Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ và các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.79 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
---------***---------

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA HOA KỲ VÀ
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU
HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƢỜNG HOA KỲ

Ngành: Kinh tế học
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 62.31.01.06

TRẦN NGUYÊN CHẤT

Hà Nội - 2017


Luận án được hoàn thành tại
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
Người hướng dẫn khoa học
GS, TS HOÀNG VĂN CHÂU

Phản biện 1: ..................................................

Phản biện 2: ..................................................

Phản biện 3: ..................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp


trường họp tại Trường Đại học Ngoại thương
Vào hồi

giờ

ngày

tháng

năm 2017

Có thể tham khảo luận án tại Thư viện Quốc gia và thư viện
Trường Đại học Ngoại thương


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Trần Nguyên Chất (2012), “Chủ nghĩa bảo hộ cấp tiến” trong
bối cảnh khủng hoảng – Bằng chứng từ biện pháp phòng vệ
thương mại của Hoa Kỳ, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, ISSN 18594050, Số 54/2012, trang 34-44
2. Trần Nguyên Chất (2016), Cơ hội và thách thức đối với hệ sinh
thái khởi nghiệp Việt Nam trong bối cảnh tăng cường hội nhập
kinh tế quốc tế, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, ISSN 1859-4050, Số
88/2016, trang 37-45
3. Trần Nguyên Chất (2017), Cơ hội và thách thức đối với hoạt
động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ
dưới ảnh hưởng của chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ,
Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, ISSN 1859-4050, Xác nhận đăng bài
(mã số bài 383)



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam.
Năm 2001, Hiệp định Thương mại song phương (BTA) Việt Nam – Hoa
Kỳ có hiệu lực đã tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam
tham gia xuất khẩu vào thị trường này và giúp xuất khẩu hàng hóa Việt
Nam sang thị trường Hoa Kỳ phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, chủ trương
bảo hộ kiểu mới của Hoa Kỳ thông qua chính sách Trumponomics với
phương châm “Nước Mỹ trên hết” (America First) đã tạo nên những xáo
trộn nhất định đối với thương mại toàn cầu, hệ thống thương mại đa biên
và đe dọa hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Để
duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường
Hoa Kỳ, việc nghiên cứu chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ là hết
sức cấp bách trong bối cảnh môi trường chính sách bất định như hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Xu hướng cắt giảm thuế quan được thể hiện rõ nét hơn trong tác
phẩm “The Regionalization of the World Economy” (Jeffrey A. Frankel,
1998). Trong Chương 8 của quyển sách với tên chương “Tariff Phaseouts: Theory and Evidence from GATT and NAFTA” của tác giả Carsten
Kowalczyk and Donald Davis đã đề cập đến cơ sở pháp lý của việc giảm
thuế quan theo GATT 1994 và cung cấp bằng chứng cắt giảm thuế quan
đáng kể thông qua xu hướng khu vực hóa ở Bắc Mỹ, cụ thể là hiệp định
Thương mại tự do Bắc Mỹ (North American Free Trade Agreement –
NAFTA, được ký kết cuối năm 1992, có hiệu lực năm 1994).
Đứng trước xu hướng cắt giảm thuế quan ngày càng sâu rộng, ngân
sách các nước có thể bị ảnh hưởng. Công trình nghiên cứu “Impact of

changes in tariffs on developing countries’ government revenue”
(Przemyslaw Kowalski, 2005) đã sử dụng cả phương pháp phân tích định


2

tính và định lượng nhằm làm rõ tác động của việc cắt giảm thuế đối với thu
nhập của chính phủ, nhất là chính phủ các nước đang phát triển.
Dù WTO đã có hẳn một hiệp định riêng về hàng rào kỹ thuật thương
mại giữa nhưng vẫn khó xác định thế nào là “vượt quá mức cần thiết”. Các
công trình nước ngoài nghiên cứu về chủ đề này khá nhiều và đa dạng,
chẳng hạn như tác phẩm “Looking beyond tariffs: The role of non-tariff
barriers in world trade” (OECD, 2005).
Tác phẩm “Politico – economic determinants of American trade
policy attitudes“ (Micheal E.S Hoffman, 2006) đã chỉ ra một số nhân tố
quan trọng có ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và ban hành các chính
sách của thị trường Hoa Kỳ, bao gồm cả nhân tố trong nước và nhân tố từ
nước ngoài. Dựa trên các chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ, rất
nhiều học giả đã có những bài viết, phân tích ở nhiều góc độ khác nhau
của chính sách thương mại quốc tế Hoa Kỳ trong đó một số tác phẩm có
mức tập trung cao vào những tình huống phát sinh gần đây. Ví dụ như tác
giả Irene Brambilla, Guido Porto and Alessandro Tarozzi (2008) đã viết tác
phẩm “Adjusting to trade policy: Evidence from US Antidumping Duties
on Vietnam Catfish“. Cùng với các vụ việc khác và sự vận động hành lang
nhằm bảo vệ quyền lợi cho chủ thể trong nước, các đạo luật nông nghiệp
Hoa Kỳ (Farm Bill) đã ra đời với các phiên bản năm 2002, 2008 và 2014
(Renee Johnson and Jim Monke, CRS 2017)
2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Về chính sách thuế quan của Việt Nam, theo “Giáo trình Kinh tế
Ngoại thương” của Trường Đại học Ngoại thương chủ biên bởi Bùi Xuân

Lưu và Nguyễn Hữu Khải (2009) . Sách chuyên khảo “Quản lý hoạt động
nhập khẩu: Cơ chế, chính sách và biện pháp” (Nguyễn Hữu Khải, 2007)
cũng đề cập chuyên sâu đến công cụ quản lý nhập khẩu bằng cả thuế quan
và phi thuế quan trong đó sách chuyên khảo “Hàng rào phi thuế quan
trong chính sách thương mại quốc tế” (Nguyễn Hữu Khải, 2005) hay sách
chuyên khảo “Rào cản trong thương mại quốc tế” (Đinh Văn Thành,


3

2005) đã phân tích chuyên về biện pháp phi thuế quan.
Một trong những tác phẩm tiêu biểu ở Việt Nam về đề tài chính sách
thương mại quốc tế của Hoa Kỳ là sách tham khảo “Tìm hiểu về Chính
sách Xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ và những biện pháp thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ sau khi Hiệp định thương
mại Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực” (Nguyễn Thị Mơ, 2002) đã cung cấp
bức tranh tổng quan về thể chế, ngoại giao, kinh tế và hệ thống pháp luật
của Hoa Kỳ cũng như chính sách xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ và nêu lên
các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường
Hoa Kỳ trong điều kiện Hiệp định thương mại song phương có hiệu lực.
2.3. Khái quát những vấn đề đã thống nhất và một số vấn đề còn
tranh luận
Những vấn đề đã thống nhất
- Thừa nhận biện pháp thuế quan là công cụ bảo hộ hợp lệ trong
thương mại quốc tế đi kèm với cam kết ràng buộc thuế quan và lộ
trình cắt giảm thuế
- Các biện pháp phi thuế quan rất đa dạng, phức tạp, chưa được quy
định chặt chẽ và chưa được nghiên cứu đầy đủ
- Chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ rất phức tạp, tinh vi và
mang đặc trưng của nền kinh tế mở quy mô lớn

Một số vấn đề còn tranh luận và khoảng trống nghiên cứu
- Các biện pháp thay thế thuế quan và chính sách thuế quan kiểu mới
- Chủ nghĩa bảo hộ cấp tiến và các biện pháp phi thuế quan tinh vi
- Xuất hiện xu hướng vận động mới trong hệ thống thương mại đa
biên
- Những điều chỉnh trong chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ
và tác động đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị
trường này


4

Trong khuôn khổ nghiên cứu còn nhiều hạn chế, Luận án sẽ tập trung
vào hai câu hỏi nghiên cứu như sau:
(i). Nội dung cơ bản trong chính sách thương mại quốc tế về hàng
hóa của Hoa Kỳ là gì?
(ii). Giải pháp gì giúp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang
thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới?
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Xây dựng các giải pháp khả thi cho Chính phủ
và doanh nghiệp Việt Nam nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam sang thị trường Hoa Kỳ và phát triển xuất khẩu bền vững ở thị trường
này trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nói trên, Luận án có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về chính sách thương mại quốc tế
nói chung và chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ nói riêng;
- Phân tích của một số chính sách thương mại quốc tế điển hình của
Hoa Kỳ có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đối với hoạt động xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ;

- Xây dựng hệ thống các giải pháp khả thi nhằm đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong bối cảnh mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chính sách thương mại quốc tế về hàng hóa
của Hoa Kỳ, tập trung vào một số chính sách nhập khẩu hàng hóa của Hoa
Kỳ có ảnh hưởng lớn đối với hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường
Hoa Kỳ.
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ và hoạt
động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường này.


5

- Về thời gian: Phân tích các chính sách thương mại quốc tế của Hoa
Kỳ kể từ khi bình thường hóa quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa
Kỳ (tập trung vào giai đoạn 1995 – 2016).
- Về nội dung: Chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ được giới
hạn chủ yếu về lĩnh vực thương mại hàng hóa và các mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ tập trung chủ yếu vào 5
mặt hàng chủ lực bao gồm điện – điện tử, điện thoại và linh kiện;
may mặc; da giày; đồ gỗ và thủy sản.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn (Desk research)
- Phương pháp tiếp cận vấn đề nghiên cứu (Research approach)
Luận án áp dụng phương pháp tiếp cận vấn đề có tính hệ thống
(Systematic approach), phương pháp tiếp cận Trước – Sau (tiếp cận chính
sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ trước và sau BTA Việt – Mỹ năm
2001, trước và sau khủng hoảng tài chính năm 2008 để thấy rõ sự thay đổi
của chính sách); kết hợp với phương pháp tiếp cận Trong – Ngoài; phương

pháp tiếp cận toàn diện và có trọng điểm; phương pháp tiếp cận đa chiều
(có đối sánh, phân tích vấn đề trong mối tương quan so sánh với các bên có
liên quan). Khi thông tin hoặc dữ liệu bị hạn chế, Luận án sẽ áp dụng
phương pháp tiếp cận ngoại suy (Abductive approach) nhằm đưa ra những
nhận định khả thi nhất trong khả năng có thể.
6. Những đóng góp của Luận án
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách thương
mại quốc tế của Hoa Kỳ trong bối cảnh tự do hóa thương mại quốc tế và
toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới để thấy rõ sự thay đổi của Hoa Kỳ trong
việc hoạch định và điều hành chính sách thương mại quốc tế dưới tác động
của nhân tố cầu chính sách trong nước;
- Làm rõ mối quan hệ giữa chính sách thương mại quốc tế về hàng hóa
của nước sở tại và hoạt động xuất khẩu của nước đối tác bao gồm phân tích


6

tác động của một số chính sách thương mại quốc tế cụ thể trong quản lý
nhập khẩu của Hoa Kỳ có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đối với hoạt động
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ nói chung và
đối với hoạt động xuất khẩu năm mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang thị
trường Hoa Kỳ là điện tử, điện thoại và linh kiện, may mặc, da giày, đồ gỗ
và thủy sản;
- Đánh giá đa chiều về thực trạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
sang thị trường Hoa Kỳ trong tương quan với tổng thể xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam và hoạt động nhập khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ và dưới ảnh
hưởng của chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ;
- Phân tích bối cảnh quốc tế và dự báo những thay đổi quan trọng
trong chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ đồng thời xác định những
cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường

Hoa Kỳ làm cơ sở quan trọng cho việc đề xuất giải pháp;
- Xây dựng hệ thống các giải pháp khả thi đối với Chính phủ và doanh
nghiệp Việt Nam nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang
thị trường Hoa Kỳ nói chung và đẩy mạnh xuất khẩu năm mặt hàng chủ
lực của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ bao gồm mặt hàng điện tử, điện
thoại và linh kiện, may mặc, da giày, đồ gỗ và thủy sản trong giai đoạn
mới.
7. Kết cấu của Luận án
Luận án được cấu thành gồm 3 chương chính:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách thương mại
quốc tế và hoạt động xuất khẩu hàng hóa
- Chương 2: Chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ và ảnh hưởng
đối với hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường
Hoa Kỳ;
- Chương 3: Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong giai đoạn mới.


7

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH
SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
HÀNG HÓA
1.1. Chính sách thƣơng mại quốc tế
Theo WTO, chính sách thương mại là bất cứ hành động nào (any
action) của Chính phủ hoặc một cơ quan công quyền làm ảnh hưởng một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động thương mại.
Ở Việt Nam, đa số các khái niệm đều ủng hộ cách hiểu chính sách
thương mại dựa trên văn bản, tức là luật thành văn. Điều này khác hẳn so
với khái niệm về chính sách thương mại của Hoa Kỳ nơi chính sách bao

gồm cả những hình thức không phải văn bản pháp luật được ban hành bởi
chính phủ như án lệ hay các tuyên bố của người có thẩm quyền.
Hình 1.1. Các nhân tố ảnh hƣởng chính sách thƣơng mại quốc tế
Sự lựa chọn ưu
tiên của người dân

Các nhóm lợi ích
(Interest groups)

(Individual
preferences)

Bên cầu
(Demand side)

Chính sách
thƣơng mại

Sự lựa chọn ưu
tiên của nhà hoạch
định chính sách

Cấu trúc thể chế
chính phủ

(Policy-maker
preferences)

structure of
government)


(Institutional

Bên cung
(Supply side)

Nguồn: Dani Rodkic, 1995


8

Mô hình nhân tố cung – cầu về chính sách thương mại cho thấy
chính sách ra đời không phải chỉ phục vụ cho ý chí của Nhà nước, mà còn
nhằm đáp ứng mong muốn của người dân. Bên cầu chính sách bao gồm hai
nhóm nhân tố quan trọng là sự lựa chọn ưu tiên của người dân (individual
preferences) và các nhóm lợi ích (interest groups), còn bên cung chính sách
bao gồm hai nhóm nhân tố chính là sự lựa chọn ưu tiên của nhà hoạch định
chính sách (policy-maker preferences) và thể chế chính phủ (institutional
structure of government) (Dani Rodkic, 1995).
1.2. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa
Về cơ bản, xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước
ngoài. Đối với các nước đang và chậm phát triển, xuất khẩu nói chung và
đặc biệt là xuất khẩu hàng hóa nói riêng trở thành động lực của tăng trưởng
kinh tế. Sự lựa chọn tùy thuộc vào mỗi quốc gia nhưng phổ biến nhất là
cách quốc gia tập trung vào một số mặt hàng chủ lực mà quốc gia đó có lợi
thế cạnh tranh. “Hàng chủ lực là những hàng hóa có điều kiện sản xuất
trong nước tương đối thuận lợi hơn những hàng hóa khác; có thị trường
trường tiêu thụ tương đối ổn định, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của một quốc gia.” (Bùi Xuân Lưu và Nguyễn Hữu
Khải, 2009).

1.3. Mối quan hệ giữa chính sách thƣơng mại quốc tế và hoạt
động xuất khẩu hàng hóa
Chính sách thương mại quốc tế của một quốc gia bao gồm cả chính
sách về lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và lĩnh vực
khác (về sở hữu trí tuệ). Do giới hạn phạm vi nghiên cứu, Luận án chỉ tập
trung phân tích chính sách thương mại quốc tế về hàng hóa của nước chủ
nhà đối với hoạt động xuất khẩu hàng hóa của nước đối tác. Xét một cách
tổng thể, chính sách thương mại quốc tế về hàng hóa của nước chủ nhà có
mối quan hệ mật thiết với sự phát triển xuất khẩu hàng hóa của nước đối
tác vào thị trường nước họ được thể hiện thông qua tác động qua lại lẫn
nhau.


9

Chƣơng 2: CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA HOA KỲ
VÀ ẢNH HƢỞNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG
HÓA CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƢỜNG HOA KỲ
2.1.

Chính sách thƣơng mại quốc tế của Hoa Kỳ kể từ khi bình
thƣờng hóa quan hệ thƣơng mại Việt Nam – Hoa Kỳ

2.1.1. Đặc trưng chung
Hoa Kỳ là nền kinh tế số 1 của thế giới với GDP năm 2016 là 18,56
ngàn tỷ USD và là thị trường mở có sức mua cao với quy mô dân số hơn
324 triệu người, thu nhập bình quân đầu người đạt 57,28 ngàn
USD/người/năm (CIA 2017) và kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2016
đạt 2,2 ngàn tỷ USD, là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới với thị phần
xấp xỉ 14% (ITC 2017).

Hoa Kỳ là một nước cộng hoà liên bang thực hiện chế độ chính trị
tam quyền phân lập. Hiến pháp Hoa Kỳ qui định quyền lập pháp thuộc về
Quốc hội, quyền hành pháp thuộc về Tổng thống và quyền tư pháp thuộc
về Toà án tối cao. Tuy nhiên, các bên vẫn có quyền kiểm soát chéo lẫn
nhau nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực.
2.1.2. Chính sách thuế quan
Mức thuế suất chung (General cột 1): còn gọi là mức thuế dành cho
hàng hóa xuất xứ từ các nước có quan hệ thương mại bình thường (NTR)
với Hoa Kỳ. Mức thuế này nằm trong phạm vi từ dưới 1% đến gần 40%,
trong đó hầu hết các mặt hàng chịu mức thuế từ 2% đến 7%. Mức thuế
MFN theo giá trị nói chung bình quân khoảng 3,2%.
Mức thuế cột 2 (Non-NTR) được áp dụng đối với hàng hóa có xuất
xứ từ những nước không được hưởng NTR với thuế suất khoảng từ 20%
đến 110%, cao hơn nhiều lần so với thuế suất NTR.
Mức thuế đặc biệt (Special cột 1): được áp dụng cho hàng hóa có
xuất xứ từ những nước hoặc vùng lãnh thổ được hưởng chương trình thuế
quan đặc biệt của Hoa Kỳ, bao gồm FTA, GSP và chương trình khác.


10

Hình 2.2. Biểu thuế nhập khẩu của Hoa Kỳ (2017)

Nguồn: USITC (2017)
2.1.3.

Chính sách phi thuế quan

 Các quy định pháp luật về bồi thƣờng thƣơng mại (Trade
Remedies)

Theo báo cáo rà soát chính sách thương mại định kỳ (trade policy
review) của WTO, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục áp dụng công cụ bồi thường
thương mại như là một phần quan trọng trong chính sách thương mại của
nước này. Năm 2008 – 2009 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế nên số lệnh đánh thuế chống bán phá giá là 246 trường
hợp và số vụ chống trợ cấp tăng từ 31 lúc đầu kì lên 41 vào cuối kì. Sau
giai đoạn tạm lắng các vụ kiện mới từ năm 2010 thì đến năm 2013 lại nổi
lên các vụ quan trọng liên quan đến sản phẩm thép. Báo cáo rà soát chính
sách thương mại Hoa Kỳ năm 2016 lại chứng kiến con số tăng vọt về các
vụ khởi kiện (85 vụ chống bán phá giá và 60 vụ chống trợ cấp) trong kì
nghiên cứu.
Ngoài ra, theo quy định của WTO về Rà soát định kỳ 5 năm (Fiveyear review) hay còn gọi là điều khoản Hoàng hôn (Sunset clause), trong


11

giai đoạn 1998 – 2008 có tổng cộng 705 vụ rà soát trong đó 53,2% số vụ
có kết quả tiếp tục đánh thuế (số vụ còn lại được bãi bỏ hoặc có kết luận là
không tái phạm). Đáng lưu ý là những vụ được bãi bỏ thường được khởi
kiện từ trước năm 1995 và có kim ngạch nhập khẩu tương đối nhỏ.
 Đạo luật Nông nghiệp (Farm Bill) và Luật Thực hiện các Hiệp
định Vòng đàm phán Urugoay
Mục 401 của Luật thực các Hiệp định Vòng đàm phán Urugoay đã
sửa đổi Mục 22 Luật Điều chỉnh Nông nghiệp năm 1933 nhằm cấm các
hình thức hạn chế số lượng hoặc lệ phí đối với việc nhập khẩu các sản
phẩm nông nghiệp từ các thành viên của WTO. Từ khi thỏa thuận thành
lập WTO có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 1995 tới nay, chỉ có lúa mì được
loại trừ khỏi lệnh cấm này. Tuy nhiên, quyền hạn chế nhập khẩu theo Mục
22 này vẫn tiếp tục được áp dụng với các nước không là thành viên WTO.
 Hạn chế nhập khẩu theo các luật môi trƣờng

Dưới đây là qui định của một số luật chủ yếu của Hoa Kỳ có sử dụng
những biện pháp hạn chế nhập khẩu để ép các chính phủ nước ngoài áp
dụng những thông lệ bảo vệ cá heo, hải sản, chim rừng, và các loài động
vật khác có nguy cơ bị diệt chủng.
 Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm và an toàn đối với tiêu
dùng
Theo thông luật bảo vệ người tiêu dùng (Common Law Consumer
Protection) hay còn gọi là Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm (Products
Liability Law), cơ quan luật pháp Hoa Kỳ yêu cầu các nhà sản xuất, phân
phối và bán lẻ phải có trách nhiệm đối với thương tật và thiệt hại do những
khuyết tật của sản phẩm gây ra cho người sử dụng hoặc những người ở gần
sản phẩm đó. Trách nhiệm sản phẩm thường dựa trên các nguyên tắc pháp
lý về sự bất cẩn, vi phạm bảo hành hoặc trách nhiệm tuyệt đối.
Luật An toàn Sản phẩm Tiêu dùng (Consumer Product Safety Act)
CPSC được phép đề ra các tiêu chuẩn an toàn sản phẩm liên quan


12

đến sự vận hành, thành phần, nội dung, thiết kế, sản xuất, hoàn tất, đóng
gói và dán nhãn. Nguyên tắc chung là nhà sản xuất sản phẩm tiêu dùng là
đối tượng của quy định này phải phát hành giấy chứng nhận khảng định
hàng phù hợp với các tiêu chuẩn qui định và phải dán nhãn trên sản phẩm
ghi rõ ngày và nơi sản xuất sản phẩm, tên và địa chỉ của nhà sản xuất,
chứng nhận tuân thủ các luật lệ áp dụng và mô tả ngắn gọn các luật lệ đó.
2.2.
Kỳ

Thực trạng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trƣờng Hoa
2.2.1. Giai đoạn trước BTA Việt – Mỹ


Kể từ năm 1994, sau khi lệnh cấm vận được dỡ bỏ, Việt Nam bắt
đầu xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này và hoạt động thương mại song
phương đã bắt đầu có những bước phát triển mạnh mẽ và liên tục cả về mặt
quy mô và tốc độ tăng trưởng. Việt Nam liên tục tăng xuất khẩu sang Hoa
Kỳ từ con số 0 của năm 1994 lên mức vượt 1 tỷ USD vào năm 2001. Về
cán cân thương mại song phương, nền kinh tế Việt Nam khai thác tốt thị
trường tiêu thụ của Hoa Kỳ.
Giai đoạn sau BTA Việt – Mỹ
Giai đoạn 2001 – 2016, xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị
trường Hoa Kỳ tăng 31,14%/năm, đưa kim ngạch cuối kỳ lên 43,77 tỷ
USD. Kim ngạch xuất khẩu từng năm đều có mức tăng trưởng dương ngoại
trừ năm 2009 do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế ở thị trường Hoa Kỳ. Nếu xét ở mức độ xuất siêu của Việt
Nam sang thị trường Hoa Kỳ so với kim ngạch xuất khẩu thì quả thật đáng
quan ngại nhưng khi nhìn ở bức tranh tổng thể lớn hơn thì Việt Nam chỉ
chiếm một thị phần khiêm tốn chưa đến 2% so với tổng kim ngạch nhập
khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ (1,94%, năm 2016). Ở chiều ngược lại, thị
trường Hoa Kỳ chiếm đến gần ¼ tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam.
Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã có sự chuyển biến


13

rõ rệt trong giai đoạn 2001 – 2016. Trong số 10 mã hàng có kim ngạch
xuất khẩu lớn sang Hoa Kỳ xuất hiện một mã hàng khá mới và nhanh
chóng chiếm được tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Đó là mã hàng 85 bao gồm chủ yếu các sản phẩm điện thoại, điện tử và
linh kiện. Tiếp đến là ngành hàng may mặc (mã hàng là 61 và 62), ngành

hàng giày dép của Việt Nam (mã 64), đồ gỗ, nội thất và sản phẩm gỗ (mã
94), ngành thủy sản (mã 03).
Các chỉ số thương mại hai nước khá tốt cho Việt Nam: hệ số PCA
của Việt Nam với Hoa Kỳ hiện nằm trong khoảng 4 – 4,5 tức là mối quan
hệ có lợi thế đối tác lớn; Chỉ số cường độ thương mại (TI) lớn hơn 1; Chỉ
số tiềm năng thương mại (PT) cho thấy khoảng trống của thị trường nước
nhập khẩu mà một nước xuất khẩu có thể khai thác; Chỉ số bổ trợ thương
mại (TC) giữa Việt Nam với Hoa Kỳ trong 05 năm qua luôn ở mức có lợi.
2.3. Ảnh hƣởng của chính sách thƣơng mại quốc tế về hàng hóa của
Hoa Kỳ đối với hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị
trƣờng Hoa Kỳ
2.3.1. Một số thay đổi quan trọng trong chính sách thương mại
của Hoa Kỳ đối với Việt Nam qua các thời kỳ Tổng thống
Chính sách bình thường hóa quan hệ - di sản thời cựu Tổng thống
Bill Clinton (1993 – 2000)
Trong quan hệ thương mại với Việt Nam, nhờ vào chính sách bình
thường hóa quan hệ, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thiết lập, tích cực duy trì và
phát triển mạnh mẽ quan hệ về mọi mặt từ năm 1995 đến nay. Đây là
những tín hiệu khả quan và tạo đà cho những chuyển biến quan trọng về
mặt chính sách sau này.
-

Hiệp định BTA Việt Nam – Hoa Kỳ và thỏa thuận kết thúc đàm
phán song phương về gia nhập WTO – di sản chính sách thời cựu
Tổng thống George W. Bush (2001 – 2008)
Về chính sách thương mại, cựu Tổng thống Bush theo trường phái
thúc đẩy thương mại tự do của Đảng Cộng hòa. BTA được thông qua là
-



14

hành lang pháp lý quan trọng mà hai nước đã ký kết tạo điều kiện cho
thương mại song phương phát triển, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Với mức thuế nhập khẩu
chuyển từ cột Non-NTR rất cao sang cột thuế NTR đã giúp hàng hóa Việt
Nam tiếp cận được với thị trường Hoa Kỳ trong giai đoạn đầu thế kỷ XXI,
mở ra một thời kì vàng về tăng trưởng xuất khẩu. Tiếp sau đó, với việc ký
thỏa thuận kết thúc đàm phán song phương về việc Việt Nam gia nhập
WTO, Hoa Kỳ đã trao quy chế PNTR cho Việt Nam.
Quan hệ đối tác chiến lược trong chính sách “Xoay trục về Châu Á”
– di sản chính sách của cựu Tổng thống Barack Obama (2009 –
2016)
Nhằm tạo khuôn khổ định hình hệ thống thương mại đa biên cho thế
giới vào thế kỉ XXI, cựu Tổng thống Barack Obama đã phát triển một hiệp
định FTA kiểu mới với tên gọi TPP mà Việt Nam là một thành viên. Điều
đáng tiếc hơn là Tổng thống kế nhiệm đã phủ định hai di sản rất quan trọng
mang dấu ấn Obama.
-

2.3.2. Ảnh hưởng tích cực
Ngoài sự tăng trưởng mạnh mẽ về quy mô, tốc độ tăng trưởng, sự
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu cùng những chỉ tiêu đánh giá khác, phát triển
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam dưới tác động của chính sách thương
mại thuận lợi của Hoa Kỳ còn được xem xét tác động chuyển hướng
thương mại (trade diversion) và tác động tạo lập thương mại (trade
creation). Hai tác động này thông thường diễn ra cùng nhau dù mức độ,
tầm quan trọng của mỗi tác động sẽ thể hiện khác nhau.
Tác động chuyển hướng thương mại thường diễn ra mạnh mẽ trong
giai đoạn đầu mà một chính sách thương mại thuận lợi vừa có hiệu lực.

BTA Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực vào năm 2001 đã tạo ra hiện tượng
chuyển hướng thương mại trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam sang thị trường Hoa Kỳ giai đoạn 2001 – 2003 nhằm tận dụng các ưu
đãi thuế quan từ quy chế NTR và các biện pháp phi thuế quan khác được
dỡ bỏ. Nhờ có BTA, mức thuế quan mà hàng Việt Nam được hưởng khi


15

tiếp cận thị trường Hoa Kỳ giảm đáng kể từ mức thuế thông thường (nonNTR) ở mức hai chữ số xuống còn khoảng 3,5% thuế suất NTR trung bình
năm 2001. Các biện pháp hạn chế nhập khẩu định lượng và các quy định
về kiểm soát tại biên giới cũng được dỡ bỏ với hàng hóa của Việt Nam. Do
đó, Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với tỷ
trọng lên đến gần ¼ tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào
năm 2003.
Tác động chuyển hướng thương mại còn được giải thích cụ thể thông
qua tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, chỉ số lợi thế thương mại đối tác và chỉ
số cường độ thương mại ở mức cao. Sau thời kỳ vàng của BTA, thị trường
Hoa Kỳ vẫn tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vẫn cao và là thị
trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, tức là có tác động tạo lập thương
mại thực sự. Hơn nữa, giai đoạn này bắt đầu phát sinh một số vụ kiện
thương mại đối với hàng hóa Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ đã làm giảm
nhiệt của sự chuyển hướng thương mại.
Về tác động tạo lập thương mại, sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu đi
kèm với sự phát triển những mặt hàng xuất khẩu mới cho thấy chính sách
thương mại thuận lợi giữa hai nước đã thật sự kiến thiết được dòng chảy
thương mại song phương trong đó Việt Nam là nước đang phát triển và có
chỉ số bổ trợ thương mại tốt cho thị trường Hoa Kỳ nên phát triển xuất
khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng mạnh hơn so với chiều thương mại
ngược lại. Hoa Kỳ dù đã mở cửa thị trường cho hàng hóa Việt Nam thông

qua việc cấp quy chế NTR năm 2001 và quy chế PNTR năm 2006 nhưng
một số quy định quản lý nhập khẩu của Hoa Kỳ vẫn ở mức cao so với trình
độ sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam.
2.3.3. Ảnh hưởng tiêu cực
Dù quan hệ giữa hai nước đã được cải thiện và nồng ấm hơn rất
nhiều nhưng các chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ đối với Việt
Nam không phải lúc nào cũng thuận lợi.
Mức thuế quan thực sự (applied tariff rate) khá cao
Theo báo cáo rà soát chính sách thương mại định kì trong khuôn


16

khổ WTO (Trade Policy Review – TPR), mức thuế quan thực sự của Hoa
Kỳ giai đoạn 2010 – 2016 là 4,8% so với mức thuế quan danh nghĩa NTR
là 3,2 – 3,5% (WTO 2010 và 2016C). Trong khi đó, các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam còn có thuế quan thực sự cao hơn ở mức thuế
bình quân hai chữ số như ngành hàng may mặc (11-13%) và da giày (12%)
và hai ngành này chiếm gần 40% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt
Nam sang Hoa Kỳ.
Các rào cản phi thuế quan đa dạng và ngày càng nhiều
Mặc dù được xem là nền kinh tế đầu tàu của thế giới và thúc đẩy xu
hướng mở cửa, tự do hóa thương mại và đầu tư nhưng Hoa Kỳ vẫn xây
dựng một hàng rào bảo hộ nền sản xuất nội địa. Các báo cáo rà soát chính
sách thương mại Hoa Kỳ (định kỳ 2 năm/lần) đã cho thấy số liệu thống kê
gia tăng về việc áp dụng ngày càng gia tăng các biện pháp bảo vệ thương
mại tạm thời, các vụ việc khiếu nại về các rào cản kỹ thuật có tác động hạn
chế định lượng và các vụ việc liên quan đến sở hữu trí tuệ. Trung bình mỗi
năm Hoa Kỳ có thêm 30 phán quyết đánh thuế chống bán phá giá và/hoặc
thuế chống trợ cấp trong khi hàng trăm phán quyết đánh thuế trước đó vẫn

duy trì hiệu lực thông qua cac đợt rà soát 5 năm/lần của điều khoản Hoàng
hôn (Sunset Clause). Ví dụ: Việt Nam bị đánh thuế chống bán phá giá đối
với mặt hàng phi lê cá basa đông lạnh từ năm 2002 đến nay vẫn còn tiếp
diễn. Đạo luật Nông nghiệp sửa đổi cũng là nội dung phát sinh tranh cãi,
khiếu nại giữa Hoa Kỳ với các nước đối tác.
Ngoài ra, mỗi ngành hàng phải đối mặt với những khó khăn đặc thù
từ những chính sách phi thuế quan đa dạng và phức tạp của Hoa Kỳ. Ví dụ
ngành hàng may mặc, da giày vấp phải những quy định ngày càng cao về
chất lượng, an toàn sản phẩm. Kể từ ngày 1/1/2007 Hoa Kỳ chính thức dỡ
bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng dệt may Việt Nam thì ngay lập tức
sau đó chính phủ Hoa Kỳ lại áp dụng “cơ chế giám sát” đối với hàng may
mặc Việt Nam như là một điều kiện để Việt Nam được hưởng PNTR. Sang
năm 2009, khi mà cơ chế giám sát hàng may mặc Việt Nam của Hoa Kỳ
chấm dứt thì ngày 15/08/2009, Quốc hội Hoa Kỳ chính thức thông qua đạo


17

luật về cải tiến an toàn sản phẩm tiêu dùng (Consumer Product Safety
Improvement Act -CPSIA) và có hiệu lực đối với dệt may từ ngày
10/02/2010. Theo đạo luật này các lô hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ
phải có giấy kiểm nghiệm của bên thứ ba xác nhận sản phẩm sử dụng
nguyên liệu đảm bảo cho sức khỏe người tiêu dùng. Nhà sản xuất sẽ phải
chịu trách nhiệm về bất kỳ thiệt hại nào gây ra cho người tiêu dùng.
Ngành hàng đồ gỗ và thủy sản đều có đặc điểm liên quan đến lĩnh
vực nông – lâm – ngư nghiệp nên một số đạo luật trong lĩnh vực này sẽ ảnh
hưởng đến cả 2 ngành hàng, chứ không phải chỉ từng ngành riêng biệt.
Luật Lacey của Hoa Kỳ có hiệu lực từ 1/4/2010. Theo Lacey, khi xuất
khẩu các sản phẩm từ gỗ vào Hoa Kỳ, doanh nghiệp phải khai báo rõ ràng
nguồn gốc gỗ khai thác để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Ngoài ra doanh

nghiệp phải cung cấp những thông tin chi tiết, trung thực về sản phẩm gỗ
xuất khẩu cụ thể như hóa chất, hóa chất sử dụng trong các loại vải sử dụng
trong đồ gỗ... theo một bản khai do phía Hoa Kỳ cung cấp và sẽ bị xử phạt
nặng nếu phát hiện gian dối. Căn cứ đạo luật này, hành động lấy gỗ, khai
thác, sở hữu, vận chuyển, bán hoặc xuất khẩu không tuân thủ quy định của
luật pháp ở bất cứ quốc gia nào cũng được xem là vi phạm tại Hoa Kỳ.
Chứng nhận FSC (chương trình toàn cầu kiểm định chuỗi hành trình sản
phẩm từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm)
Đạo luật Farm Bill 2008 được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua ngày
18/6/2008 với 15 Chương và 600 mục, trong đó có 2 mục có khả năng tác
động nhiều nhất đến thương mại với Việt Nam: Mục 8204- ngăn ngừa các
hoạt động đốn gỗ bất hợp pháp và mục 3301- gỗ xẻ từ cây lá kim (gỗ xẻ
mềm). Đối với gỗ, sản phẩm gỗ và các sản phẩm có liên quan đến “thực
vật”, Farm Bill 2008 đặt ra các quy định ngăn ngừa hoạt động đốn gỗ bất
hợp pháp. Cụ thể, mục 8204 quy định trong thương mại giữa các bang và
với nước ngoài, cấm mọi hoạt động xuất nhập khẩu, vận chuyển, mua bán
bất kỳ thực vật nào được đốn hạ, thu hoạch, sở hữu, vận chuyển, hoặc mua
bán trái với bất kỳ luật hoặc quy định của bất kỳ bang nào hoặc bất kỳ luật
pháp nước ngoài nào về bảo vệ, quản lý thực vật hoặc về các loại thuế và


18

phí liên quan đến việc khai thác thực vật.
Nguy cơ bị kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp ngày càng tăng
Mặc dù mới chỉ có ngành thủy sản thiệt hại đáng kể từ các vụ kiện
chống bán phá giá ở thị trường Hoa Kỳ, nhưng với tốc độ tăng trưởng như
hiện tại, ngành đồ gỗ Việt Nam có nguy cơ phản đối mặt với các vụ kiện
chống bán phá giá của Hoa Kỳ. Nguyên nhân chủ yếu là:
Thứ nhất, kim ngạch về đồ gỗ của chúng ta đang ở tốc độ phát triển

cao và xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam vào Hoa Kỳ luôn có tốc độ tăng
trưởng “nóng” như đã nói ở trên nên phía Hoa Kỳ có thể dựa vào để thêm
những lý do áp mức thuế chống bán phá giá với mặt hàng này.
Thứ hai, các nhà sản xuất đồ gỗ từ Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc
vẫn tiếp tục xu hướng chuyển dịch về Việt Nam nhằm nâng cao sức cạnh
tranh do Việt Nam có nhiều lợi thế như giá nhân công thấp, chính trị ổn
định và thuế xuất nhập khẩu đồ gỗ của ta vào Hoa Kỳ còn thấp. Điều này
đã làm kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam tiếp tục tăng cao, gây lo
ngại về hiện tượng lẩn tránh thuế hoặc chệch hướng thương mại đối với
các nhà làm luật Hoa Kỳ.
Thứ ba, chủ trương của chính phủ mới của Tổng thống Trump thể
hiện quan điểm ủng hộ các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời để bảo
hộ cho ngành sản xuất trong nước. Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm
thời bao gồm biện pháp áp thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và
thuế tự vệ sẽ được tăng cường áp dụng với những nước đối tác mà Hoa Kỳ
có thâm hụt cao trong đó có Việt Nam. Khác với ngành may mặc và da
giày nơi ngành sản xuất trong nước chiếm thị phần quá nhỏ nên không thể
khởi kiện, ngành đồ gỗ và ngành thủy sản lại có nguy cơ bị kiện cao. Minh
chứng thời gian qua cho thấy ngành thủy sản bị kiện và liên tục vấp phải
các vấn đề pháp lý không mong muốn. Mới đây, tháng 1/2017, Hoa Kỳ ra
phán quyết sơ bộ đánh thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với gỗ
mềm của Canada và gây lo ngại cho ngành hàng đồ gỗ nói chung (USITC
2017).


19

Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG
HÓA CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƢỜNG HOA KỲ
3.1.


Triển vọng phát triển quan hệ thƣơng mại hàng hóa giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ

3.1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới
- Cách mạng công nghiệp 4.0
- Kinh tế thế giới phục hồi và tăng trưởng nhẹ trong bối cảnh nhiều
bất ổn
- Xu hướng bảo hộ thương mại đang gia tăng trong thời gian gần
đây và có xu hướng tiếp diễn trong thời gian tới
3.1.2. Dự báo những thay đổi trong chính sách thương mại Hoa Kỳ và
tác động đối với Việt Nam
Tổng thống mới đắc cử của Hoa Kỳ Donald Trump có rất nhiều
chính sách mới so với cựu Tổng thống Obama. Với phương châm “Nước
Mỹ trên hết” (America First), những chính sách Trumponomics của tân
Tổng thống Donald Trump gây khá nhiều tranh cãi, phản ứng nhiều chiều
của dư luận trong và ngoài nước cũng như gây xáo trộn không nhỏ trên
bình diện quốc tế, trong đó bao gồm: Chính sách chống toàn cầu hóa, bảo
hộ thương mại và chủ trương đàm phán lại các hiệp định đã kí; Chính sách
cải cách thuế và thuế biên giới.
3.1.3. Định hướng phát triển xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ
Về phát triển xuất nhập khẩu, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
đến năm 2020 tăng gấp trên 3 lần năm 2010, bình quân đầu người đạt trên
2.000 USD, cán cân thương mại được cân bằng. Tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu hàng hóa bình quân 11-12%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020 trong đó
giai đoạn 2011 – 2015 tăng trưởng bình quân 12%/năm, giai đoạn 2016 –
2020 tăng trưởng bình quân 11%/năm. Duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng
10%/năm thời kỳ 2020 – 2030. Định hướng cơ cấu thị trường đến năm
2020: Châu Á chiếm tỷ trọng khoảng 46%, Châu Âu khoảng 20%, Châu



20

Mỹ khoảng 25%, Châu Đại Dương khoảng 4% và Châu Phi khoảng 5%
(Thủ tướng Chính phủ 2011).
“Đề án phát triển các thị trường khu vực thời kỳ 2015 – 2020, tầm
nhìn đến năm 2030” (Thủ tướng Chính phủ 2015) xác định: Đẩy mạnh và
đa dạng hóa thị trường xuất khẩu của Việt Nam; Phát triển thị trường xuất
khẩu theo hướng tăng trưởng bền vững, phù hợp với đặc điểm của từng thị
trường khu vực, đảm bảo vừa mở rộng quy mô sản xuất vừa chú trọng
nâng cao giá trị gia tăng xuất khẩu; định hướng và đẩy mạnh xuất khẩu đối
với thị trường Hoa Kỳ và Canada (thị trường Bắc Mỹ), Đề án đặt ra các
mục tiêu cụ thể bao gồm: kim ngạch xuất khẩu đạt 70 tỷ USD vào năm
2020, tăng trưởng xuất khẩu trung bình 15% giai đoạn 2015 – 2020 và từ
12 – 15% giai đoạn 2020 – 2030 (Thủ tướng Chính phủ 2015).
3.1.4. Cơ hội đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ
-

Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ có dung lượng thị trường lớn hàng đầu
của thế giới và chỉ số tiềm năng thương mại rất cao đối với hàng Việt
Nam

-

Tính chất bổ sung của hai nền kinh tế

-

Nguồn cung thay thế tiềm năng cho thị trường Hoa Kỳ


-

Quan hệ ngoại giao ngày càng tốt đẹp thúc đẩy giao thương giữa hai
nước

3.1.5. Thách thức đối với hoạt động xuất khẩu Việt Nam sang Hoa Kỳ
-

Chính sách Trumponomics và những thay đổi chính sách thương mại
quốc tế của Hoa Kỳ tạo rào cản đối với hàng hóa Việt Nam sang thị
trường này

-

Hàng rào kỹ thuật gia tăng thông qua các tiêu chuẩn kỹ thuật và yêu
cầu chất lượng khắt khe từ phía Hoa Kỳ

-

Các điều luật về bồi thường thương mại của Hoa Kỳ vẫn tiếp tục gây
bất lợi cho hàng hóa Việt Nam


21

-

Sức ép cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ và sự thiếu hụt thông tin
của doanh nghiệp Việt Nam


3.2.

Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam
sang thị trƣờng Hoa Kỳ

3.2.1. Các giải pháp đối với Chính phủ nhằm đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ


Đàm phán hiệp định FTA song phương với Hoa Kỳ

(i) Kịch bản kỳ vọng TPP+ (một hiệp định tự do hóa thương mại
toàn diện trên các lĩnh vực)
Kịch bản TPP+ thực chất là đàm phán song phương với việc giữ lại
các quy định, yêu cầu, tiêu chuẩn như trong TPP hiện nay, có thể điều
chỉnh theo yêu cầu phía Hoa Kỳ và kết quả đàm phán.
(ii) Kịch bản BTA+ (một hiệp định FTA phổ thông)
Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký BTA từ năm 2000 và đây là hiệp định
quan trọng điều tiết các vấn đề thương mại giữa hai nước với nhau. Ngoài
ra, còn có các thỏa thuận như việc gia nhập WTO của Việt Nam và cấp
PNTR cho Việt Nam năm 2006, hiệp định khung về thương mại và đầu tư
(TIFA) năm 2006. Tuy nhiên, mức độ mở cửa thương mại trong các hiệp
định kể trên chưa phải là mức FTA.

Hỗ trợ hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam
tại thị trường Hoa Kỳ
Giải pháp hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu
hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ bao gồm các nội dung về công tác thị
trường, tư vấn kinh doanh và tham vấn chính sách với doanh nghiệp, xúc
tiến thương mại và tập huấn cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt

động của các đại diện thương mại, tham tán thương mại ở Hoa Kỳ trong hỗ
trợ doanh nghiệp.


Thực hiện cơ chế giám sát hoạt động xuất khẩu hàng hóa


22

Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ
Cơ chế giám sát xuất khẩu là một biện pháp kiểm soát tự
nguyện các hoạt động xuất khẩu được thực hiện bởi Chính phủ nước xuất
khẩu nhằm thực hiện phân tích kinh tế, giám sát hoạt động của các nhà sản
xuất nội địa, các doanh nghiệp xuất khẩu, một mạng lưới quan hệ với các
công ty vận động hành lang và các công ty luật ở nước ngoài, theo dõi thông
tin báo chí, sự thay đổi chính sách của thị trường Hoa Kỳ và đưa ra các báo
cáo định kỳ đối với hoạt động xuất khẩu nói chung cũng như tham vấn
chính sách với ngành hàng hoặc doanh nghiệp cụ thể theo từng vụ việc
phát sinh.
3.2.2. Các giải pháp đối với doanh nghiệp nhằm đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ
Tăng cường nắm bắt thông tin thị trường, các quy định, chính sách
mới của thị trường Hoa Kỳ;
Liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp khác và các bên có liên quan;
Một số giải pháp đặc thù đối với từng ngành hàng xuất khẩu chủ lực.
3.3. Kiến nghị với Nhà nƣớc và Hiệp hội
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước
Đẩy nhanh quá trình được công nhận là nền kinh tế thị trường;
Ký các hiệp định công nhận kết quả kiểm tra, giám định lẫn nhau;
Cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư, tích cực thu hút FDI.

3.3.2. Kiến nghị đối với Hiệp hội ngành hàng
Cung cấp thông tin;
Thành lập các đại diện của Hiệp hội ngành hàng ở Hoa Kỳ;
Đào tạo, tổ chức các hội thảo chuyên đề về ngành và xây dựng các
phương án hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sang Hoa Kỳ;
Chia sẻ rủi ro, sẵn sàng cùng doanh nghiệp khởi kiện và kháng kiện.


×