bản đều rất nguy hại cho Đảng, cho cách mạng.
Sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện thông qua vai trò và năng lực tổ
chức thực tiễn của cán bộ, đảng viên. Qua bao kinh nghiệm thực tiễn, Đảng ta
nhận thức sâu sắc rằng, sau khi đã có đường lối đúng thì cán bộ quyết định tất

cả, "cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Vì vậy, ở mọi thời kỳ cách mạng,
Đảng luôn chú trọng xây dựng Đảng về tổ chức, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng,
rèn luyện cán bộ, đảng viên cả về trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, cả về
đạo đức cách mạng. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng
cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tăng cường công tác kiểm tra và kỷ
luật của Đảng. Đảng quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo từ quy trình
hoạch định đường lối, chính sách, đến khâu tổ chức và cán bộ, đến quá trình
tổ chức thực tiễn, cuối cùng là kiểm tra việc thực hiện đường lối và các nghị
quyết của Đảng, bảo đảm cho đường lối, chủ trương được thực hiện có hiệu
quả.
Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng là một
vấn đề cốt tử bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Bản chất giai cấp công nhân
của Đảng được quyết định trước hết bởi hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, bởi nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó đòi hỏi phải kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong bất kỳ tình huống khó
khăn nào cũng không dao động, xa rời mục tiêu đó. Kiên định và vận dụng sáng
tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất
phát đầy đủ từ thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng đường lối, chủ trương
và các chính sách đúng đắn.
Với bản chất giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản Việt Nam qua lịch sử
đấu tranh lâu dài đã và đang kế thừa, phát triển những truyền thống vẻ vang
của dân tộc, hình thành những truyền thống quý báu của Đảng. Đó là truyền


25
thống đấu tranh kiên cường bất khuất của nhiều thế hệ những người cộng sản
vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; truyền thống độc lập tự chủ,
sáng tạo trong đường lối và phương pháp cách mạng; truyền thống đoàn kết
thống nhất trong Đảng; truyền thống gắn bó mật thiết với nhân dân và dân
tộc, một lòng vì nước, vì dân; truyền thống quốc tế chủ nghĩa trong sáng v.v..

Hiểu rõ các thời kỳ Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam với những
thắng lợi vẻ vang và những kinh nghiệm rất phong phú, sáng tạo của Đảng và
nhân dân ta; nhận thức sâu sắc những bài học lớn được Đảng tổng kết từ toàn
bộ quá trình lãnh đạo cách mạng cùng những giá trị truyền thống của Đảng để
vận dụng thích hợp và phát triển hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội theo đường lối đổi mới hiện nay - đó chính là yêu cầu và nội dung cơ
bản của môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

KẾT LUẬN
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được hình thành và hun đúc lên trong chính
quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm lịch sử của cha ông ta. Trong
những hoàn cảnh lịch sử - kinh tế - chính trị - văn hóa khác nhau, nội dung của chủ


×