Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO một số điểm GIỐNG NHAU và KHÁC NHAU về hệ THỐNG HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM và LUẬT HÌNH sự TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.19 KB, 7 trang )

MỘT SỐ ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU VỀ
HỆ THỐNG HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ
LUẬT HÌNH SỰ TRUNG QUỐC
1.Những điểm giống nhau về hệ thống hình phạt trong Bộ luật Hình sự Việt
Nam và Bộ luật Hình sự Trung Quốc
Nghiên cứu Bộ luật Hình sự Việt Nam (BLHSVN) và Bộ luật Hình sự Trung
Quốc (BLHSTQ), có một số điểm giống nhau cơ bản sau đây:
- Hệ thống hình phạt và các hình phạt cụ thể được qui định tại một chương
riêng của BLHS (Chương V, BLHSVN; Chương III BLHSTQ);
- Hệ thống hình phạt được cấu thành bởi các hình phạt chính và các hình phạt
bổ sung;
- Các hình phạt chính được sắp xếp theo trật tự tăng dần về tính nghiêm khắc,
trong đó hình phạt tử hình là nghiêm khắc nhất;
- Nội dung, phạm vi (đối tượng) và điều kiện áp dụng các hình thức phạt (dù là
hình phạt chính hay hình phạt bổ sung) đều được qui định cụ thể trong các điều luật
riêng;
- Quy định hình phạt trục xuất có thể được áp dụng là hình phạt chính hay hình
phạt bổ sung đối với người nước ngoài phạm tội;
- Có 7 loại hình phạt được quy định trong cả hai BLHS, đó là: Quản chế, phạt tiền,
trục xuất, tịch thu tài sản, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình.
2. Những điểm khác nhau về hệ thống hình phạt trong Bộ luật Hình sự Việt
Nam và Bộ luật Hình sự Trung Quốc
- Thứ nhất, trước khi quy định hệ thống hình phạt cụ thể, BLHS Việt Nam có
hai điều luật quy định khái niệm hình phạt và mục đích của hình phạt. Đó là Điều 26Khái niệm hình phạt và Điều 27- Mục đích của hình phạt. Trong BLHSTQ không có
các điều luật tương tự này;
- Thứ hai, về số lượng các hình phạt, BLHS Việt Nam quy định 12 loại hình
phạt, trong đó có 5 hình phạt là hình phạt chính, 5 hình phạt là hình phạt bổ sung và 2
hình phạt có thể là hình phạt chính, có thể là hình phạt bổ sung.
Trong khi đó, BLHS Trung Quốc chỉ quy định 9 loại hình phạt, trong đó có 5
hình phạt chính, 3 hình phạt bổ sung và 1 hình phạt có thể là hình phạt chính, có thể là



hình phạt bổ sung. Điều này cho thấy, bằng việc quy định nhiều loại hình phạt (đa
dạng hóa hệ thống hình phạt), LHS Việt Nam tạo cơ sở pháp lý cho tòa án có thể lựa
chọn loại hình phạt phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,
nhân thân người phạm tội…, thực hiện tốt nguyên tắc cá thể hóa hình phạt khi quyết
định hình phạt, góp phần đạt được tối đa mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa
chung của hình phạt;
- Thứ ba, một số loại hình phạt quy định trong BLHS Việt Nam nhưng không
được quy định trong BLHS Trung Quốc và ngược lại. Cụ thể là:
BLHS Việt Nam quy định hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và cấm
cư trú tại các điều 29, 31 và 37. Trong đó cảnh cáo là hình phạt chính nhẹ nhất.
BLHS Trung Quốc không quy định ba loại hình phạt này nhưng lại quy định
hình phạt cải tạo lao động (tại các điều 42, 43, 44 BLHS).
Ngoài ra, hình phạt quản chế được quy định trong BLHS Việt Nam là hình phạt bổ
sung nhưng trong BLHS Trung Quốc lại được quy định là hình phạt chính; phạt tiền
trong BLHS Việt Nam có thể là hình phạt chính, có thể là hình phạt bổ sung nhưng
trong BLHS Trung Quốc, phạt tiền chỉ được quy định là hình phạt bổ sung.
- Thứ tư, cách quy định về hình phạt chính và hình phạt bổ sung theo BLHS
Việt Nam và BLHS Trung Quốc cũng có sự khác nhau. Theo quy định của BLHS
Việt Nam, hình phạt chính được tuyên độc lập, hình phạt bổ sung chỉ có thể tuyên
kèm theo hình phạt chính (khoản 3, điều 28, BLHS Việt Nam). Trong khi đó, điều 34,
BLHS Trung Quốc khẳng định: “Các hình phạt bổ sung có thể được áp dụng độc lập”;
- Thứ năm, về hình phạt quản chế, BLHS Việt Nam quy định khái niệm hình
phạt quản chế, nghĩa vụ của người bị quản chế, thời hạn quản chế tại điều 38. Trong
khi đó, BLHS Trung Quốc không quy định khái niệm quản chế nhưng lại có những
quy định về quản chế mà BLHS Việt Nam không quy định, đó là: Cơ quan thi hành
hình phạt quản chế; thủ tục và thời điểm thi hành hình phạt quản chế; việc khấu trừ
thời gian tạm giam vào thời hạn quản chế. Cụ thể là: “thời hạn quản chế là từ 3 tháng
đến 2 năm. Bản án quản chế do cơ quan công an thi hành”…;
- Thứ sáu, về hình phạt tù có thời hạn, BLHS Việt Nam quy định khái niệm

hình phạt tù có thời hạn, thời hạn tù có thời hạn và việc khấu trừ thời gian tạm giữ,
tạm giam và thời hạn tù tại điều 33 và điều 50.


BLHS Trung Quốc không quy định khái niệm hình phạt tù và khấu trừ thời
gian tạm giữ vào thời hạn tù (chỉ trừ thời hạn tạm giam) nhưng lại có những quy định
về hình phạt tù mà BLHS Việt Nam không quy định, đó là: Quy định nghĩa vụ phải
tham gia lao động và quyền được giáo dục, cải tạo của người bị kết án. Theo đó điều
46 quy định: “Người bị kết án tù có thời hạn hoặc tù chung thân bị giam giữ trong nhà
tù hoặc trong trại tù; tất cả những người có khả năng lao động đều phải tham gia lao
động, được giáo dục và được cải tạo”. Điều 47 quy định: “Thời hạn tù có thời hạn
được tính từ ngày bắt đầu thi hành bản án, thời gian tạm giam trước khi tuyên án được
trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giam bằng một ngày tù”.
- Thứ bảy, về hình phạt tử hình, BLHS Việt Nam quy định khái niệm hình phạt
tử hình, điều kiện áp dụng, đối tượng không bị áp dụng, việc chuyển tử hình thành tù
chung thân trong trường hợp người phạm tội được ân giảm tại điều 35.
BLHS Trung Quốc, tuy không quy định khái niệm hình phạt tử hình nhưng lại
có những quy định về hình phạt tử hình mà BLHS không quy định, đó là: điều kiện
hoãn thi hành hình phạt tử hình; thủ tục thi hành hình phạt tử hình; việc chuyển hình
phạt tử hình thành hình phạt tù có thời hạn. Các quy định này được quy định tại điều
48, điều 49 và điều 50 của BLHS Trung Quốc;
- Thứ tám, về hình phạt tiền, BLHS Việt Nam quy định hình phạt tiền có thể là
hình phạt chính, có thể là hình phạt bổ sung (Điều 30). BLHS Trung Quốc quy định
hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Theo đó, tại điều 52 quy định: “Mức tiền phạt
được quyết định căn cứ vào tình tiết của tội phạm”…
Hình phạt tiền được quy định trong BLHS Việt Nam và BLHS Trung Quốc có
rất nhiều điểm khác nhau như: Căn cứ quyết định mức phạt; tính chất của hình phạt…
Đặc biệt, BLHS Trung Quốc quy định rất cụ thể giải pháp nhằm bảo đảm khả năng
thực thi của hình phạt tiền: “Nếu không nộp phạt đúng hạn thì bị áp dụng hình thức
cưỡng chế” (Điều 35);

- Thứ chín, BLHS Việt Nam, quy định khái niệm hình phạt tịch thu tài sản, điều
kiện áp dụng, phạm vi áp dụng hình phạt này tại Điều 40-BLHS.
Trong BLHS Trung Quốc, hình phạt này được quy định: “Tịch thu tài sản là
tịch thu toàn bộ hoặc một phần tài sản thuộc sở hữu riêng của người phạm tội. Nếu
tịch thu toàn bộ tài sản cần phải giữ lại một khoản chi phí cuộc sống cần thiết cho
người phạm tội và người được người phạm tội nuôi dưỡng. Khi tịch thu tài sản, không


được tịch thu tài sản thuộc sở hữu của thành viên khác trong gia đình người phạm tội”
(Điều 59). Điều 30 quy định: “Khi cần phải dùng tài sản bị tịch thu để trả các khoản
nợ hợp pháp mà người bị kết án vay trước khi tài sản bị tịch thu, thì các khoản nợ đó
được thành toán theo yêu cầu của các chủ nợ”.
Tội phạm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong BLHS và
phải chịu hình phạt.
Tội phạm là khái niệm cơ bản nhất trong luật hình sự Việt Nam . Do vậy, trong BLHS
Việt Nam đầu tiên - BLHS năm 1985 cũng như trong BLHS tiếp theo - BLHS năm
1999, định nghĩa khái niệm tội phạm đều được đưa vào một trong những điều đầu tiên
của BLHS. Các định nghĩa này đều nêu bật được 3 dấu hiệu phản ánh đặc điểm bên
trong của hành vi bị coi là tội phạm. Đó là nguy hiểm cho xã hội, có lỗi và được quy
định trong bộ luật hình sự. Dấu hiệu phải chịu hình phạt là dấu hiệu phản ánh đặc
điểm bên ngoài của hành vi bị coi là tội phạm và được quy định bởi 3 dấu hiệu phản
ánh đặc điểm bên trong của hành vi bị coi là tội phạm. Do vậy, định nghĩa tội phạm
trong bộ luật không nêu dấu hiệu này.
Tội phạm, trước hết phải là hành vi của con người. Đây là nguyên tắc cơ bản của luật
hình sự - Nguyên tắc hành vi. Theo đó, luật hình sự Việt Nam không truy cứu trách
nhiệm hình sự con người về tư tưởng của họ mà chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình
sự hành vi của con người khi hành vi đó thoả mãn các dấu hiệu được quy định trong
luật.
Dấu hiệu “nguy hiểm cho xã hội” có nghĩa hành vi phải gây ra hoặc đe dọa gây ra
thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và người thực hiện hành

vi gây thiệt hại đó phải có lỗi. Như vậy, tính nguy hiểm cho xã hội bao hàm tính gây
thiệt hại về khách quan và tính có lỗi thuộc về chủ quan của tội phạm. Tuy nhiên, tính
có lỗi được tách ra thành một dấu hiệu riêng của tội phạm nhằm nhấn mạnh nguyên
tắc có lỗi trong luật hình sự. Hành vi gây thiệt hại bị coi là có lỗi nếu chủ thể đã lựa
chọn, quyết định thực hiện hành vi đó khi có đủ điều kiện lựa chọn và quyết định xử
sự khác không có hại cho xã hội. Luật hình sự đòi hỏi tội phạm phải có dấu hiệu này
là nhằm đảm bảo mục đích giáo dục của trách nhiệm hình sự. Mục đích này chỉ có thể
có khả năng đạt được khi áp dụng trách nhiệm hình sự cho người có lỗi.
Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau như tính


chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại, tính chất và mức độ hậu quả, tính chất
và mức độ lỗi, tính chất của động cơ, mục đích, tính chất của thủ đoạn, phương tiện
cũng như hoàn cảnh thực hiện hành vi, các đặc điểm về nhân thân của chủ thể... Để
đánh giá hành vi có tính nguy hiểm đáng kể của tội phạm hay không và nguy hiểm
đến mức độ nào cần xem xét đánh giá tất cả các yếu tố này đặt trong mối liên hệ tổng
hợp với nhau.
Dấu hiệu “được quy định trong luật hình sự” đòi hỏi hành vi bị coi là tội phạm phải
được quy định trong luật hình sự hay nói cách khác, chỉ hành vi được quy định trong
luật hình sự mới có thể là tội phạm. Điều này cũng có nghĩa là cấm áp dụng nguyên
tắc tương tự. Trong sự so sánh với hai dấu hiệu trên, dấu hiệu “được quy định trong
luật hình sự” là dấu hiệu mang tính hình thức pháp lý, được quy định bởi dấu hiệu nội
dung là tính nguy hiểm cho xã hội và tính có lỗi.
Khi đã thỏa mãn dấu hiệu nguy hiểm cho xã hội, dấu hiệu có lỗi và dấu hiệu được quy
trong luật hình sự thì hành vi bị coi là tội phạm và có dấu hiệu thứ tư - bị đe dọa phải
chịu biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất là hình phạt.
Thể hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật và để có cơ sở cá thể
hóa hình phạt trong áp dụng, luật hình sự Việt Nam phân loại tội phạm thành bốn
nhóm: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng
và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Cách phân loại tội phạm này là cách phân loại dựa

trên mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhằm mục đích tạo cơ sở
thống nhất cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự trong luật. Bốn nhóm tội phạm này
khác nhau về mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội và từ sự khác nhau đó dẫn đến sự
khác nhau về mức độ của tính chịu hình phạt thể hiện ở sự khác nhau về mức cao nhất
của khung hình phạt.
Sự phân loại thành bốn nhóm tội phạm như vậy vừa là biểu hiện cơ bản của việc phân
hóa trách nhiệm hình sự vừa là cơ sở thống nhất cho sự phân hóa trách nhiệm hình sự
qua các quy định khác... Sự phân loại này trong BLHS năm 1999 là sự thay đổi theo
hướng phân hoá hơn so với BLHS năm 1985, trong đó tội phạm mới chỉ được phân


thành hai nhóm là tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng.
Ngoài cách phân loại này, còn có thể phân loại tội phạm theo các tiêu chí khác. Ví dụ:
Căn cứ vào tính chất của lỗi có thể phân tội phạm thành tội cố ý và tội vô ý; căn cứ
vào tính chất của khách thể bị xâm hại có thể phân tội phạm thành các nhóm tội khác
nhau như các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm
phạm nhân thân...; căn cứ vào đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm có thể phân
tội phạm thành các tội có cấu thành tội phạm hình thức và các tội có cấu thành tội
phạm vật chất;.
Phạm tội
Hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.
Người phạm tội: Người có đủ dấu hiệu chủ thể của tội phạm và đã thực hiện
hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm.
Người phạm tội có thể là người phạm tội riêng lẻ hoặc là người phạm tội trong đồng
phạm. Người phạm tội riêng lẻ là người thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành
tội phạm không cùng chung ý chí với người khác. Người phạm tội trong đồng phạm
có thể là một trong bốn loại người đồng phạm. Đó là:
- Người thực hành - Người thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm tội
cố ý;

- Người tổ chức - Người tổ chức cho người khác thực hiện hành vi được mô tả trong
cấu thành tội phạm tội cố ý;
- Người xúi giục - Người thúc đẩy người khác thực hiện hành vi được mô tả trong cấu
thành tội phạm tội cố ý;
- Người giúp sức - Người tạo điều kiện cho người khác thực hiện hành vi được mô tả


trong cấu thành tội phạm tội cố ý;
Người phạm tội có thể đã thực hiện hoàn thành tội phạm hoặc đã thực hiện tội phạm
nhưng mới ở giai đoạn phạm tội chưa đạt hoặc mới có hành vi chuẩn bị phạm tội (đối
với tội cố ý).
xt. Người thực hành; người tổ chức; người xúi giục; người giúp sức



×