Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

LÝ THUYẾT KẾT HỢP BIỆN CHỨNG CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.85 KB, 15 trang )

Tiểu luận triết học

PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của tiểu luận
-

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay gọi là quy luật mâu thuẫn)
là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật, là hạt nhân của phép biện
chứng duy vật vì nó vạch ra nguồn gốc động lực của sự vận động phát triển của thế
giới khách quan: mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên đều tồn tại và mâu thuẫn
bên trong. Do đó, nó chính là chìa khóa và cơ sở giúp chúng ta nẵm vững thực chất
của tất cả các quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật.

-

Với mong muốn tìm hiểu thêm về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập, và xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của bản thân, học viên xin chọn tiểu luận “Lý
thuyết kế hợp biện chứng các mặt đối lập và sự vận dụng lý thuyết này trong việc
giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong sự nghệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
hiện nay, cũng như trong công tác chuyên môn của bản thân”.
Mục đích, nhiệm vụ, giới hạn của tiểu luận
Mục đích của tiểu luận:

-

Nắm vững quy luật này là cơ sở để hiểu biết tất cả các phạm trù và quy luật khác của
phép biện chứng duy vật. Nghiên cứu quy luật này giúp mọi người hình thành
phương pháp, hình thành tư duy khoa học, biết khám phá bản chất của các sự vật và
giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh, vận dụng để nhận biết các mâu thuẫn nảy sinh
trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc hiện nay để có những nhìn nhận đúng đắn và khách
quan về sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc do Đảng và Nhà nước lãnh đạo, từ đó


có những hành xử đúng đắn cho cá nhân; vận dụng và liên hệ đến công tác chuyên
môn của học viên nhằm hoàn thiện kỹ năng nghề và bản thân, trong môi trường làm
việc cũng như các mối quan hệ xã hội.
Nhiệm vụ của tiểu luận:

-

Nghiên cứu về quy luật mâu thuẫn và tư tưởng kế hợp các mặt đối lập.

-

Phân tích việc Đảng vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về sự kết hợp các mặt đối lập
để giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong sự nghệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
hiện nay.
Trang


Tiểu luận triết học

-

Liên hệ, vận dụng sự kết hợp các mặt đối lập để giải quyết những mâu thuẫn trong
hoạt động chuyên môn của bản thân.
Giới hạn của tiểu luận

-

Do thời gian và khả năng có hạn nên trong tiểu luận này học viên chỉ nghiên về nội
dung quy luật mâu thuẫn và vận dụng tư tưởng này vào trong công cuộc thực tiễn
đổi mới ở đất nước ta hiện nay và một số liên hệ đến bản thân.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

-

Những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử

-

Những quan điểm của C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh, Đảng Cộng
sản Việt Nam về CNXH và con đường lên CNXH

Trang


Tiểu luận triết học

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NỘI DUNG QUY LUẬT MÂU THUẪN
VÀ TƯ TƯỞNG KẾT HỢP CÁC MẶT ĐỐI LẬP
1.
1.1. Định nghĩa
- Mâu thuẫn: là hiện tượng khách quan và phổ biến, chỉ mối liên hệ tác động qua lại
giữa các mặt đối lập trong cùng một sự vật.
Như vậy, mâu thuẫn là cái vốn có ở mọi sự vật hiện tượng. Khi sự vật hay hiện
tượng được hình thành và phát triển sẽ xuất hiện mâu thuẫn, là do cấu trúc tự nhiên
của sự vật quy định, không phụ thuộc vào bất kỳ một lực lượng siêu nhiên nào,
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật
xuất hiện cho đến khi kết thúc, ở mọi không gian, thời gian, mọi giai đoạn phát triển.
Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác được hình thành.
Trong những điều kiện cụ thể khác nhau, mâu thuẫn thể hiện ra dưới nhiều hình thức

đa dạng và phong phú khác nhau:
o Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
o Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
o Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
o Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng
- Mặt đối lập: theo Giáo trình Triết học Mác –Lênin viết “Khi nói tới những nhân tố
cấu thành mâu thuẫn biện chứng, “mặt đối lập” là phạm trù dùng để chỉ những mặt
có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến
đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành
mâu thuẫn biện chứng.”
- Trong tư duy thông thường, khi nói đến hai mặt đối lập là nói đến mâu thuẫn. Còn
trong tư duy biện chứng, không phải là hai mặt đối lập nào cũng tạo nên mâu thuẫn
mà chỉ những mặt đối lập tác động biện chứng với nhau tạo nên sự vật hiện tượng và
tạo nên sự phát triển mới được gọi là mâu thuẫn – mâu thuẫn biện chứng.
1.2. Tóm tắt nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Trang


Tiểu luận triết học

- Mọi sự vật (hiện tượng, quá trình) trong thế giới đề có liên hệ lẫn nhau và
luôn vận động, phát triển; vận động, phát triển do các mâu thuẫn gây ra; các mâu
thuẫn biện chứng khác nhau tác động không giống nhau đến quá trình vận động,
phát triển của sự vật;
- Mỗi mâu thuẫn biện chứng đều trải qua ba giai đoạn: sinh thành (sự xuất
hiện của các mặt đối lập) – hiện hữu (sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập) – giải quyết (sự chuyển hóa của các mặt đối lập);
- Mâu thuẫn biện chứng được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời
với những mâu thuẫn biện chứng mới hay thay đổi vai trò tác động của các mâu

thuẫn biện chứng cũ;
- Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển xảy
ra trong thế giới vật chất. Vận động, phát triển mang tính tự thân.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận – nguyên tắc phân tích mâu thuẫn
Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đúng sự vật, thấy được nguồn gốc vận
động, phát triển (tức mâu thuẫn) của nó:
- Phân đôi sự vật thành các cặp mặt đối lập, khảo sát sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập để phát hiện ra các mâu thuẫn biện chứng đang chi phối sự
vật đó.
- Phân loại và xác định đúng vai trò, giai đoạn tồn tại của từng mâu thuẫn biện
chứng (đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn bên trong,…)
đang chi phối sự vận động, phát triển của bản thân sự vật.
- Phân tích kết cấu và điều kiện tồn tài của sự vật để xác định đúng quy mô và
phương thức giải quyết của từng mâu thuẫn biện chứng, dự đoán cái mới ra đời sẽ
vận động dưới sự tác động của những mâu thuẫn biện chứng nào.
Trong hoạt động thực tiễn, để đạt được hiệu quả phải:
- Hiểu rõ nguồn gốc, động lực thúc đẩy sự vận động, phát triển của bản thân sự vật là
những mâu thuẫn biện chứng; xác định đúng những mâu thuẫn biện chứng đang chi
phối sự vật để từ đó xây dựng các đối sách thích hợp.
- Tìm hiểu và sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết
là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để can thiệp đúng lúc, đúng chỗ,
đúng mức độ và tiến trình vận động, phát triển của bản thân sự vật để lèo lái nó theo
đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta.
1.4. Sự kết hợp các mặt đối lập
Trang


Tiểu luận triết học

- Theo tư tưởng của Mác – Lênin về sự kết hợp giữa các mặt đối lập của sự vật

được tác giả Trần Nguyên Ký phân tích rất sâu sắc trong cuốn “Sự kết hợp các
mặt đối lập trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”, vấn đề
kết hợp các mặt đốt lập được đặt ra với tư cách là hình thức hoạt động tích cực, tự
giác của chủ thể trên cơ sở nhận thức và vận dụng mối quan hệ khách quan, vừa
thống nhất vừa đấu tranh giữa các mặt đối lập nảy sinh trong đời sống xã hội. Xuất
phát trừ sự thống nhất vốn có giữa các mặt đối lập, chủ thể hoạt động có thể thực
hiện việc kết hợp chúng lại một cách đúng đắn, khoa học nhằm đem lại lợi ích nhất
định cho chủ thể đó.
- Việc kết hợp các mặt đối lập ở đây, với tư cách là hoạt động tích cực của hoạt động
chủ quan, phải được dựa trên cơ sở khách quan cụ thể, đó là những đòi hỏi tất yếu
của việc kết hợp và ở cả những điều kiện khách quan cho phép để có thể tiến hành
việc kết hợp này. Đồng thời việc kết hợp các mặt đối lập trong đời sống xã hội cũng
phải thể hiện được tính định hướng rõ ràng. Cụ thể là việc kết hợp này phải làm sao
cho quá trình vừa thống nhất, vừa đấu tranh giữa các mặt đối lập trong một chỉnh thể
mâu thuẫn xã hội cụ thể, mặt đối lập đại diện cho sự tiến bộ sẽ dần dần chiến thắng
được mặt đối lập đại diện cho sự lạc hậu. Có như vậy, việc giải quyết mâu thuẫn xã
hội mới đem lại động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, phù hợp với quy luật
phát triển khách quan của xã hội.
- Khi khẳng định kết hợp các mặt đối lập là biểu hiện các hoạt động tích cực của chủ
thể trong hoạt động thực tiễn xã hội, tư tưởng biện chứng mác xít lưu ý rằng, đây
không phải là hành động có tính chủ quan thuần túy, có thể áp dụng đối với bất kỳ
mặt đối lập nào một cách vô điều kiện. Trái lại, việc thực hiện kết hợp các mặt đối
lập phải tuân theo những yêu cầu khách quan nhất định, cụ thể như sau:
o Thứ nhất, về mặt khách quan, giữa các nhân tố, các lực lượng xã hội, tồn tại
với tư cách là những mặt đối lập của nhau phải có những điểm chung, tương
đồng có thể đi tới sự điều hòa, thỏa hiệp trong một giớ hạn nhất định. Trong
trường hợp này, cụ thể hoạt động có thể thực hiện việc kết hợp các mặt đối
lập, trong đó chấp nhận một sự thỏa hiệp nào đó, nhằm hướng sự giải quyết
mâu thuẫn xã hội theo hướng có lợi cho chủ thể. Dĩ nhiên, việc kết hợp các
Trang



Tiểu luận triết học

mặt đối lập, với những thỏa hiệp nhất định ở đây không phải là hoạt động
xóa bỏ nguyên tắc đấu tranh giữa các mặt đối lập. Đây chỉ là hoạt động đưa
cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập vào trong một hình thức cụ thể, có lợi
cho chủ thể mà thôi. Trong trường hợp giữa các mặt đối lập hoàn toàn không
có điểm chung, tương đồng, mâu thuẫn xã hội này hoàn toàn mang tính đối
kháng thì việc kết hợp không thể thực hiện được một cách đúng đắn và đem
lại hiệu quả mong muốn cho chủ thể.
o Thứ hai, việc kết hợp các mặt đối lập chỉ có thể thực hiện trong điều kiện
hoàn cảnh thuận lợi (bao gồm cả điều kiện trong nước và Quốc tế). Cụ thể
đó phải là những điều kiện hoàn cảnh cho phép chủ thể thực hiện được việc
kết hợp theo mong muốn. Thậm chí đó còn là những điều kiện hoàn cảnh
như một đòi hỏi tất yếu khách quan, buộc chủ thể phải thiến hành giải quyết
mâu thuẫn bằng phương thức kết hợp này. Chẳng hạn, những biến đổi về
kinh tế quốc tế hiện nay, về sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện nay… là những điều kiện khách quan cho phép
chủ thể hoạt động có thể thực hiện sự kết hợp các mặt đối lập.
o Thứ ba, về mặt chủ quan, việc kết hợp các mặt đối lập chỉ thực hiện được và
đạt kết quả mong muốn khi chủ thể có đủ năng lực và bản lĩnh chính trị cần
thiết đáp ứng được yêu cầu của sự kết hợp này. Đòi hỏi chủ thể ở đây phải
có đủ khả năng sớm nắm bắt được yêu cầu khách quan cũng như thời cơ
thuận lợi của việc kết hợp, từ đó tiến hành tổ chức kết hợp một cách khéo
léo, khoa học nhằm hướng có lợi cho chủ thể. Có thể khẳng định, trong
chừng mực nào đó, vai trò của chủ thể trong việc kết hợp các mặt đối lập ở
đây là có ý nghĩa quyết định.
o Thứ tư, việc kế hợp các mặt đối lập đó phải thể hiện được tính định hướng rõ
rang, phải góp phần thúc đầy sự phát triển xủa xã hội.

o Thứ năm, việc kết hợp các mặt đối lập phải đảm bảo quá trính đấu tranh giữa
các mặt đối lập đó. Bởi vì, sự phát triển chính là “quá trình đấu tranh của các
mặt đối lập”
Trang


Tiểu luận triết học

1.5. Kết luận
- Nhìn từ góc độ tư tưởng biện chứng, sự kết hợp các mặt đối lập chính là một quá
trính tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể, giữa nhân tố chủ quan và điều
kiện khách quan. Trong đó, vai trò của chủ thể, của nhân tố chủ quan được phát huy
cao độ để có thể thúc đẩy lịch sử phát triển.

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG
LÝ THUYẾT KẾT HỢP BIỆN CHỨNG CÁC MẶT ĐỐI LẬP
VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
2.

2.1. Kết hợp các mặt đối lập trong xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
- Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đã có những mâu thuẫn phát sinh như sau: mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước và trong kinh tế
thị trường… Chúng ta chưa thật sự biết vận dụng tư tưởng của V.I.Lê nin về kết hợp
các mặt đối lập, tuyệt đối hóa sự đối lập giữa công hữu và tư hữu, giữa kinh tế
XHCN và kinh tế tư nhân, tuyệt đối hóa sự đối lập giữa lập kế hoạch và thị trường,
Trang



Tiểu luận triết học

không nhận thức đượ tính tất yếu và vai trò tích cực của kinh tế thị trường đối với
quá trình đi lên CNXH ở nước ta, dẫn tới phủ định kinh tế thị trường, duy trì quá lâu
kinh tế tập trung kế hoạch hóa cao độ. Hậu quả là cuộc khủng hoảng kinh tế đầu
những năm 80 của thế kỷ XX. Trí tuệ, kinh tế đất nước ngày một đi xuống. Chính sự
nhận thức sai lầm trong chính sách đổi mới kinh tế đã không tạo ra được sức mạnh
tổng hợp thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước mà đưa nước ta rơi vào tình trạng
lạc hậu, gia tăng khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Hiểu được sai lầm đó, năm 1986 Đảng đã đề ra chính sách kinh tế mới với mục tiêu
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đưa đất nước thoát khỏi trì trệ một cách
nhanh chóng đồng thời đẩy mạnh quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Cụ thể, chúng ta
đã biết vận dụng ngày càng tốt hơn tư tưởng biện chứng của V.I.Lênin về sự kêt hợp
các mặt đối lập như sau:
o Thứ nhất, kết hợp nền kinh tế XHCN và phi XHCN trong một nền kinh tế
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Trong
đó, một mặt chúng ta khẳng định vai trò tích cực của nền kinh tế phi XHCN,
song mặt khác chúng ta cũng nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế XHCN
với tư cách là nhân tố quyết định tính chất XHCN của nền kinh tế quốc dân
o Thứ hai, kết hợp giữa công tác kế hoạch hóa nhà nước với sự điều tiết của thị
trường hàng hóa. Chúng ta nhận thức rằng, nếu chỉ thực hiên kế hoạch hóa
mà không chấp nhận sự diều tiết của thị trường hàng hóa thì không vận dụng
hết sự năng độngcủa nền kinh tế thị trường. Song nếu chỉ dựa và sự điều tiết
của nền kinh tế thị trường thì sẽ đưa nền kinh tế nước ta đi chệch hướng. Do
đó, việc kết hợp giữa công tác kế hoạch hóa và điều tiết thị trường là điều
cần thiết, đảm bảo cho nền kinh tế vừa phát triển năng động, kích thích tăng
trưởng kinh tế nhanh, vừa phát triển theo định hướng XHCN
- Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã khẳng định vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà
nước, song mặt khác cũng khẳng định vai trò của các nền kinh tế khác. Mặc dù thừa
nhận nền kinh tế tư nhân, song nước ta là nước XHCN nên Đảng đã rất khôn khéo

trong việc tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy kinh tế Nhà nước phát triển, nhấn mạnh
vai trò quan trọng của nó, đồng thời kinh tế Nhà nước kết hợp với kinh tế thị trường
Trang


Tiểu luận triết học

đã tạo thành nền tảng của nền kinh tế nước nhà. Đó là một minh chứng cho sự mềm
dẽo và linh hoạt trong tư duy kinh tế của Đảng ta. Bên cạnh đó, Đảng ta đã kết hợp
giữa thị trường và kế hoạch, từ bỏ quan niệm cực đoan tạo nên sự dung hòa trong
nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế vừa phát triển năng động, kích thích tăng
trưởng kinh tế nhanh, vừa phát triển theo định hướng XHCN.
2.2. Kết hợp các mặt đối lập trong trong hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
- Trước những biến đổi to lớn trên thế giới như sự khủng hoảng của hệ thống XHCN,
sự điều chỉnh, thích nghi của CNTB hiện đại, đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tác động đến xu thế quốc tế hóa, toàn cầu
hóa kinh tế. Đảng ta khẳng định cần phải hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
- Trong quá trình chủ động hội nhập quốc tế và khu vực, chúng ta đã thực hiện việc
kết hợp các mặt đối lập theo tinh thần của V.I.Lê-nin giữa xã hội XHCN và TBCN.
Ở đâu chúng ta hiểu rằng không thể giữ thái độ bất hợp tác với CNTB trong quá
trình xây dựng CNXH của mình. Bởi vì vậy là không phù hợp với xu thế khách quan
của thời đại ngày nay. Thế nhưng, chúng ta hiểu rằng, việc kết hợp với CNTB trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng có thê làm cho sự phát triển của đất nước đi
chênh hướng, mất bản sắc dân tộc, mất độc lập tự chủ, thậm chí là mất chủ quyền
quốc gia. Bởi vì, thực chất toàn cầu hóa hiện nay là toàn cầu hóa TBCN, bị khống
chế, chi phối bởi các thế lực TBCN.
- Vì vậy, việc kết hợp giữa CNXH với CNTB phải nhằm mục đích phát huy nội lực,
khai thác ngoại lực để thúc đẩy quá trình đi lên XHCN ở nước ta. Nội lực phải là
yếu tố quyết định trong quá trình hội nhập quốc tế, là cơ sở để khai thác có hiệu quả
ngoại lực, tạo sức mạnh tổng lực thúc đẩy quá trình xây dựng XHCN ở nước ta.

Muốn vậy, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, phải xây dựng cho
được một nền kinh tế độc lập tự chủ, phải gắn quá trình hội nhập với việc xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ.
- Việc thực hiện, phát triển kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức, đặc biệt là
liên doanh, liên kết kinh tế giữa Nhà nước với tư bản nước ngoài sẽ cho phép động
viên, khai thác được khả năng to lớn về vốn, công nghệ tiên tiến và khoa học hiệu
quả kinh tế cao của các nhà kinh tế tư bản nước ngoài, vì lợi ích chiến lược, lâu dài
của CNXH. Điều đó đã được phản ánh qua các kì đại hội VI, VII, VIII, IX. Chính
Trang


Tiểu luận triết học

chủ trương kết hợp các mặt đối lập về sự vận động và phát triển kinh tế cho thấy
được sự sáng suốt trong đường lối lãnh đạo của Đảng ,thúc đẩy nền kinh tế nước ta
phát triển năng động hơn,đẩy mạnh công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất
nước. “Hòa nhập chứ không Hòa tan !”
- Chủ trương đổi mới kinh tế trên tinh thần kết hợp biện chứng, có nguyên tắc định
hướng XHCN của Đảng ta vừa là sự vận dụng sáng tạo tinh thần biện chứng lại vừa
đáp ứng đòi hỏi to lớn của sự phát triển nền kinh tế hiện đại. Minh chứng cho chính
sách đổi mới của Đảng thể hiện qua nền KTXH qua các kì Đại hội toàn quốc. Nền
kinh tế nước ta đã có những biểu hiện khả quan sau đầu Đại hội nhiệm kì Đại hội X:
kinh tế ổn định, duy trì tốc độ tăng trưởng tương đối cao (7,6%năm), GDP tăng từ
53 tỉ USD lên 89 tỉ USD (2005–2008), vốn đầu tư nước ngoài cao (62 tỉ USD ) thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục hoàn thiện. Nhờ vận dụng kết hợp
các mặt đối lập làm nền kinh tế xã hội hội nhập vào trường quốc tế, ngày
25/07/1995, nước ta chính thức gia nhập ASEAN. Tháng 11/1998, nước ta chính
thức được công nhận là thành viên của diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình
Dương . Đồng thời, ngày 7/11/2006 nước ta gia nhập WTO, và gần đây nhất là sự
kiện Việt Nam tham gia đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình dương

TPP, mở rộng thị trường kinh doanh. Trong quan hệ kinh tế với Mỹ, chúng ta cũng
có những xúc tiến tích cực trong việc đàm phán Hiệp định thương mại Việt -Mỹ và
đạt được nhiều thắng lợi. Phương pháp luận của việc thực hiện kết hợp giữa nước ta
với các nước TBCN , thể hiện trong chính sách đối ngoại rộng mở của Đảng ta ở
đậy đã cố gắng khai thác những điểm tương đồng, giống nhau đồng thời hạn chế tối
đa những điểm dị biệt, đối lập. Bên cạnh việc tiến hành hợp tác với các nước TBCN,
Đảng ta còn khẳng định rõ, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp giữa
nguồn nội lực và ngoại lực, giữa trong nước và quốc tế, đồng thời khẳng định rõ hơn
vai trò quan trọng của nội lực. Như vậy, trong quá trình hội nhập kinh tế nhằm đáp
ứng đòi hỏi khách quan của toàn cầu hóa , Đảng ta quán triệt tinh thần biện chứng
về sự kết hợp các mặt đối lập.
2.3. Kết hợp các mặt đối lập trong trong sự nghiệp bảo vệ đất nước thời kì hội nhập
- Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam. V.I. Lenin, người thầy vĩ đại của cách mạng thế giới đã
Trang 10


Tiểu luận triết học

chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. Trải qua các giai
đoạn cách mạng, cùng với đường lối xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, Đảng ta
luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược sống còn. Trong công
cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, quy luật
dựng nước đi đôi với giữ nước, được biểu hiện tập trung ở hai nhiệm vụ chiến lược
có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau là xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam.
- Phương châm chỉ đạo về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta xác định rõ là kiên
định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên trì
giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hoà bình, trên cơ sở luật pháp quốc
tế; tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc tế; phân hoá,

cô lập các phần tử, thế lực ngoan cố chống phá Việt Nam; lấy việc giáo dục, thuyết
phục, phòng ngừa là chính, đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm
minh hành vi vi phạm pháp luật; chủ động đấu tranh với các âm mưu, hoạt động
"diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, không để hình thành tổ chức chính trị
đối lập dưới bất kỳ hình thức nào...
- Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta nhìn
nhận toàn diện và sâu sắc hơn. Mục tiêu kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược là
phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính
trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh vực khác, bảo đảm
kinh tế xã hội phát triển ổn định, bền vững; quốc phòng, an ninh được tăng cường.
Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội là nền tảng vững
chắc của quốc phòng-an ninh. Phát triển kinh tế-xã hội đi đôi với tăng cường sức
mạnh quốc phòng, an ninh; bảo đảm quốc phòng, an ninh trở thành một trong những
mục tiêu trọng yếu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội; kinh tế phát triển, các
vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết, đời sống nhân dân không ngừng được nâng
cao, thực hiện tốt công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh được bảo đảm, đối ngoại
được mở rộng sẽ tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn, mạnh mẽ để xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Trang 11


Tiểu luận triết học

- Phương thức kết hợp giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng được đổi
mới và hoàn thiện theo hướng chủ động gắn kết xây dựng với tự bảo vệ; kết hợp
theo quy hoạch, kế hoạch của từng địa phương, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung
thống nhất của Trung ương; kết hợp theo khu vực, vùng lãnh thổ, ngành, lĩnh vực
kinh tế-xã hội trên phạm vi toàn quốc; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo
đảm quốc phòng, an ninh trong các dự án đầu tư, quy hoạch phát triển các vùng, các

ngành kinh tế, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm, các địa bàn chiến lược, các
ngành kinh tế quan trọng.
- Lịch sử đã chứng minh, quy luật phát triển của đất nước ta là dựng nước luôn luôn
đi đôi với giữ nước, xây dựng luôn luôn đi đôi với bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, dân tộc ta đã giành được độc lập, tự do, thống nhất đất nước và có vị thế
ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
ta nhất định sẽ giành thắng lợi trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng thành
công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội như sinh thời Bác Hồ hằng mong muốn.
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG
LÝ THUYẾT KẾT HỢP BIỆN CHỨNG CÁC MẶT ĐỐI LẬP
VÀO HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN CỦA BẢN THÂN
3.

3.1. Lời dẫn
- Ngày nay, khi đời sống kinh tế của chúng ta ngày càng phát triển thì cuộc sống sinh
hoạt của con người ngày càng được coi trọng hơn. Việc thưởng thức cuộc sống
không chỉ dừng lại ở việc đủ nữa mà bây giờ nhu cầu của con người sẽ nâng lên một
tầm cao hơn sự đầy đủ là tính thẩm mĩ, mọi thứ phải đẹp, phải sang trọng. Trong xây
dựng, thì việc tạo dựng nhà cửa nói riêng cũng như công trình cao cấp nói chung,
ngoài việc đầy đủ chức năng nó còn phải đẹp, phải có phong cách mới phù hợp với
thời đại mới đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.. Chính vì vậy mà vai trò của
ngành xây dựng ngày càng trở lên quan trọng hơn, mà chủ thể chính là các kỹ sư,
kiến trúc sư – những “linh hồn” và “thể xác” của công trình. Ngành xây dựng trong

Trang 12


Tiểu luận triết học


khoảng thời gian trở lại đây đã phát triển một cách nhanh chóng và mạnh mẽ, thể
hiện được sự tăng trưởng của nền kinh tế nước nhà.
- Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển đó, đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn trong ngành nghề
nói chung và bản thân người kỹ sư – kiến trúc sư nói riêng. Là một người kỹ sư, tôi
quan niệm nếu kiến trúc sư được xem là linh hồn của công trình thì người kỹ sư
được ví von như thể xác chứa đựng linh hồn đó, thể xác có khỏe, có bền vững và đủ
sức sống thì mới có thể có được một linh hồn đẹp, hoàn mỹ. Người kỹ sư đứng trước
yêu cầu ngành nghề đó, dù muốn hay không, càng sớm càng tốt ngày càng phải nâng
cao chất lượng tay nghê của mình. Do đó, giải quyết được những mâu thuẫn nảy
sinh trong công tác xây dựng chính là tạo động lực cho sự phát triển trình độ tay
nghề một cách chất lượng và đúng đắn, chuẩn mực mà không làm mất đi các giá trị
sống, đạo đức nghề nghiệp theo thị trường thời bấy giờ.
3.2. Vận dụng giải quyết các mâu thuẫn trong chuyên môn
- Ngành nghề kỹ sư xây dựng là một ngành nghê đặc thù, tùy theo từng bộ phận mà
có môi trường làm việc cùng các mẫu thuẫn nảy sinh khác nhau. Bản thân tôi là một
kỹ sư, làm việc ở vị trí nhà thầu thi công gặp không ít mâu thuẫn nảy sinh trong
công việc, mà thường xuyên nhất là mẫu thuẫn giữa yếu tố chất lượng kỹ thuật công
trình và lợi ích kinh tế của chủ đầu tư.
- Trong hoạt động xây dựng, chất lượng kỹ thuật công trình chịu tác động từ nhiều
yếu tố, như năng lực của chủ đầu tư, năng lực tư vấn thiết kế và giám sát, năng lực
nhà thầu, điều kiện thi công, điều kiện khoa học kỹ thuật và công nghệ… nhưng phụ
thuộc nhất vẫn là chi phí đầu tư. Chi phí đầu tư được huy động từ nhiều nguồn vốn
khác nhau, như nguồn vốn từ Nhà nước, nước ngoài, tư nhân, các nhân, tập thể ….
với các hình thức khác nhau, rồi dùng nguồn vốn huy động đó để xây dựng công
trình. Trong quá trình xây dựng và huy động vốn, chủ đầu tư (có thể hiểu là cá nhân
hay tập thể đứng ra chịu trách nhiệm đầu tư xây dựng công trình) sẽ thu lợi nhuận
sau khi đã trừ đi chi phí thi công xây dựng và khoản huy động vốn. Giá trị tạo ra
chính là giá trị thặng dư do hoạt động tư vấn, thiết kế và xây dựng tạo nên. Chất
lượng công trình càng cao thì chi phí xây dựng càng lớn, kéo theo chi phí đầu tư lớn,
dự án sẽ gặp nhiều rủi ro và khó khăn về thu hút vốn đầu tư, dẫn đến không khả thi.

Nhưng nếu chất lượng công trình thấp, không đảm bảo cũng sẽ không thu hút được
Trang 13


Tiểu luận triết học

vốn đầu tư. Vậy làm thế nào để hạn chế chi phí xây dựng mà vẫn đảm bảo chất
lượng công trình chính là cách thức để giải quyết mâu thuẫn giữa bài toán kinh tế và
kỹ thuật công trình.
- Hạn chế chi phí xây dựng không phải là nhà thầu hoặc chủ đầu tư mua những vật tư,
thiết bị kém, hoặc bán lại thầu cho đơn vị kém ( nhưng thực tế vẫn thường xảy ra).
Bản thân tôi thấy rằng, việc làm này là vi phạm không chỉ về đạo đức nghề nghiệp
mà còn vi phạm pháp luật, để lại hệ lụy và hậu quả khó lường cho người sử dụng đối
với những công trình kém chất lượng. Hạn chế chi phí xây dựng chính là chi tiêu
hợp lý. Bằng cách nào? Bằng cách trước khi xây dựng tiến hành thẩm định tiền khả
thi dự án, khái toán vốn đầu tư để kịp lên phương án chuẩn bị nguồn vốn, nguồn lực,
nhân lực. Khi thi công quản lý chi phí, chất lượng chặt chẽ, tính toán dòng tiền hợp
lý để khi thời điểm thanh toán trùng với thời điểm giải ngân, thời điểm mua vật tư là
khi thị trường ít biến động về giá… Biện pháp thi công hợp lý cũng sẽ giảm thiểu
chi phí xây dựng công trình. Để làm được điều này cần có đội ngũ kỹ sư đủ tri thức
và kinh nghiệm mới có thể làm được. Khi đó, mâu thuẫn giữa chi phí xây dựng và
chất lượng công trình sẽ được giải quyết tốt do cùng đạt được lợi ích mà chủ đầu tư
đưa ra, đạt được bài toán kinh tế - kỹ thuật, làm cho công trình cũng như năng lực
chủ đầu tư, nhà thầu và các bên nâng cao; điều này phù hợp với quy luật khách quan
đó là “mâu thuẫn là nguồn gốc động lực của sự phát triển”
- Tuy nhiên như trên đã đề cập đến, khi giải quyết được mâu thuẫn rồi không có nghĩa
là không còn tồn tại mâu thuẫn, mà ngược lại, mâu thuẫn này mất đi, mâu thuẫn
khác xuất hiện. Đội ngũ mới sẽ có trình độ hơn, công tác tư vấn, thiết kế, thi công
tốt hơn kéo theo chi phí “chất xám” cao hơn (mặt đối lập này chuyển hóa thành mặt
đối lập kia nhưng ở mức phát triển cao hơn), đòi hỏi không chỉ cải tiến về con người

mà còn phải cải tiến về vật liệu, phương tiện thi công ( cơ giới hóa, tự động hóa theo
quy trình), tạo áp lực để cho ngành kỹ thuật xây dựng phát triển không ngừng với
những phát kiến mới, vừa đảm bảo chất lượng mà giá thành vừa phải, đáp ứng được
nhu cầu của khách hang và người đầu tư.
3.3. Kết luận
- Tóm lại, trong quá trình làm việc, không nhiều thì ít, sẽ có những lúc nảy
sinh những mâu thuẫn. Việc nắm vững lý thuyết kết hợp biện chứng các mặt đối lập
Trang 14


Tiểu luận triết học

sẽ giúp chúng ta biết được cách thức để nhìn nhận, đánh giá và giải quyết những
mâu thuẫn này một cách hợp lý nhất.

Mục lục.

Trang 15



×