Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC của ĐẢNG TA về xây DỰNG, PHÁT TRIỂN văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.86 KB, 31 trang )

QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA VỀ XÂY DỰNG, PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA
MỞ ĐẦU
Văn hóa đã trở thành nền tảng tinh thần, là thước đo trình độ phát triển
xã hội, là cội nguồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam chính
là thành quả hàng ngàn năm lao động và sáng tạo, đấu tranh kiên cường trong
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đồng thời là kết quả giao lưu
và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để hun đúc tâm hồn, khí phách, bản
lĩnh của văn hóa Việt Nam.
Suốt quá trình đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trãi
qua nhiều thời kỳ với những nhiệm vụ trọng tâm khác nhau, bao giờ Đảng ta
cũng nêu cao nhiệm vụ văn hóa, coi văn hóa là một bộ phận hữu cơ của toàn bộ
sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
trong điều kiện phát triển và hội nhập Quốc tế. Trên mỗi chặng đường cách
mạng Việt Nam, cùng với đường lối lãnh đạo chung, Đảng luôn quan tâm đến
việc hoạch định đường lối lãnh đạo xây dựng nền văn hóa Việt Nam ngang tầm
với nhiệm vụ cách mạng; nhiệm vụ xây dựng văn hóa được tiến hành đồng thời
với các nhiệm vụ trọng yếu khác. Trong đường lối lãnh đạo xây dựng nền văn
hóa Việt Nam, Đảng đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ vừa có tính cấp bách vừa
có tính định hướng lâu dài.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa
VIII

(7/1998)

về

“xây

dựng





phát

triển

nền

văn

hóa

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết ra đời đáp ứng yêu
cầu, nghĩa vụ xây dựng và phát triển văn hóa của nước ta trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với phương hướng chiến lược
cùng quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ, giải pháp để lãnh đạo xây dựng và
phát triển nền văn hóa nước ta theo đúng cương lĩnh xây dựng đất nước trong


2

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội – Đây được coi là một nghị quyết có ý
nghĩa như chiến lược văn hóa của Đảng trong thời kỳ đầu đổi mới.
NỘI DUNG
I. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA VỀ XÂY DỰNG,
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA.
1. Quan điểm, chủ trương về xây dựng nền văn hoá mới.
* Trước thời kỳ đổi mới
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí

Minh trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam luôn đề cao vị trí,
vai trò của văn hóa đối với sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Từ đó chủ
trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam vừa mang tính dân tộc, vừa hiện đại,
mang tính chất xã hội chủ nghĩa. Văn hóa luôn được xác định là một mục tiêu,
thậm chí là mục tiêu bao trùm của sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đồng thời là động lực, nền tảng vững chắc nhất của cách mạng.
Trong quá trrình vận động cách mạng giành chính quyền, năm 1943,
“Đề cương về văn hóa Việt Nam” ra đời và là văn kiện đầu tiên của Đảng
hoạch định đường lối văn hóa. Đề cương giải quyết những vấn đề rất cơ bản
về tư tưởng học thuật, về mục tiêu, nhiệm vụ của nền văn hóa nước nhà trong
hoàn cảnh chưa giành được độc lập dân tộc. Trong đó xác định “Mặt trận văn
hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa)”; “Không phải chỉ
làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa…”; “Có lãnh
đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên
truyền của Đảng mới có hiệu quả”1 và “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa
mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội…” 2; “Cách mạng văn hóa muốn
hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo” 3. Mục tiêu trước
mắt mà Đề cương văn hóa Việt Nam đề ra là xây dựng nền văn hóa mới dân
1; 2; 3

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.43, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 316,
98, 484.


3

tộc, khoa học, đại chúng và mục tiêu lâu dài là xây dựng “văn hóa xã hội chủ
nghĩa”1. Muốn xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng phải nắm
vững ba nguyên tắc: dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng từng bước bổ sung, hoàn chỉnh

đường lối lãnh đạo văn hóa, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ cách
mạng. Nhưng có thể coi “Đề cương về văn hóa Việt Nam” chính là cương
lĩnh văn hoá của Đảng trong cách mạng giải phóng dân tộc, là phương hướng
chỉ đạo hoạt động văn hóa, nghệ thuật trong quá trình đấu tranh giành và bảo
vệ chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp và cả những năm sau đó,
khi vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trên Miền Bắc, vừa kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược ở Miền Nam.
Ngay khi Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, ngày 3 tháng 9
tháng 1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội Đồng chính phủ, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hóa. Một là, cùng
với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt; Hai là, phải giáo dục lại tinh thần nhân
dân. Đây là hai nhiệm vụ hết sức khiêm tốn nhưng lại vĩ đại ở tầm nhìn, độ
chính xác và tính thời sự của nó, góp phần quan trong trọng xây dựng và
củng cố chính quyền cách mạng thoát khỏi tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Thực hiện cuộc vận động đời sống văn hóa mới. Đầu năm 1946 Ban
Trung ương vận động đời sống mới được thành lập với sự tham gia của nhiều
nhân vật có uy tín như Trần Huy Liệu, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hoè..., mà
tổng thư ký là nhà Văn Nguyễn Huy Tưởng. Đến tháng 3/1947 chủ tịch Hồ
Chí Minh viết tài liệu đời sống mới giải thích rất dễ hiểu những vấn đề thiết
thực trong chủ trương văn hóa quan trọng này. Đường lối văn hóa kháng
chiến dần hình thành trong chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” ra ngày
25/11/1945 của Ban thường vụ Trung ương Đảng, trong bức thư về “Nhiệm
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.43, Sđd, tr. 318


4


vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay”
của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16/11/1946 và tại
báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam” trình bày tại Hội nghị văn hóa
toàn quốc lần thứ hai tháng 7/1948. Trong đường lối xác định các nội dung:
Một là, xác định mối quan hệ giữa văn hóa và cách mạng giải phóng dân tộc,
cổ động văn hóa cứu quốc; Hai là, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới Việt
Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc
này là dân tộc, dân chủ. Tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học, trung học,
cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ; Ba là, giáo
dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới; Bốn là, phát triển cái hay
trong văn hoá dân tộc, đồng thời bài trừ cái xấu xa hủ bại, ngăn ngừa sức
thâm nhập của văn hoá thực dân, phản động, học cái hay, cái tốt của văn hóa
thế giới; Năm là, hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công
cuộc kháng chiến kiến quốc và cho cách mạng Việt Nam.
Đây là bước kế thừa, mở rộng và phát triển “Đề cương về văn hóa Việt
Nam” (1943), với nội dung của chiến lược văn hóa Việt Nam trong thời kỳ
cách mạng dân tộc dân chủ. Văn hóa - văn nghệ được xác định là một mặt
trận; văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy; lấy khẩu hiệu hành động là
kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến. Vận động toàn dân xây
dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ tệ nạn văn hóa nô dịch, thực hiện nền giáo dục,
phát triển “bình dân học vụ” để diệt “giặc dốt”.
Trong công cuộc xây dựng xã hội mới trên miền Bắc thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta xác định tư tưởng - văn hóa là một trong
ba cuộc cách mạng và được tiến hành đồng thời với cuộc cách mạng về khoa
học - kỹ thuật và cách mạng quan hệ sản xuất. Nội dung chủ yếu của đường
lối văn hóa thời kỳ này là xây dựng nền văn hóa, văn nghệ có nội dung xã hội
chủ nghĩa. Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (9/1960) đã nêu rõ đường lối xây
dựng nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Trong tiến



5

trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng xác định văn hoá - tư tưởng là một
cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ
sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Đường lối tiến hành cuộc cách
mạng văn hoá tư tưởng, xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa mang
đặc trưng dân tộc - khoa học - đại chúng tiếp tục được phát triển, bổ sung
trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tiếp tục cuộc cách mạng tư tưởng - văn hóa trong hoàn cảnh đất nước
thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (sau năm 1975), Đảng
ta xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng nền văn hóa mới và con người
mới xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ IV của Đảng (12/1976) xác định: Xây
dựng con người mới, xây dựng nền văn hoá mới, tuyên truyền giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ,
đảng viên và quần chúng, tiến hành đấu tranh chống tư tưởng văn hoá phản
động của chủ nghĩa thực dân và của giai cấp bóc lột. Đến Đại hội lần thứ V
của Đảng (3/1982) tiếp tục chỉ rõ nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung
xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm
nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đồng thời Đại hội V
cũng trình bày rất đầy đủ về khái niệm “Con người mới xã hội chủ nghĩa” và
đưa ra phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa”.
Như vậy, trong thời kỳ này tuy bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử cả
nước dồn sức cho đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, nhưng
đường lối văn hóa của Đảng đã hình thành và phát triển đường lối lãnh đạo phát
triển văn hóa đúng đắn, trên những nét cơ bản nhất: nêu ra quan niệm về văn
hóa, cả theo nghĩa rộng là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và theo nghĩa hẹp, gồm các giá trị văn
hóa tinh thần, văn hóa văn nghệ; mục tiêu của văn hóa là phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân làm rõ vị trí của văn hóa là động lực và là mục tiêu của sự
nghiệp cách mạng, đưa ra những đặc trưng của nền văn hóa mới là dân tộc, khoa



6

học và đại chúng, chỉ ra sự cần thiết của công tác lãnh đạo văn hóa và các hình
thức lãnh đạo văn hóa của Đảng; xác định xây dựng nền văn hóa mới là một mặt
trận ... Mà biểu hiện cao nhất là thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc kháng
chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đó không chỉ là thắng lợi
của đường lối chính trị, quân sự đúng đắn mà còn là thắng lợi của chủ nghĩa yêu
nước và những giá trị nhân văn, tinh thần cao đẹp của con người Việt Nam.
* Thời kỳ những năm đầu đổi mới đến khi có Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII.
Đổi mới là bước đi quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Vào lúc đất nước đắm chìm trong khủng hoảng toàn diện kinh
tế - xã hội, cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), trong đó đổi mới
nhận thức, tư duy lý luận là bước đi đột phá.
Trên lĩnh vực lãnh đạo xây dựng nền văn hóa Việt Nam, Đảng từng bước
đổi mới tư duy lý luận, dần đi tới những nhận thức mới, quan điểm mới về văn
hóa. Việc coi trọng các chính sách đối với văn hóa, đối với con người thực chất
là trở về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở cho những nhận thức mới,
quan điểm mới về văn hoá của Đảng. Trong đó khẳng định: “Mỗi hoạt động văn
hóa văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm
lý, tình cảm, nâng cao trình độ thẩm mỹ của nhân dân” 1. Nhiệm vụ cách mạng
của văn hóa trong thời kỳ đổi mới được Đảng xác định là: xây dựng một nền văn
hóa, văn nghệ xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc.
Trên hành trình đổi mới tư duy lý luận về văn hóa, tại Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) của Đảng thông qua, nhiệm vụ cách mạng
văn hóa được xác định là: xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân

tộc. Đây là lần đầu tiên Đảng đưa ra quan niệm nền văn hóa Việt Nam có hai
1

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Chính trị quốc gia, 1987, tr. 316.


7

đặc trưng: tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thay cho quan niệm nền văn hóa
Việt Nam có nội dung xã hội chủ nghĩa, có hình thức dân tộc, có tính Đảng và
tính nhân dân được nêu ra trong thời kỳ trước đó. Từ đó chủ trương xây dựng
nền văn hóa mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú, đa dạng, có
nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ, khẳng định và biểu dương những giá trị
chân chính, bồi dưỡng cái chân, cái thiện, cái mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê
phán những cái lỗi thời thấp kém.
Mặt khác, Cương lĩnh năm 1991 khẳng định tiếp tục tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa, làm cho thế giới
quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống
tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của
tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại.
Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với các nghị quyết của các kỳ đại hội Đảng, Trung ương Đảng đã
tập trung bàn thảo sâu và ra các chuyên đề về văn hóa. Ngày 28/11/1987, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết số 05/QĐ-TW về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh
đạo quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo đưa
văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới. Nghị quyết Bộ
Chính trị khẳng định: Văn hóa là một bộ phận trọng yếu của cuộc cách mạng
tư tưởng văn hóa, là một lực lượng mạnh mẽ, đồng thời là mục tiêu lớn trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các quyền tự do sáng tác, tự do phê

bình của văn nghệ sĩ và công chúng, thực hiện dân chủ hóa đời sống văn học
nghệ thuật được Nghị quyết xác định rõ. Như vậy, với Nghị quyết 05 của Bộ
Chính trị, lần đầu tiên trong thời kỳ đổi mới Đảng ta ra nghị quyết chuyên đề
về văn hóa, thể hiện sự chuyển biến trong nhận thức của Đảng về vị trí, tầm
quan trọng của văn hóa đối với sự nghiệp đổi mới đất nước.


8

Tháng 1 năm 1993, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4 khóa
VII ra Nghị quyết 04-NQ/TW về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những
năm trước mắt. Hội nghị đánh dấu sự thay đổi căn bản trong nhận thức về vị
trí, vai trò của văn hóa, coi “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội”1 .Hội nghị xác định nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của nền văn hóa
văn nghệ dân tộc là phải xây dựng và phát triển nền văn hóa mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa - một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đặt nhiệm vụ cách mạng văn hóa trong những điều kiện mới, nhận thức
rõ hơn vai trò, vị trí của văn hóa trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Đại hội thứ VIII của Đảng (6/1996) thể hiện rõ nét hơn đường lối,
quan điểm của Đảng về lãnh đạo văn hóa, khẳng định: “Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội” 2. Nghị quyết Đại hội VIII chỉ rõ: “Mọi hoạt động văn hóa văn
nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối
sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội”3.
Đại hội lần thứ VIII đặt nền móng cho việc định hình đường lối lãnh
đạo văn hóa của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở Nghị quyết được
đại hội thông qua, đường lối của Đảng trên từng lĩnh vực từng bước được đưa
vào cuộc sống, trong đó có đường lối lãnh đạo văn hóa. Theo phương hướng

đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII ra đời chính là bước đi quan
trọng trong quá trình hoạch định trong đường lối lãnh đạo văn hóa của Đảng
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 98.
2; 3 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996, tr. 110, 111.
1


9

Từ ngày 6 đến ngày 16/7/1998, tại Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng tiến hành Hội nghị lần thứ 5 khóa VIII, ra Nghị quyết về “xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nghị quyết Trung ương 5 ngoài phần mở đầu được kết cấu thành 3 phần.
Phần I: Về thực trạng văn hóa nước ta;
Phần II: Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa;
Phần III: Những giải pháp lớn xây dựng và phát triển văn hóa.
Mở đầu, Nghị quyết trình bày khái quát quá trình hình thành nền văn hóa
Việt Nam; sự kế tục, bổ sung và phát huy nền văn hóa Việt Nam trong thời đại
Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa
xã hội; khẳng định vai trò, vị trí của văn hóa đối với sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về thực trạng nền văn hóa nước ta, Nghị quyết khẳng định: “Tư tưởng,
đạo đức và lối sống là những lĩnh vực then chốt của văn hóa, đã có những
chuyển biến quan trọng. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được
vận dụng và phát triển sáng tạo ngày càng tỏ rõ giá trị vững bền làm nền tảng tư

tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng nước ta, nhân tố
hàng đầu bảo đảm đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng hướng”1.
Nghị quyết nêu rõ những thành tựu của quá trình xây dựng nền văn hóa
Việt Nam mới, đó là: Ý thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
tinh thần trách nhiệm và năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ, đảng viên được
nâng lên một bước... Tính năng động và tính tích cực công dân được phát huy,
sở trường và năng lực cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong xã
hội tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn
lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Những việc làm thiết
thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh
hùng dân tộc, quý trọng các danh nhân văn hóa, đền ơn đáp nghĩa những người
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 42.
1


10

có công, giúp đỡ những người hoạn nạn... trở thành phong trào quần chúng. Tự
do tín ngưỡng và không tín ngưỡng được tôn trọng... Sự nghiệp giáo dục, khoa
học thu được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao dân trí, trình độ
học vấn của nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh nội sinh. Trên lĩnh vực văn
học, nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo có bước phát triển mới...
Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng thẳng thắn chỉ ra những mặt yếu kém
của nền văn hóa nước ta, trước hết trong nhận thức tư tưởng, trong đạo đức,
lối sống. Có một thực tế là: “Trước những biến động chính trị phức tạp trên
thế giới, một số người dao động, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa,
phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, phủ nhận con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận lịch sử cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không ít người còn mơ hồ, bàng quan hoặc

mất cảnh giác trước những luận điệu thù địch xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta”1.
Hình thành trong xã hội ta là tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những
giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... Không ít
trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ
thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma túy,
mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến.
Nhiều hũ tục cũ và mới lan tràn, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội...
“Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham
nhũng, dùng tiền Nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đọa không được ngăn
chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa
địa vị, cục bộ, địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó
gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn tương uy tín của Đảng, của Nhà nước”.
Có thể nói, Nghị quyết đã vạch rõ nhiều mặt yếu kém của văn hóa, thể
hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong sáng tạo văn học nghệ thuật,
định hướng tư tưởng, thẩm mỹ và cả trong công tác quản lý. Đồng thời, Nghị
1

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, sđd, tr.46.


11

quyết cũng đề cập đến nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan đưa
đến sự yếu kém, xuống cấp của văn hóa nước ta. Về chủ quan, Nghị quyết nêu
rõ: “Trong khi tập trung sức vào nhiệm vụ kinh tế, Đảng chưa lường hết những
tác động tiêu cực..., từ đó đặt đúng vị trí của văn hóa, chưa coi trọng công tác
giáo dục về tư tưởng, đạo đức và lối sống, thiếu các biện pháp cần thiết trên cả
hai mặt “xây” và “chống” trên lĩnh vực văn hóa...”1. “Việc xử lý những phần tử
thoái hóa biến chất trong Đảng và bộ máy Nhà nước chưa nghiêm. Tinh thần tự

phê bình và phê bình sa sút ở nhiều cấp bộ Đảng. Nội dung giáo dục tư tưởng,
chính trị trong sinh hoạt đảng và các đoàn thể rất yếu. Những điều đó làm suy
giảm niềm tin của nhân dân vào đội ngũ cán bộ, nhưng Trung ương và Bộ
Chính trị, Chính phủ chưa có biện pháp khắc phục hữu hiệu” 2.
Nội dung quan trọng của Nghị quyết 05 chính là vạch ra phương hướng,
nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa. Trong nội dung này, Nghị quyết xác
định phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là “phát huy chủ
nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập, tự chủ, tự
cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã
hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân
cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời
sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc
lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” 3.
Đồng thời, Nghị quyết nêu rõ 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản, đó là:
1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội;

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, sđd
tr.52, 53, 54.
1 ; 2; 3


12

2. Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến,
đạm đà bản sắc dân tộc;
3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong

cộng đồng các dân tộc Việt Nam;
4. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng;
5. Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì
thận trọng.
Nghị quyết xác định 10 nhiệm vụ cụ thể nhằm thực hiện phương hướng
chung, đó là:
1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới;
2. Xây dựng môi trường văn hóa;
3. Phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật;
4. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa;
5. Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ;
6. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng;
7. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số;
8. Chính sách văn hóa đối với tôn giáo;
9. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa;
10. Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa.
Đặc biệt, Nghị quyết nhấn mạnh những nhiệm vụ cấp bách đến năm
2000, trong đó “đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối
sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết trong các tổ chức
Đảng và Nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình.
Kiên quyết loại bỏ những phần tử thoái hóa biến chất về đạo đức ra
khỏi tổ chức đảng và cơ quan Nhà nước. Nghiêm trị bọn tội phạm. Ngăn chặn
và đẩy lùi các hoạt động phản văn hóa, các sản phẩm văn hóa độc hại


13

Xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi

hủ tục, các tệ nạn cờ bạc, ma túy, mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công cộng.
Cải thiện đời sống văn hóa ở những vùng đời sống văn hóa còn quá thấp kém,
nhất là những vùng sâu, vùng xa, vùng núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số, đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất về đời sống văn hóa tinh
thần của nhân dân” 1.
Về những giải pháp lớn xây dựng và phát triển văn hóa, Nghị quyết
nêu rõ 4 giải pháp cơ bản: Một là, mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu
nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”; Hai là, xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn
hóa; Ba là, tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa; Bốn
là, nâng cao hiệu quả của Đảng trên lĩnh vực văn hóa.
Nhằm quán triệt và thực hiện tốt nhiệm lãnh đạo văn hóa, Nghị quyết yêu
cầu, “các cấp ủy đảng và tổ chức đảng nghiêm túc xem xét trách nhiệm lãnh đạo
của mình, rút ra những bài học kinh nghiệm lãnh đạo văn hóa, đẩy mạnh công
tác xây dựng Đảng. Tiến hành sinh hoạt chính trị tự phê bình và phê bình về tư
tưởng, đạo đức, lối sống trong toàn đảng và bộ máy Nhà nước, trước hết là trong
đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý. Kết quả nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết
phải được thể hiện trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình hành động của
các cấp, các ngành, trong việc phát huy vai trò gương mẫu về tư tưởng, đạo đức,
lối sống văn hóa của cán bộ, đảng viên, viên chức nhà nước.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
văn hóa dân tộc là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa của nước ta, đòi hỏi ý chí cách mạng kiên định, trình độ trí tuệ và
tính tự giác cao. Mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là các ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương nêu cao vai trò gương mẫu của người cộng sản, động viên,

1

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, sđd tr. 69-70



14

tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết, làm theo lời Bác Hồ: “Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”.
Toàn đảng, toàn dân ta ra sức phấn đấu để Tổ quốc ta mãi mãi là quốc
gia văn hiến, dân tộc ta là một dân tộc văn hóa, nền văn hóa nước ta không
ngừng phát triển, xứng đáng với tầm vóc dân tộc ta trong lịch sử và trong thế
giới hiện đại” 1.
Đến Hội nghị Trng ương 9 (khoá IX) tháng 1 năm 2004, Đảng ta xác
định thêm “phát triển văn hoá đồng bộ với phát triển kinh tế”.
Tại Hội nghị Trung ương 10 (khoá IX) tháng 7 năm 2004 đặt vấn đề
đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng
chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hóa nền tảng - tinh thần xã hội. Đồng thời cũng nhận định: cơ chế thị trường đã
làm thay đổi mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, thúc đẩy dân chủ đời
sống xã hội, đa dạng hóa thị hiếu và phương thức sinh hoạt văn hóa. Do đó
phạm vi, vai trò của dân chủ hóa - xã hội hóa và của cá nhân ngày càng tăng
lên và mở rộng là những thách thức mới đối với sự lãnh đạo và quản lý công
tác văn hóa của Đảng và Nhà nước ta.
Toàn bộ tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đó
làm sống lại bức tranh của nền văn hóa đất nước trong tương lai. Đó là nền
văn hóa với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển, gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa -hiện đại
hóa đất nước, gắn với những vấn đề nảy sinh trong xu thế toàn cầu hoá và nền
kinh tế thị trường.
Có thể nói, Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) ra đời không chỉ là
một văn kiện mang tính đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trên lĩnh
vực văn hóa, mà còn thể hiện tư duy lý luận văn hóa một cách toàn diện và
1


Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, sđd tr. 82-83


15

sâu sắc trong giai đoạn cách mạng mới. Do vậy, sự phát triển toàn diện và
sáng tạo đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi
mới của bản Nghị quyết này thể hiện qua những nội dung đó là:
II. NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 5 (KHÓA VIII) - SỰ PHÁT
TRIỂN TOÀN DIỆN VÀ SÁNG TẠO ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI
MỚI.
1. Khái quát, định hình về cơ bản đường lối, quan điểm của Đảng
lãnh đạo văn hóa thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn hoá, phải xây dựng văn hóa từ
trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước như Bác Hồ đã dạy “Đảng ta là đạo đức, là
văn minh. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng, cơ bản và chiến lược không chỉ đối
với công tác lãnh đạo mà cả công tác quản lý văn hoá, với mỗi cán bộ, đảng
viên. Có thể nói, Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đó thể hiện sự phát triển cả
nhận thức và tư duy lý luận về văn hóa, lãnh đạo văn hóa của Đảng. Đó cũng
chính là kết tinh của sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hóa, về xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa, về phương
pháp lãnh đạo văn hóa, quản lý văn hóa; là sản phẩm từ tổng kết lý luận và thực
tiễn trong quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo văn hóa của Đảng.
Từ nhận thức văn hóa, bao gồm tư tưởng, học thuật, nghệ thuật (Đề
cương văn hóa Việt Nam 1943) đến văn hóa bao gồm: tư tưởng, đạo đức, lối
sống, khoa học, giáo dục - đào tạo, thông đại chúng, văn học - nghệ thuật, tôn
giáo, tín ngưỡng…
Từ nền văn hóa mới: dân tộc, khoa học, đại chúng; dân tộc là hình thức,

tân dân chủ là nội dung (1943); là nền văn hóa “có nội dung xã hội chủ nghĩa
và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc” (tại Đại hội V của
Đảng) đến nền văn hóa mang tính dân tộc, hiện đại, nhân văn (Hiến pháp


16

1992) và đến Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) khẳng định “xây dựng,
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
Từ quan niệm “phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được
cuộc cải tạo xã hội” (1943); cách mạng tư tưởng - văn hóa là động lực (Đại hội
IV) đến Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Từ ba nguyên tắc vận động cách tân văn hóa: dân tộc hóa, đại chúng
hóa, khoa học hóa (1943); tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng
và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội: kế thừa và phát huy những truyền
thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước; “tiếp thu những tinh
hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân
chính và phẩm giá con người với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ
ngày càng cao”. đến Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) xác định : Phương
hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt
động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa
bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất
nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển,
phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Từ định hướng chỉ đạo: “Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do
Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”, văn hóa là một trong ba mặt trận, các
nhà báo, đội ngũ văn nghệ sĩ là những chiến sĩ trên mặt trận ấy đến Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII) xác định năm quan điểm chỉ đạo.


17

Từ nhiệm vụ văn hóa là: giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, không ngừng
đấu tranh với tư tưởng phi vô sản (Đại hội I) 1; giáo dục, động viên văn hóa
thật sự tham gia kháng chiến, đào tạo nhân tài và cán bộ (Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (1/1948), “Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học… phát
triển văn hóa” (Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ hai mươi, tháng 4/1972) 2,
đến Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã phát triển đầy đủ thành 10 nhiệm
vụ cụ thể trên tất cả các lĩnh vực văn hóa, từ xây dựng và hoàn thiện nhân
cách con người Việt Nam trong giai đoạn mới, xây dựng môi trường văn hóa;
xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống; phát triển văn học, nghệ thuật; bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa; phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa
học - công nghệ; phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại
chúng; bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; thực hiện
chính sách văn hóa đối với tôn giáo đến củng cố, xây dựng, hoàn thiện thể chế
văn hóa và mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa.
Đồng thời Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã nêu lên bốn giải pháp
cơ bản để xây dựng và phát triển văn hóa như đẫ nêu ở trên và xác định: Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý về văn hoá thông qua việc thể chế hoá các
chủ trương, chính sách của Đảng bằng luật pháp, pháp lệnh, nghị định, quy
định, các chính sách văn hoá... Thông qua các chương trình hành động, phong
trào thi đua yêu nước, qua hệ thống các thiết chế văn hoá để vận động quần
chúng nhân dân thực hiện; biến chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng
thành lực lượng vật chất, thành phong trào cách mạng; tạo ra những kết quả

cụ thể nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần cho nhân dân, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, trực tiếp xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội.
Như vậy, Nghị quyết đã bổ sung và phát triển toàn diện đường lối xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong
1

Tìm hiểu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam qua các Đại hội và Hội nghị Trung ương (1930-2002), Nxb Lao

động, Hà Nội, 2003, tr. 106.
2

Tìm hiểu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam qua các Đại hội và Hội nghị Trung ương (1930-2002), sđd, tr . 622.


18

giai đoạn cách mạng mới, phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ của thời đại
từ quan niệm về văn hóa, vị thế, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển, từ quan
điểm chỉ đạo đến mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và các giải pháp cơ bản để xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
2. Những quan niệm, tư tưởng mới được đề cấp trong Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII không chỉ phát triển toàn diện mà
còn phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, tư tưởng tiến bộ của nhân loại về văn hóa, về xây dựng và phát triển
nền văn hóa trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế. Sự phát triển sáng tạo đường lối văn hóa của
Đảng là định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa, được thể hiện tập
trung đậm nét ở những quan niệm, tư tưởng chủ yếu như sau:
Trước hết, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chưa đưa ra

mô hình văn hóa XHCN nhưng cũng nêu lên tính chất của nền văn hóa là
phải kết hợp giữa cái truyền thống với cái hiện đại, giữa cái dân tộc và cái
quốc tế trên nền tảng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân.
Từ những ý tưởng ban đầu của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta đã đưa ra mô hình văn hóa XHCN để hướng tới xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mô hình văn hóa với
hai đặc trưng cơ bản: tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc đã hàm chứa được
tất cả những gì tốt nhất, hiện đại nhất, đẹp nhất, nhân đạo nhất của văn hóa
Việt Nam, phù hợp với sự tiến bộ văn hóa của nhân loại. Đây là sự phát triển
sáng tạo lý luận văn hóa mácxít của Đảng ta và khắc phục được hạn chế trong
nhận thức xem bản sắc văn hóa dân tộc là hình thức.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII không chỉ xác định mô hình mà còn
làm sáng tỏ đặc trưng của một nền văn hóa tiên tiến và đặc trưng của bản sắc
dân tộc. Cốt lõi của nền văn hóa tiên tiến là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ


19

nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục
tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn
diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa
xã hội và tự nhiên, tiên tiến không chỉ ở nội dung tư tưởng mà còn tiên tiến
trong cả hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung. Bản
sắc văn hóa Việt Nam là những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh
thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc,
lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo
trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… đậm nét
trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.

Thứ hai, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trước đây và cả hiện nay văn hóa chưa được đặt ở vị trí trung tâm của
sự phát triển như nó vốn có, mà còn bị coi là chịu sự quy định, chi phối chặt
chẽ của kinh tế, mặc dù chúng có sự tác động tích cực trở lại. Do vậy xẩy ra
tình trạng coi văn hóa là lĩnh vực phi sản xuất, lĩnh vực thứ yếu, chỉ tập trung
chăm lo xây dựng kinh tế mà xem nhẹ nhiệm vụ văn hóa.
Từ thực tiễn đời đời sống Đảng ta đã sớm nhận thức được vai trò vị trí
của văn hóa trong đời sống nhân dân, trong sự nghiệp cách mạng. Nghị quyết
khẳng định “làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã
hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân
cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời
sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc
lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” 1. Đây
1

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, sđd tr.54-55


20

là luận điểm mới mẻ, sáng tạo nói lên mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và
sự phát triển, nhấn mạnh vị thế, vai trò của văn hóa đối với chính trị, kinh tế và
các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội là quan niệm mới mẻ và sáng tạo của Đảng ta bổ sung vào lý luận văn hóa
mácxít. Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển, là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội chính là bổ sung vào tư tưởng mácxít về vai trò của các
hình thái ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, khoa học, giáo dục là động lực
của lịch sử. Văn hóa là yếu tố nội sinh, là động lực của sự phát triển.

Thứ ba, xây dựng nền văn hóa Việt Nam trước hết là phải xây dựng và
hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam và môi trường văn hóa.
Con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin “không phải là một
cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” 1. Con người vừa là sản phẩm
của hoàn cảnh lịch sử, vừa là chủ thể của tiến trình lịch sử, nó gắn với những
điều kiện lịch sử nhất định, một phương thức sản xuất, một dân tộc nhất định.
Với ý nghĩa ấy, con người cũng vừa là chủ thể của văn hóa, đồng thời cũng là
sản phẩm của văn hóa. Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: muốn xây dựng
CNXH, trước hết phải có con người XHCN. Thế nhưng trong thời gian khá dài,
mối quan hệ giữa con người và văn hóa chưa được đề cập một cách khoa học,
trong đường lối thường tách xây dựng con người mới và nền văn hóa mới.
Từ thực tiễn xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII đã khắc phục những khiếm khuyết nêu trên, đã
nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam,
xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh như là một hệ quả tất yếu từ biện
chứng giữa con người và văn hóa theo quy luật nhân quả. Việc bổ sung vào lý
luận văn hóa mácxít thuật ngữ “môi trường văn hóa” và xác định đặc trưng

1

C.Mác - Ph.Ănghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.11.


21

của con người mà chúng ta hướng tới xây dựng, chính là sự phát triển sáng
tạo đường lối văn hóa của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới.
Thứ tư, không tách rời hệ tư tưởng với văn hóa, xem hệ tư tưởng là cái
cốt lõi của văn hóa, xây dựng tư tưởng, đạo đức là nhiệm vụ trọng tâm, vừa

cấp bách, vừa cơ bản, thường xuyên và lâu dài của sự nghiệp văn hóa, là
điểm mới, sáng tạo trong sự phát triển đường lối văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem công tác tư tưởng là công tác hàng đầu
của Đảng. Theo Người, tư tưởng có thống nhất thì hành động mới thống nhất, tư
tưởng và hành động có thống nhất thì mọi việc cách mạng mới thành công. Đảng
ta không tách rời cách mạng tư tưởng và cách mạng văn hóa, xem tư tưởng, học
thuật, nghệ thuật nằm trong phạm trù văn hóa (Đề cương văn hóa 1943) và ngay
từ Hội nghị Trung ương 3 khóa III đã xác định: Cùng với đà phát triển của sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mặt trận kinh tế, cần xúc tiến sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mặt trận tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII từ những quan điểm nêu trên đã
phát triển một cách sáng tạo đường lối xây dựng và phát triển văn hóa: xem
việc xây dựng tư tưởng là nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản, cấp bách và lâu dài của
sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam.
Thứ năm, từ đặc trưng đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt
Nam đến quan điểm nền văn hóa Việt Nam thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Tại Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, đặc trưng bản sắc văn hóa dân
tộc mới được cụ thể hóa một cách lôgíc, sáng tạo. Từ quan điểm chỉ đạo: nền
văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam và cũng từ quan điểm chỉ đạo cơ bản này để xác định nhiệm
vụ mang tầm chiến lược trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam là
bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số. Tính thống nhất
theo tinh thần Nghị quyết là thống nhất ở hệ tư tưởng, ở những giá trị phổ


22

biến, vững bền, đặc trưng cho cả nền văn hóa Việt Nam; bảo tồn, phát huy
không tách rời phát triển văn hóa, bởi đậm đà bản sắc phải gắn với cái hiện

đại, cái tiên tiến.
Thứ sáu, xác định rõ ràng, cụ thể chủ thể lãnh đạo và chủ thể xây dựng
nền văn hóa.
Chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng nền văn hóa là Đảng Cộng sản
Việt Nam, chủ thể xây dựng là toàn dân, trong đó đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ
giữ vai trò quan trọng. Đảng lãnh đạo thông qua đường lối, chính sách trên
lĩnh vực văn hóa: chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, bảo
tồn các di sản văn hóa, khuyến khích sáng tạo văn hóa mới, chính sách hợp lý
trong hưởng thụ, tiêu dùng các giá trị văn hóa, chính sách đối với nghệ nhân,
xã hội hóa hoạt động văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ… Sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, cho nên giải
pháp vừa cơ bản, vừa lâu dài, vừa cấp bách, vừa thường xuyên, mang tính đột
phá là phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, gắn chặt phong trào thi đua
yêu nước với phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa.
Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa là giải pháp, bao
gồm nhiều biện pháp để xây dựng văn hóa ngay từ cơ sở, từ xây dựng tư
tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống đến xây dựng con người văn hóa, gia đình
văn hóa, làng, xã văn hóa, đơn vị văn hóa, môi trường văn hóa; từ phong trào
xóa đói giảm nghèo, người tốt, việc tốt, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc
đến phong trào đền ơn đáp nghĩa, phong trào văn nghệ quần chúng, phong
trào rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại…
Như vậy, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã phát triển toàn diện,
sáng tạo đường lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam, song ở một nghị quyết,
cùng một lúc không thể đề cập một cách đầy đủ, trọn vẹn, sâu sắc trên tất cả
các lĩnh vực văn hóa. Chẳng hạn như đặc trưng mô hình văn hóa: tiên tiến là
yêu nước và tiến bộ; đậm đà bản sắc, nhiệm vụ cụ thể chưa đề cập đến lĩnh


23


vực thể dục, thể thao; giải pháp xây dựng tư tưởng, đạo đức vẫn còn chung
chung; vận dụng quy luật và tính quy luật trong sự phát triển văn hóa mới chú
trọng mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, còn mối quan hệ giữa văn hóa với
chính trị, văn hóa với các lĩnh vực xã hội khác, với môi trường chưa thật đậm
nét; chưa nêu được nội dung và giải pháp để xây dựng những giá trị mới của
văn hóa Việt Nam hiện đại…
Những hạn chế đó, đã được Hội nghị Trung ương 10 khóa IX và Đại
hội X của Đảng bổ sung toàn diện hơn, đầy đủ hơn: “Phải gắn tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân
chủ, tiến bộ và công bằng xã hội” 1; “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa nền tảng tinh thần của xã hội. Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và
quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong nhân cách của thanh niên,
thiếu niên; chống những hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa”2 …
3. Là cơ sở lý luận để bổ sung, hoàn chỉnh đường lối lãnh đạo và
chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ tiếp theo.
Nước ta bước vào thời kỳ đổi mới. Đặc điểm lớn nhất của toàn bộ sự
nghiệp phát triển xã hội Việt nam là xây dụng xã hội chủ nghĩa theo cơ chế
thị trường. Thực chất của nền văn hóa thời kỳ này là nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa của thể
chế kinh tế thị trường trong thời kỳ CNH, HĐH và đô thị hóa đất nước. Trong
quá trình xây dựng và phát triển, do thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam có
nhiều biến đổi mau lẹ, nó đã tác động đến toàn bộ nền văn hóa. Nhận thức rõ
trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, trước những tác động của cơ chế thị trường, Đảng luôn luôn tăng

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2006, tr. 178-179, 213.
1 ;2



24

cường và hoàn thiện đường lối chính trị làm cho các hoạt động văn hóa ngày
càng sát với cơ chế thị trường.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, với tư cách là nghị quyết chuyên
đề về sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam. Trong thời kỳ
mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết
đưa ra những quan điểm thể hiện tập trung đường lối văn hoá của Đảng, là tư
tường chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các hoạt động văn hoá trước mắt và lâu dài,
từu đó làm cơ sở khẳng định và làm rõ vị trí của văn hoá trong đời sống dân
tộc, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001) tiếp tục khẳng định: “Xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sẳc dân tộc, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, mọi hoạt động văn hoá
nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị tư tưởng,
trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, cổ ý thức cộng đồng, lòng nhân ái,
khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia
đình, cộng đồng và xã hội: Văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự
hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh
thẩn yêu nước, ý thức tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1
Sau Đại hội IX của Đảng, hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng
sâu rộng, đã xuất hiện rất nhiều quan hệ văn hóa mới. Từ thực tiễn đó, Đại hội
X của Đảng (2006), một mặt, khẳng định Việt Nam phải tiếp tục phát triển
sâu rộng và nâng cao chất lượng những quan hệ văn hóa trong mọi lĩnh vực
của cuộc sống; mặt khác, đề xuất vấn đề hoàn thiện giá trị nhân cách con
người Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước nhằm giữ gìn các phẩm
giá dân tộc và phát huy phẩm giá, năng lực và thiên hướng của mọi cá nhân.
Cơ chế thị trường ở Việt Nam trong xu thế hội nhập đã phát triển rất đa dạng
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr. 38

1


25

và phức tạp. Đã tác động đến môi trường văn hóa của Việt Nam nóng lên bất
thường ờ mọi nơi từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi,
từ các trung tâm kinh tế chính ừị đến tận vùng sâu, vùng xa, nơi biên cương,
hải đảo, len lỏi vào từng gia đình, từng ngõ xóm, hẻm phố đến nơi công sở...
Tiếp đó Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011), xác định mục tiêu chung
là: xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng
đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng vững chắc của xã hội, là sức manh
nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đặc biệt , trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương
5 (khóa VIII) tại Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã
ra Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. So với Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII thì tại nghị quyết này, xây dựng con người Việt Nam được đưa lên
tiêu đề của nghị quyết và vấn đề xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện là nhiệm vụ đầu tiên trong 6 nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn
hóa. Đây là nét đặc sắc của Nghị quyết Trung ương 9 về văn hóa, là kết quả
trực tiếp của thành tựu phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về văn hóa, về vị
trí, vai trò của văn hóa trong thời kỳ mới.
Tên gọi Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, vừa kế thừa được nội hàm
của Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII, vừa nêu được vấn đề mới bổ sung đó
là nhân tố con người và sự phát triển bền vững đất nước. Chủ trương xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được khẳng định
xuyên suốt trong mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp của Đảng ta. Sau

từ “văn hoá” đưa thêm từ “con người” là để nhấn mạnh trọng tâm, cốt lõi của
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là xây dựng
nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân -


×