TRIỂN VỌNG CỦA PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN
QUỐC TẾ TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI – SỰ NHẬN THỨC
CỦA ĐẢNG TA VỀ TƯƠNG LAI CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra thời đại mới - thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Thắng lợi của
Cách mạng tháng Mười Nga đưa đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của một hệ
thống thế giới mới - hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN); mở đầu công cuộc xây
dựng một xã hội mà tính ưu việt của nó đã làm thay đổi một cách căn bản so sánh
lực lượng và đẩy nhanh xu hướng phát triển của nhân loại vì tiến bộ xã hội. Sau
Cách mạng tháng Mười, nhà nước Xô viết trưởng thành hùng mạnh, trở thành
siêu cường - chỗ dựa vững chắc cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc và
cách mạng XHCN thế giới trong hơn 2/3 thế kỷ XX.
Những thành tựu của quá trình xây dựng CNXH ở Liên Xô là vô cùng to
lớn và không thể phủ nhận. Tuy nhiên, chính trong quá trình ấy, Đảng cộng sản
(ĐCS) Liên Xô đã phạm phải nhiều sai lầm, thậm chí rất nghiêm trọng làm suy
yếu từng bước và cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của bản thân Đảng và nhà nước
Xô viết. Sau cuộc chính biến tháng 8/1991, Đảng cộng sản Liên Xô bị đình chỉ
hoạt động, Ban chấp hành trung ương Đảng bị giải tán, tổ chức Đảng trên phạm
vi toàn LB Xô viết và các nước cộng hòa tan rã, chế độ XHCN sụp đổ ở Liên
Xô. Sự kiện lịch sử đó có tác động sâu sắc đến đời sống chính trị thế giới, nó đã
phá vỡ thế cân bằng chiến lược tồn tại trong gần nửa cuối thế kỷ XX. CNXH lâm
vào thoái trào, so sánh lực lượng trên thế giới đã thay đổi không có lợi cho
CNXH và phong trào cách mạng, phong trào hòa bình thế giới. Các nước XHCN
còn lại phải chấp nhận những thách thức mới khi Liên Xô sụp đổ. Chủ nghĩa đế
quốc (CNĐQ) và các thế lực chống cộng rêu rao rằng, CNXH sẽ dần dần sụp đổ
1
theo dây chuyền, và trên thực tế chúng đẩy mạnh cuộc tấn công hòng xóa bỏ
toàn bộ thành quả cách mạng trên thế giới mà CNXH đã đem lại.
Thế nhưng, những toan tính, những âm mưu đó của các thế lực đế quốc
chủ nghĩa (ĐQCN) và các thế lực thù địch khác không trở thành hiện thực. Các
nước XHCN còn lại như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Cộng hòa dân chủ nhân
dân Triều Tiên vẫn trụ vững, vượt qua được thời kỳ khó khăn nhất và tiếp tục phát
triển theo định hướng XHCN. Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế sau một
thời gian khủng hoảng nặng nề đã từng bước phục hồi và có những hoạt động
ngày càng tích cực, báo hiệu sức sống mãnh liệt của phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế trong thập niên đầu thế kỷ XXI.
1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG,
PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN QUỐC
TẾ TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI
1.1. Bối cảnh tác động đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
hiện nay
1.1.1. Tính hai mặt của toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa (globalization) là một khái niệm mới xuất hiện vào những
năm 70 của thế kỷ XX, nhằm nói đến quá trình không ngừng gia tăng các mối
quan hệ, hợp tác, liên kết xuyên quốc gia, khu vực và quốc tế. Điều này đã được
Mác diễn đạt trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” viết năm 1848 và một số
tác phẩm khác thông qua các thuật ngữ như "sự phụ thuộc phổ biến của các dân
tộc", "tính chất thế giới", "thị trường thế giới", "tự do mậu dịch"…
2
Cũng như các quá trình lịch sử khác, toàn cầu hóa mang tính hai mặt rõ
nét. Mặt tích cực, nó tạo cơ hội tiến tới một “thế giới phẳng”, công bằng và nhân
bản hơn, xóa mờ đi các đường biên giới ngăn cách giữa người với người, cả về
vật chất lẫn tinh thần. Ngược lại, về mặt tiêu cực (mặt trái), nó có thể dẫn đến
“toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa”, sự bất bình đẳng càng bị khoét sâu hơn nữa,
hoặc bị lợi dụng và thao túng bởi thế lực của “kẻ mạnh” và chủ nghĩa bá quyền,
v.v
Tất cả đều tác động sâu sắc đến đời sống mọi mặt của nhân loại, trong đó
có phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đặc biệt là trong việc tập hợp lực
lượng đứng lên đấu tranh chống mặt trái của toàn cầu hóa (vốn do chủ nghĩa tư
bản thao túng).
1.1.2. Sự lan truyền bão táp của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ
đương đại
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đương đại đã phát triển như vũ bão
kể từ giữa thế kỷ XX đến nay, mang tính tích hợp rất cao và thể hiện chủ yếu
trên các lĩnh vực: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ tự động hóa, công nghệ hải dương
học, công nghệ vũ trụ, công nghệ siêu vi mô (nanotechnology)…
Nó đang từng năm từng tháng từng ngày làm thay đổi đời sống con người,
làm biến đổi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, làm thay đổi phương thức
sống và phương thức tư duy. Trong đó, có sự chuyển biến to lớn bên trong cơ
cấu giai cấp công nhân, với những người lao động trình độ cao ngày càng gia
tăng nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực, đồng thời làm thay đổi tận gốc rễ nền
3
kinh tế - xã hội, chuyển từ “văn minh công nghiệp” lên “văn minh hậu công
nghiệp” hay “văn minh trí tuệ”, hình thành nên một đội ngũ công nhân được đào
tạo cơ bản và có trình độ học vấn cao (“công nhân cổ cồn”, “công nhân cổ
trắng”…). Nghĩa là, nó đã làm biến đổi cả về lượng lẫn về chất trong đội ngũ
giai cấp công nhân nói riêng và người lao động nói chung, ảnh hưởng không nhỏ
tới phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
1.1.3. Sự phát triển của kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức (knowledge economy) là nền kinh tế lấy tri thức và sáng
tạo kỹ thuật mới làm cơ sở, lấy toàn cầu làm thị trường. Tri thức trở thành một
bộ phận quan trọng và quyết định trong thành phần của tư liệu sản xuất. Cùng
với quá trình toàn cầu hóa và cách mạng khoa học – công nghệ đương đại, kinh
tế tri thức đang đóng vai trò quyết định trong việc tạo dựng diện mạo mới của
nền văn minh nhân loại kể từ cuối thế kỷ XX trở đi, với việc làm thay đổi chiều
hướng và mô hình tăng trưởng kinh tế, làm biến dạng quan hệ sở hữu, thay đổi
giá trị và chuẩn mực xã hội, thay đổi đường lối và chiến lược phát triển của các
quốc gia trên thế giới.
Trong nền kinh tế tri thức, những người lao động có trình độ cao chiếm áp
đảo tổng lao động toàn xã hội. Họ tập trung trong các ngành dịch vụ và công
nghệ cao thay cho các ngành nghề truyền thống. Họ cũng đi “làm thuê” nhưng
đã khác về chất so với những người “làm thuê” trước đây, vì họ dùng tri thức là
chủ yếu chứ không phải dùng cơ bắp là chủ yếu. Sản phẩm do họ làm ra được
kết tinh bởi tri thức tổng hợp cao hơn nhiều lần so với nguyên vật liệu và sức lực
cơ bắp cộng lại. Họ là những “công nhân trí thức” (cổ cồn, cổ trắng), có thu nhập
cao. Nghành nghề và lĩnh vực hoạt động, cùng vị trí và vai trò của họ trong xã
4
hội cũng thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn, không chỉ được các tầng lớp
giai cấp khác mà ngay cả giai cấp tư sản thống trị cũng phải tôn trọng và lắng
nghe tiếng nói của họ, quan tâm hợp tác và chia sẻ lợi ích với họ…
Chính vì thế, giai cấp công nhân truyền thống ở những nước phát triển cao
ngày càng giảm mạnh về số lượng, trong khi nội dung và hình thức đấu tranh của
“công nhân trí thức” lại mềm dẻo và linh hoạt hơn, thậm chí một bộ phận đi đến
thỏa hiệp và đồng lợi ích với giới chủ.
1.1.4. Sự điều chỉnh, cải cách của chủ nghĩa tư bản toàn cầu
Trước sự tàn phá và khủng hoảng kinh niên của nền kinh tế thị trường tự
do tư bản chủ nghĩa, trong quá trình vận động lịch sử của mình, về mặt chủ quan,
chủ nghĩa tư bản tất yếu có sự điều chỉnh để tồn tại và phát triển. Đặc biệt, về
mặt khách quan, đứng trước sự tồn tại song song mang tính chất phản chiếu của
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện thực, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách
mạng khoa học – nghệ đương đại diễn ra mạnh mẽ, buộc chủ nghĩa tư bản phải
có những điều chỉnh thích hợp, nhằm hạn chế sự đổ vỡ và cáo chung theo quy
luật xã hội mà nó không thể tránh khỏi sớm hay muộn.
Trong quá trình điều chỉnh đó, nó đã củng cố được tính hợp lý mới của tồn
tại, đồng thời tìm thấy và bắt tay với “đồng minh” của mình là những người thỏa
hiệp mang tư tưởng đòi dân chủ và tiến bộ xã hội (vốn có nguồn gốc từ phong
trào cộng sản và công nhân) ở ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản.
1.1.5. Trào lưu xã hội dân chủ
5
Trào lưu này được Látxan (nhà tư tưởng Đức) khởi xướng lý luận và xây
dựng thành một phong trào hiện thực khởi đi từ nước Đức vào nửa cuối thế kỷ
XIX, với chủ trương tập hợp giai cấp công nhân đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản thông qua con đường nghị trường, đòi dân chủ và bầu cử phổ thông đầu
phiếu. Nó đã từng lập ra “Quốc tế công nhân xã hội chủ nghĩa” năm 1923.
Ngày nay, trào lưu dân chủ xã hội đã phát triển qua các giai đoạn lịch sử
và hiện thực hóa khát vọng của mình bằng việc thành lập hàng loạt các đảng dân
chủ xã hội ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở châu Âu, nhằm tham chính và
lãnh đạo xã hội đi theo “con đường thứ ba” mà họ vạch ra.
Mặc dù đứng trên quan điểm đấu tranh cải lương và thỏa hiệp, nhưng nó
cũng có những ưu điểm nhất định. Trong bối cảnh chung của thời đại, trào lưu
này đang có sức thuyết phục, hiệu quả và là một hướng đi ngày càng thu hút sự
quan tâm của nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội, đặc biệt là ở các nước tư
bản phát triển, ít nhiều làm phân tán lực lượng cũng như sự chệch hướng và suy
giảm mục tiêu đấu tranh của một bộ phận công nhân và người lao động.
1.1.6. Cuộc khủng hoảng của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực
Mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời từ kết quả thành công của Cách
mạng Tháng Mười Nga, dựng lên nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới vào
năm 1917. Khoảng giữa thế kỷ XX, mô hình này đã được xác lập ở nhiều nước
và trở thành một hệ thống thế giới, trở thành một cực cân bằng tạm thời với chủ
nghĩa tư bản cho đến đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX; biến phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế trở thành nhân tố quyết định tiến trình đi lên của lịch sử nhân
6
loại, nhất là trong việc diệt họa phát xít, bảo vệ hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự ra đời của hơn 100 quốc gia độc lập…
Nhưng đến cuối tập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, mô hình chủ
nghĩa xã hội hiện thực lâm vào khủng hoảng sâu sắc và toàn diện, dẫn đến sự sụp
đổ ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
cũng đồng thời bị khủng hoảng và thoái trào trên hầu hết các phương diện, cách
mạng thế giới bị tấn công từ nhiều phía. Nó không những làm tổn thất to lớn về
cơ sở vật chất mà cả về cơ sở tinh thần, gây tâm lý hoang mang và khủng hoảng
niềm tin, ảnh hưởng đến chính trị, tư tưởng, tổ chức và phương thức hoạt động
của phong trào.
1.2. Sự vận động, phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
từ năm 1991 đến nay
Khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ,
Đảng ta đã nhận định: Chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào khủng hoảng. Từ đó đến nay đã gần 20
năm. Vậy, tình hình hiện nay thế nào? Phong trào cộng sản công nhân quốc tế đã
vượt qua được khủng hoảng hay chưa? Triển vọng tới đây sẽ ra sao?
C. Mác đã nhấn mạnh: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải
là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lí tưởng mà hiện thực
phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực,
nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của
những tiền đề đang tồn tại”. Như vậy, để trả lời cho các câu hỏi nêu trên, chúng
ta cần nhìn nhận phong trào cộng sản công nhân quốc tế là một phong trào hiện
thực, bao gồm các Đảng Cộng sản, Đảng Công nhân đang hoạt động ở các nước
7
khác nhau trên thế giới, có chung nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác (chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, chủ nghĩa xã hội khoa học), có chung mục tiêu chính trị và phối
hợp hoạt động với nhau vì thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Ở thời kì diễn ra Hội nghị quốc tế các Đảng Cộng sản và Công nhân tại
Mát-xcơ-va năm 1960, trên thế giới có 87 Đảng Cộng sản và công nhân. Sau khi
Liên Xô tan rã, không ít đảng trong số này đã chấm dứt tồn tại (như Đảng Cộng
sản Liên Xô, Liên đoàn những người cộng sản NamTư ) hoặc bị phân liệt hay
chuyển hóa; đồng thời lại hình thành thêm một số đảng mới.
2. Hiện có 5 đảng cộng sản và công nhân đang trực tiếp lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước
mình - đó là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng
sản Cu-ba, Đảng Lao động Triều Tiên và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân
dân các nước Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Triều Tiên và Lào chính là chủ
nghĩa xã hội hiện thực, là thành quả chung của phong trào cộng sản công nhân
quốc tế, là bộ phận đang đi tiên phong trong sự nghiệp đấu tranh của nhân loại
tiến lên hình thái kinh tế - xã hội mới – chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là
chủ nghĩa xã hội. Mọi thành công hay va vấp, thất bại, mọi bước tiến hay thoái
trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực đều ảnh hưởng và tác động sâu sắc đến
sphong trào cộng sản công nhân quốc tế.
Cơn chấn động chính trị từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước
Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô đã tác động sâu sắc đến 5 nước xã hội chủ
nghĩa còn lại. Và, mặc dù vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức
trong nước và với các âm mưu, hành động “diễn biến hòa bình”, can thiệp, phá
hoại, lật đổ của các thế lực đế quốc, thù địch…, song chủ nghĩa xã hội ở 5 nước
8
nói trên đã không chỉ kiên cường trụ vững, mà còn có những bước phát triển mới
được thế giới công nhận.
Rút kinh nghiệm từ những bài học thành công và thất bại của chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô, các nước Đông Âu và những kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước mình, 5 đảng cộng sản và công nhân cầm quyền ở Việt Nam, Trung
Quốc, Cu-ba, Triều Tiên, Lào đã và đang tích cực tìm tòi sáng tạo, cả về lí luận
và thực tiễn, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh của đất nước, dân tộc mình, phù hợp với những biến đổi diễn ra trên thế
giới. Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa từ cuối những năm 1970.
Việt Nam và Lào tiến hành đổi mới từ giữa những năm 1980. Cu-ba và Triều
Tiên hiện cũng đã tiến hành những bước đi đầu tiên trên con đường cải cách, đổi
mới. Bước phát triển mang tính đột phá trong tư duy lí luận và thực tiễn xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc của 5 nước xã hội chủ nghĩa này là
việc sử dụng kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của xã hội xã hội chủ
nghĩa. Các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới đều đánh giá cao điều này;
nhấn mạnh đây là sự phát triển rất có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn đối với
chủ nghĩa xã hội thế giới trong việc tự đổi mới để ra khỏi bước thoái trào tạm
thời sau khi chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, Liên Xô sụp đổ và tiếp tục phát triển.
Như Đại hội XXIII của Đảng Cộng sản Nhật Bản (tháng 1/2004) nhận định:
“Quá trình tìm tòi đổi mới tiến lên CNXH thông qua kinh tế thị trường ở Việt
Nam, Trung Quốc đang trở thành một hướng đi quan trọng của thế giới trong thế
kỉ XXI”. Còn cuộc Hội thảo quốc tế “Về triển vọng của chủ nghĩa xã hội” (họp
tại Pra-ha, Cộng hòa Séc, ngày 23 và 24-4-2005, với sự tham gia của 39 đảng
cộng sản, công nhân và cánh tả từ 34 nước trên thế giới) thì cho rằng: Sự phát
triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và việc gắn những ưu việt của chính
9
quyền nhân dân với những thành tựu mới nhất của khoa học và kĩ thuật, với sự
tham gia tích cực vào thị trường quốc tế của Trung Quốc và Việt Nam là sự bổ
sung độc đáo vào việc phát triển lí luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội”
4. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, có thời
kì quan hệ giữa các đảng Cộng sản và Công nhân trên thế giới bị gián đoạn. Từ
giữa những năm 1990, cùng với quá trình hồi phục của bản thân mỗi đảng, các
đảng cũng tích cực phục hồi và đổi mới các mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị và
sự hợp tác, phối hợp hoạt động giữa các đảng trên cơ sở độc lập tự chủ, bình
đẳng; khắc phục tình trạng “đảng lớn - đảng nhỏ”…
Ngày nay các đảng đều thống nhất tăng cường quan hệ trên cơ sở các
nguyên tắc: Độc lập tự chủ; bình đẳng; tôn trọng lẫn nhau; không can thiệp công
việc nội bộ của nhau; đoàn kết và hữu nghị với nhau. Ngoài các hình thức quan
hệ chủ yếu giữa các đảng như trao đổi đoàn, trao đổi lí luận, thông tin, tài liệu,
dự đại hội, tổ chức hội thảo, diễn đàn, nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm của
nhau , trong thời gian qua, đã hình thành một số diễn đàn hợp tác khu vực và
quốc tế thường niên giữa các đảng Cộng sản, Công nhân và cánh tả trên thế giới.
Đây cũng là một nét thể hiện sự hồi phục của phong trào cộng sản công nhân
quốc tế ở giai đoạn hiện nay. Các diễn đàn quốc tế hàng năm của các đảng Cộng
sản và Công nhân, các đảng cánh tả trên thế giới như “Diễn đàn Xao Paolô” (do
Đảng Cộng sản Cu-ba, Đảng Lao động Bra-xin, Đảng Cách mạng Dân chủ Mê-
hi-cô và Mặt trận rộng rãi U-ru-goay phối hợp tổ chức luân phiên tại các nước
Mỹ La-tinh, từ năm 1990 đến nay); “Cuộc gặp quốc tế các đảng Cộng sản và
Công nhân” (từ năm 1995 đến nay, lúc đầu do Đảng Cộng sản Hy Lạp đăng cai
tổ chức tại Aten – Hy Lạp, từ 2006, bắt đầu tổ chức luân phiên tại các khu vực
10
theo đăng cai của các đảng Cộng sản)… ngày càng phát huy vai trò quan trọng
trong phong trào cộng sản công nhân quốc tế.
5. Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI đã diễn ra nhiều đại hội thường
kì, cuộc gặp, hội nghị, hội thảo quốc tế của các đảng Cộng sản và Công nhân,
đảng cánh tả trên thế giới. Tại các đại hội đảng, các cuộc gặp, hội nghị, hội thảo
quốc tế đó, nhiều đảng Cộng sản và cánh tả có chung nhận định rằng: Cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay là rất sâu, mang tính hệ thống, động chạm
đến mô hình và triết lí phát triển chạy theo lợi nhuận của chủ nghĩa tư bản. Để
tránh sụp đổ, các nhà nước tư bản chủ nghĩa đang ra sức cứu trợ giới đại tư bản,
nhất là tư bản tài chính, ngân hàng; đồng thời, cắt giảm phúc lợi xã hội, an sinh
xã hội, thực hiện nguyên tắc “tư nhân hóa lợi nhuận, xã hội hóa rủi ro”, dồn mọi
gánh nặng khủng hoảng lên vai người lao động. Các tầng lớp lao động đang phải
gánh chịu những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng; các quyền lợi dân sinh,
dân chủ bị thu hẹp. Thực trạng đó đang làm cho sự bất bình của quần chúng
nhân dân ngày càng sục sôi. Đây là cơ sở khách quan thúc đẩy đấu tranh giai
cấp-xã hội. Tình thế này vừa mở ra thời cơ, vừa tạo nên thách thức rất lớn đối
với các đảng Cộng sản và Công nhân, các lực lượng cánh tả tiến bộ; nếu các
đảng đưa ra được mô hình, đường lối phát triển thích hợp, có tính khả thi với
hoàn cảnh nước mình và trên cơ sở đó tập hợp được quần chúng nhân dân, liên
minh rộng rãi với các lực lượng cánh tả, tiến bộ , thì sẽ có những bước phát
triển và giành được những thắng lợi mới; ngược lại, sẽ càng khó khăn gấp bội.
2. THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG CỦA PHONG TRÀO CỘNG
SẢN VÀ CÔNG NHÂN QUỐC TẾ TRONG NHỮNG THẬP NIÊN ĐẦU
THẾ KỶ XXI
11
2.1. Thực trạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế hiện
nay
Trước những tác động to lớn của toàn cầu hóa, cách mạng khoa học –
công nghệ, kinh tế tri thức, sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản toàn cầu, trào lưu
xã hội dân chủ và cuộc khủng hoảng của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực như
đã nêu trên, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế kể từ 1991 trở lại đây
đang có dấu hiệu phục hồi, tồn tại và phát triển trong điều kiện mới, phong phú
về nội dung và đa dạng về hình thức thể hiện. Tuy vẫn có những đặc điểm
chung, nhưng về cơ bản, đang có sự khác biệt lớn giữa phong trào ở các nước tư
bản phát triển, các nước đang phát triển và các nước xã hội chủ nghĩa còn lại sau
khủng hoảng.
2.1.1. Một số đặc điểm chung
Thứ nhất: Về cơ bản, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế hiện nay
đều dựa trên nền tảng tư tưởng chung là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó tuyệt nhiên
“không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra”, mà là “một phong trào hiện
thực”; “những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề đang tồn
tại”.
Thứ hai: Phong trào đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới của
thời đại, đó là từ sự biến đổi về lượng dẫn đến biến đổi về chất của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, kết cấu kinh tế - xã hội (trong đó có kết cấu giai cấp),
thay đổi phương thức sống và phương thức tư duy… trong bối cảnh toàn cầu hóa
và cách mạng khoa học – nghệ, sự phát triển của kinh tế tri thức, sự điều chỉnh
12
và thích nghi của chủ nghĩa tư bản, sự khủng hoảng của mô hình chủ nghĩa xã
hội hiện thực và sự thỏa hiệp của một bộ phận đi theo “con đường thứ ba”.
Về cơ hội, thời đại đang tạo ra những tiền đề mới và đưa nhân loại dịch
chuyển gần hơn về phía chủ nghĩa xã hội. Về thách thức, thời đại cũng tạo ra sự
biến đổi sâu sắc trong đội ngũ công nhân và những người lao động), dẫn đến sự
phân tán lực lượng, lợi ích và có sự chênh lệch ngày càng lớn về trình độ, điều
kiện sống ngay bên trong giai cấp công nhân (ở mỗi nước và giữa các nước với
nhau). Những cơ hội và thách thức đó đòi hỏi phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế hiện nay phải có sự phối hợp trên quy mô toàn cầu để tổng kết thực tiễn
và phát triển lý luận tương xứng.
Thứ ba: Phong trào đã có những bước phát triển mới về lý luận và linh
hoạt, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Trước hết, đó là quá trình nhận thức
ngày càng đầy đủ, đúng đắn và làm sáng tỏ hơn các vấn đề của thời đại, về quy
luật phát triển của xã hội loài người, cũng như quy luật vận động và phát triển
của bản thân phong trào. Đồng thời, có sự tìm tòi và hiện thực hóa con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, bước đầu đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Bên cạnh đó, đã tìm ra những hình thức tập hợp lực
lượng mới, với những phương thức tổ chức và hoạt động mới trên cơ sở tận dụng
cả những thành tựu lẫn hạn chế của quá trình toàn cầu hóa (đặc biệt là phong trào
chống mặt trái của toàn cầu hóa) và cách mạng khoa học – công nghệ đương đại
(đặc biệt là mạng thông tin toàn cầu).
Thứ tư: Phong trào đang tự đổi mới để phục hồi và phát triển. Trước hết là
sự đổi mới trong tổ chức và hoạt động theo hướng linh hoạt, phù hợp với bối
cảnh mới. Tiếp theo, quan hệ các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới (lực
13
lượng lãnh đạo, hạt nhân của phong trào) từng bước được khôi phục và củng cố;
không ngừng quan tâm mở rộng hợp tác, tăng cường phối hợp hành động và tập
hợp lực lượng trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Các quan
hệ được thiết lập trên nhiều cấp độ (song phương, đa phương, khu vực và toàn
cầu) và nhiều hình thức (hợp tác, trao đổi, hội nghị, hội thảo, diễn đàn…). Trong
đó, nguyên tắc quan trọng nhất trong quan hệ giữa các Đảng Cộng sản và công
nhân hiện nay là độc lập, tự chủ, bình đẳng, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, đoàn kết hợp tác vì lợi ích chung.
2.2.2. Phong trào cộng sản và công nhân ở khu vực Liên Xô (cũ) và
Đông Âu
Khu vực này vốn là cái nôi và từng là thành trì vững chắc của phong trào,
nhưng tiếc thay, đồng thời cũng là nơi phát sinh khủng hoảng, sụp đổ và chịu tổn
thất nặng nề nhất kể từ cuối thập niên 80 - đầu 90 của thế kỷ XX.
Ngày nay, các Đảng Cộng sản và công nhân đã từng bước hồi phục, đổi
mới hoạt động, củng cố cơ sở xã hội… Tại các cuộc bầu cử quốc hội và hội đồng
địa phương, nhiều đảng giành thắng lợi lớn, trở thành lực lượng đối lập mạnh
như Đảng Cộng sản Liên bang Nga, Đảng Cộng sản Séc và Mô-ra-va, một số
đảng ở vùng Trung Á, thậm chí có đảng liên tiếp giành được quyền đứng ra
thành lập chính phủ như Đảng Cộng sản Môn-đô-va…
Cũng cần thấy rằng, bên cạnh những bước củng cố và phát triển nhất định,
các Đảng Cộng sản và công nhân ở khu vực Liên Xô (cũ) và Đông Âu vẫn còn
đứng trước không ít khó khăn, hạn chế, chưa thoát ra khỏi khủng hoảng. Đường
lối, cương lĩnh của nhiều đảng còn chậm đổi mới, chưa chuyển kịp so với yêu
14
cầu của thời đại. Cơ sở xã hội của một số đảng bị thu hẹp mạnh. Tổ chức cơ sở
đảng chỉ có ở địa bàn cư trú, trong khi tại các khu vực sản xuất lại chưa được
thành lập. Vấn đề đoàn kết, hợp tác, phối hợp hoạt động giữa các đảng còn nhiều
bất cập, thậm chí tình trạng bất đồng, tranh giành ảnh hưởng đã làm giảm sức
mạnh chung của các lực lượng cộng sản và cánh tả.
2.2.3. Phong trào cộng sản và công nhân ở các nước đi lên xã hội chủ
nghĩa còn lại
Các nước đi lên chủ nghĩa xã hội còn lại sau khủng hoảng gồm: Trung
Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên và Lào. Ở những nước này, Đảng cộng sản
và công nhân đóng vai trò cầm quyền, là lực lượng duy nhất lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng cộng sản và
công nhân cầm quyền có cơ sở xã hội vững chắc, đội ngũ đảng viên không
ngừng gia tăng cả về số lượng và chất lượng, vị trí và vai trò của Đảng trên
trường quốc tế ngày càng được nâng cao, gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của
Trung Quốc (dân số đứng đầu thế giới, diện tích lớn thứ 3 thế giới, quy mô nền
kinh tế năm 2010 dự kiến đứng thứ 2 thế giới - chỉ sau Mỹ) và Việt Nam, sự
vươn lên vững chắc của Cu Ba, Triều Tiên và Lào.
Thành tựu cải cách và đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa trong thời
gian qua đã chứng tỏ sức sống và khả năng tự đổi mới để đi lên chủ nghĩa xã hội
là rất mãnh liệt, với sự tìm tòi khai phá những “đặc trưng cơ bản về xã hội xã hội
chủ nghĩa” ở Việt Nam, con đường đi lên “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc”… Tại Hội thảo quốc tế "Phát triển và sáng tạo: Chủ nghĩa xã hội thế giới
đầu thế kỷ XXI" được tổ chức ở Bắc Kinh (Trung Quốc, 10/2004), học giả nhiều
nước đánh giá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường mà
15
các nước xã hội chủ nghĩa đang tiến hành đã làm cho các Đảng Cộng sản - công
nhân và cả thế giới phải chú ý. Tỷ trọng các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay
trong nền chính trị và kinh tế quốc tế đã vượt xa thời kỳ Liên Xô đầu thế kỷ XX.
Vì thế, có thể khẳng định chắc chắn rằng, những nước xã hội chủ nghĩa
còn lại đang trở thành chỗ dựa và thành trì mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực
trên thế giới, có sự đóng góp to lớn và mang tính quyết định cả về mặt lý luận
cũng như về mặt thực tiễn cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
2.2.4. Phong trào cộng sản và công nhân ở các nước đang phát triển
Tại khu vực các nước đang phát triển ở Á, Phi và Mỹ La-tinh, phong trào
cộng sản và công nhân tuy chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng của
CNXH, song tuyệt đại đa số các Đảng Cộng sản vẫn kiên cường đứng trụ, cố
gắng tìm kiếm hình thức hoạt động thích hợp.
Đặc biệt, nhiều đảng cộng sản và công nhân ở các nước đang phát triển
hoặc là trở thành những đảng đối lập lớn hoặc là trở thành những đảng cầm
quyền, hoạt động tích cực, có cơ sở xã hội và ảnh hưởng mạnh, ở các nước như:
Mông Cổ, Ấn Độ, Nê-pan, Xi-ry, Nam Phi, En Xan-va-đo, Guy-a-na, Bô-li-vi-a,
U-ru-goay, Pa-ra-guay, Chi-lê, Đô-mi-ni-ca, Vê-nê-duê-la, Ê-cu-a-đo, Pê-ru,
Bra-xin, Ác-hen-ti-na…Nhìn chung, ở các nước đang phát triển, làn sóng cánh tả
đang dâng lên mạnh mẽ ở khu vực Mỹ Latinh, với chủ trương xây dựng “Chủ
nghĩa xã hội thế kỷ XXI”.
2.2.5. Phong trào cộng sản và công nhân ở các nước tư bản phát triển
16
Tại các nước tư bản phát triển, nơi trung tâm và chịu tác động mạnh nhất
của quá trình toàn cầu hóa, cách mạng khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức,
đã có những biến đổi to lớn về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, dẫn đến
biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp - xã hội. Bộ phận công nhân có trình độ học
vấn, tri thức, kỹ thuật cao đã và đang tăng nhanh ở các ngành nghề mới. Trong
30 nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), công nhân tri thức
chiếm từ 60% - 70% tổng lực lượng lao động xã hội.
Hiện nay, trong so sánh tương quan lực lượng ở các nước tư bản phát
triển, đang tồn tại tình trạng bất lợi cho phong trào công nhân. Do đó, điểm nổi
bật của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở các nước tư bản phát triển là
đấu tranh đòi dân chủ, cải thiện điều kiện sống và làm việc. Xác định đấu tranh
cho tự do, dân chủ là bước đệm dần dần xóa bỏ dân chủ tư sản, xây dựng dân
chủ vô sản, đòi mở rộng quyền công đoàn được tham gia tổ chức lao động, kiểm
soát việc thu nhận và sa thải công nhân, tự do ngôn luận đã làm cho chủ nghĩa
tư bản phải nhượng bộ từng bước. Điều quan trọng hơn là phong trào đấu tranh
đó đã thu hút đông đảo quần chúng lao động tham gia.
Cuộc đấu tranh giành dân chủ, công bằng xã hội ở các nước tư bản phát
triển còn gắn chặt với cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình, chống chạy đua vũ trang,
bảo vệ môi trường đã thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Các tổ
chức xã hội, đảng xã hội dân chủ, đảng xanh, đảng môi trường… đã hướng sự
quan tâm đặc biệt vào lĩnh vực này và đã trở thành đối thủ cạnh tranh với đảng
cộng sản, nhất là trong dịp các cuộc bầu cử.
Bằng con đường nghị viện, nhiều đảng cộng sản và công nhân đã giành
được các ghế nghị sĩ tại Thượng viện, Hạ viện ở Liên minh châu Âu, Pháp, Bồ
17
Đào Nha, Hy Lạp, Nhật Bản, I-ta-li-a, Tây Ban Nha, Đức, Thụy Điển, Đan
Mạch, Thụy Sỹ, Áo, v.v…
Đấu tranh chính trị, giành dân chủ của phong trào công nhân đã đưa đến
một xu hướng tất yếu là tăng cường liên minh giữa phong trào công nhân với các
phong trào chính trị xã hội tiến bộ khác trong một nỗ lực nhằm tạo sức mạnh
tổng hợp chống chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Điểm đáng chú ý nữa là hình thành
liên minh giữa các đảng cộng sản công nhân với các đảng xã hội dân chủ, cánh
tả. Tuy nhiên, do tình trạng không thuần nhất về cơ cấu giai cấp - xã hội của các
trào lưu này và sự vận động phức tạp của chủ nghĩa tư bản hiện đại nên trong
liên minh với họ, đảng cộng sản và công nhân luôn có xu hướng phải đồng thời
đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng sai trái của họ, đặc biệt là phái
hữu.
Các Đảng Cộng sản và công nhân ở các nước tư bản phát triển bày tỏ quan
điểm khá rõ ràng đối với quá trình toàn cầu hóa và những tác động của nó. Điều
này được thể hiện trong các cương lĩnh, tuyên bố chính trị, chương trình hành
động cũng như văn kiện đại hội gần đây của nhiều đảng. Thừa nhận toàn cầu hóa
là xu thế khách quan, song về cơ bản, các đảng như Đảng Cộng sản Pháp, Đảng
Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Anh, Đảng Cộng sản Hy Lạp, Đảng Tiến bộ của
nhân dân lao động Síp đều vạch rõ tính chất tư bản chủ nghĩa, tác động tiêu
cực của tiến trình toàn cầu hóa đối với người lao động, đặc biệt ở các nước
nghèo, chậm phát triển. Do đó, các đảng này đều xác định phải tích cực tham gia
đấu tranh chống mặt tiêu cực của toàn cầu hóa.
Nhìn chung, con đường chính trị, đấu tranh giành những quyền dân chủ
của phong trào công nhân như một tiền đề, điều kiện, một nội dung không tách
18
rời nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa là một hướng đấu tranh có tính thuyết
phục, hiệu quả cao và cũng là triển vọng của phong trào này trong những thập
niên đầu của thế kỷ XXI.
2.2. Triển vọng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong
thời gian tới
Từ khi ra đời đến nay, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế luôn đi
đầu trong cuộc đấu tranh chống sự thống trị, áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản
vì tiến bộ xã hội. Hiện nay tuy phong trào đang tạm thời lâm vào khúc quanh co,
khủng hoảng, song thực tiễn lịch sử năm đầu thế kỷ XXI đã khẳng định: phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế đã tạo ra ảnh hưởng sâu rộng, chi phối nhiều
mặt và tham gia quyết định sự vận động hợp quy luật của lịch sử xã hội loài
người trong thời đại ngáy nay, đó là thời đại quá đọ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
trong quá trình vận động có lúc cao trào, có lúc thoái trào, thậm chí thất bại. song
mục tiêu lâu dài mà phong trào theo đuổi là không thể thay đổi.
Ở Lào - nền sản xuất hàng hóa đi lên CNXH. CHDCND Triều Tiên từ
năm 2002 cũng bắt đầu cải cách theo hướng kinh tế thị trường, lựa chọn bước
đột phá vào lĩnh vực giá, tiền và phân phối. Năm 2003, nước này thông qua kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2003-2008), chủ trương khoán trong
nông nghiệp, xoá bỏ bao cấp, sửa đổi luật đầu tư để thu hút vốn nước ngoài, phát
triển một số khu công nghiệp và đặc khu kinh tế Nhiều ĐCS và công nhân trên
thế giới đánh giá cao sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế-xã hội của Trung
Quốc và Việt Nam. Cương lĩnh của ĐCS Nhật Bản thông qua tại Đại hội XXIII
(2004) khẳng định: Quá trình tìm tòi tiến lên CNXH thông qua kinh tế thị trường
19
của Việt Nam và Trung Quốc đang trở thành một hướng đi quan trọng của thế
giới trong thế kỷ XXI; tiến lên CNXH thông qua kinh tế thị trường là hướng đi
có tính quy luật của CNXH. Hội thảo quốc tế "Triển vọng của CNXH" của 39
ĐCS và công nhân được tổ chức tại Praha (Séc) năm 2005 cũng đánh giá cao sự
phát triển nền kinh tế thị trường XHCN và việc gắn những ưu việt của chính
quyền nhân dân với những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật, với sự
tham gia tích cực vào thị trường quốc tế của Trung Quốc và Việt Nam, coi đây là
sự bổ sung độc đáo về lý luận của CNXH.
Những thành tựu cải cách, đổi mới của các nước XHCN là một thực tế
sinh động chứng minh cho sức sống và khả năng tự đổi mới để đi lên của
CNXH. Các ĐCS và công nhân quốc tế coi đây là nguồn cổ vũ lớn lao, giúp họ
củng cố niềm tin vào lý tưởng XHCN. Sự tìm tòi, khai phá con đường đi lên
CNXH của các ĐCS cầm quyền trở thành một đóng góp quan trọng, có giá trị cả
về lý luận và thực tiễn cho việc phát triển CNXH, chủ nghĩa Mác - Lênin trong
điều kiện lịch sử mới. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình phục
hồi của PTCSQT, góp phần thiết thực vào việc tìm kiếm những phương thức
hoạt động hiệu quả của phong trào trong giai đoạn hiện nay.
Cùng với những thành tựu đạt được của các ĐCS cầm quyền, PTCS ở các khu
vực khác trên thế giới cũng có bước củng cố quan trọng.
Tại khu vực Liên Xô cũ và Đông Âu, vốn là nơi phong trào chịu tổn thất
nặng nề nhất sau sự biến chính trị cuối thập niên 80 - đầu 90, các ĐCS và công
nhân đã nhanh chóng hồi phục, đổi mới hoạt động, củng cố cơ sở xã hội, lấy lại
uy tín trong xã hội. Tại các cuộc bầu cử quốc hội và hội đồng địa phương, nhiều
đảng giành thắng lợi lớn, trở thành lực lượng đối lập mạnh như ĐCS Liên bang
Nga, ĐCS Séc và Môrava, một số đảng ở vùng Trung Á, thậm chí có Đảng liên
20
tiếp giành được quyền đứng ra thành lập chính phủ như ĐCS Mônđôva sau thắng
lợi tại các cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống gần đây.
Là một đảng lớn nhất ở khu vực Liên Xô cũ và Đông Âu, ĐCS Liên bang
Nga (KPRF) hiện có tổ chức đảng tại tất cả các chủ thể của nước Nga. Tại cuộc
bầu cử Đuma Quốc gia (Quốc hội) năm 1995 và 1999, KPRF là đảng giành được
nhiều phiếu nhất, chiếm tới 1/3 tổng số ghế. Trong cuộc bầu cử Đuma gần đây
nhất (2004), tuy Đảng bị giảm sút số ghế giành được, nhưng vẫn là một trong
những chính đảng thu hút được sự ủng hộ lớn nhất của nhân dân (12,3%). Tuy
nhiên, do những mâu thuẫn bất đồng nội bộ và sự can thiệp chống phá của các
lực lượng thù địch, đến Đại hội X (7/2004) KPRF đứng trước khó khăn vô cùng
to lớn, đội ngũ bị phân hoá sâu sắc. Đảng bị phân liệt do một bộ phận tách ra
tuyên bố thành lập ĐCS vì tương lai của nước Nga. Tình hình này đã khiến cho
lực lượng cộng sản và cánh tả Nga bị suy yếu khá nghiêm trọng. Từ Đại hội XI
(bất thường) năm 2006 đến nay, KPRF luôn hướng trọng tâm công tác vào việc
đưa ra những biện pháp nhằm khắc phục những vấn đề đang đặt ra, củng cố
Đảng về tư tưởng và tổ chức.
Cũng cần thấy rằng bên cạnh những bước củng cố và phát triển nhất định,
các ĐCS và công nhân ở khu vực Liên Xô cũ và Đông Âu vẫn còn đứng trước
không ít khó khăn, hạn chế. Đường lối, cương lĩnh của nhiều đảng đổi mới còn
chậm, chưa chuyển kịp so với yêu cầu của thời kỳ mới. Cơ sở xã hội của một số
đảng bị thu hẹp mạnh. Tổ chức cơ sở đảng chỉ có ở địa bàn cư trú, trong khi tại
các khu vực sản xuất lại chưa được xác lập. Vấn đề đoàn kết, hợp tác, phối hợp
hoạt động giữa các đảng còn nhiều bất cập, thậm chí tình trạng bất đồng, tranh
giành ảnh hưởng với nhau đã làm giảm sức mạnh chung của các lực lượng cộng
sản và cánh tả.
21
Tại khu vực các nước tư bản phát triển, càng về những năm gần đây càng
có những dấu hiệu phục hồi rõ nét. Trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn nội bộ,
lại thường xuyên bị các thế lực thù địch công kích gay gắt, nhưng nhiều ĐCS và
công nhân tại khu vực này vẫn kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, điều chỉnh chiến
lược, sách lược đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, bảo vệ lợi ích của các tầng lớp
lao động. Đi đầu theo hướng nêu trên phải kể đến những cố gắng của các ĐCS
Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, ĐCS Tái lập Italia, Đảng Tiến bộ của nhân
dân lao động Síp, ĐCS Nhật Bản Trong hoạt động của các đảng này, về đối
nội, điều chỉnh quan trọng nhất mà họ thực hiện là tập trung chống chính sách
kinh tế-xã hội theo chủ nghĩa tự do mới, chống đại tư bản độc quyền, vạch trần
các thủ đoạn bóc lột tinh vi của CNTB trong điều kiện cách mạng khoa học -
công nghệ hiện đại và toàn cầu hoá. Nhằm tập hợp lực lượng xã hội rộng rãi, các
ĐCS và công nhân ở các nước TBPT chú trọng mục tiêu đấu tranh vì dân sinh,
dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội. Nhờ vậy, ảnh hưởng và uy tín của nhiều
đảng mấy năm gần đây có xu hướng được củng cố, nâng cao.
Trên lĩnh vực đối ngoại, hiện nay tuyệt đại đa số các đảng ở đây đều nhấn
mạnh ưu tiên cho cuộc đấu tranh chống cường quyền đế quốc trong sinh hoạt
quốc tế. Họ phản đối nền ngoại giao "dân chủ, nhân quyền" mà Mỹ và phương
Tây sử dụng nhằm áp đặt và can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia có
chủ quyền. Trước việc NATO mở rộng sang phía Đông, Mỹ phát động chiến
tranh chống Irắc, thông qua chiến lược mới “đánh đòn phủ đầu”, thực hiện chính
sách cường quyền , các ĐCS và công nhân Tây Âu như ĐCS Hy Lạp, Đảng
Tiến bộ của nhân dân lao động Síp, các ĐCS ở Italia, Thuỵ Điển, Tây Ban Nha
đã lên tiếng phản đối gay gắt.
22
Các ĐCS và công nhân ở các nước tư bản phát triển rất quan tâm sự phát
triển của quá trình toàn cầu hoá (TCH) và tác động của nó, đồng thời cũng bày tỏ
quan điểm khá rõ ràng. Điều này được thể hiện trong các cương lĩnh, tuyên bố
chính trị, chương trình hành động cũng như văn kiện đại hội gần đây của nhiều
đảng. Thừa nhận TCH là xu thế khách quan, song về cơ bản, các đảng như ĐCS
Pháp, Đức, Anh, Hy Lạp, Đảng Tiến bộ của nhân dân lao động Síp đều nhấn
mạnh tính chất tư bản chủ nghĩa, tác động bất lợi của tiến trình TCH đang diễn ra
trên thực tế hiện nay đối với người lao động, đặc biệt ở các nước nghèo, chậm
phát triển. Do đó, các đảng này đều xác định phải tích cực tham gia và tìm kiếm
một chỗ đứng xứng đáng trong phong trào quốc tế chống mặt trái tiêu cực của
TCH đang diễn ra sôi động hiện nay.
Tại Nhật Bản, Đảng cộng sản là lực lượng đối lập mạnh thứ hai sau Đảng
Xã hội - dân chủ. Đảng vạch ra đường lối chiến lược thực tế hơn, chú trọng kết
hợp 3 nhiệm vụ: điều chỉnh chính sách để mở rộng mặt trận, liên minh với tất cả
các lực lượng chống đại tư bản độc quyền phản động; kiên trì chủ nghĩa cộng sản
khoa học và tăng cường đấu tranh vì dân sinh, dân chủ. Đại hội XIII (2004)
thông qua Cương lĩnh sửa đổi với sự bổ sung nội dung mới rất quan trọng, trong
đó xác định các bước đi của Đảng nhằm đạt được mục tiêu chiến lược "vì một xã
hội tương lai - xã hội XHCN/xã hội CSCN ". Cương lĩnh sửa đổi nhấn mạnh, sau
khi đã hoàn thành về cơ bản "những chuyển đổi dân chủ", bước tiếp theo sẽ là
"vượt qua chủ nghĩa tư bản", tiến hành những cải cách XHCN để đi lên
CNXH/CNCS. Theo quan điểm của ĐCS Nhật Bản, thì tiến lên CNXH từ một
nước TBCN phát triển là một con đường hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong
lịch sử nhân loại. ĐCS Nhật Bản sẽ là người khai phá, mở ra con đường phát
triển mới này trong thế kỷ XXI. Nhiệm vụ then chốt của sự nghiệp cải tạo
23
XHCN ở Nhật Bản sẽ là tiến hành xã hội hoá các tư liệu sản xuất. Đây được coi
là quá trình chuyển quyền kiểm soát, quản lý những tư liệu sản xuất cơ bản cho
toàn xã hội.
Tại khu vực các nước đang phát triển Á, Phi và Mỹ Latinh, PTCS tuy phải
chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng của CNXH, nhưng tuyệt đại đa số
các ĐCS vẫn trụ lại, cố gắng tìm kiếm hình thức hoạt động thích hợp. Một số
đảng hoạt động tích cực, có cơ sở xã hội và ảnh hưởng khá mạnh trong xã hội
như các ĐCS ở Ấn Độ, ĐCS Xiry, Ixraen, Nam Phi, ĐCS El Xanvađo, Guyana,
Bôlivia, Uruguay Trong đó, đáng chú ý là thắng lợi trong bầu cử của Đảng
Nhân dân Cách mạng Mông Cổ, ĐCS macxit-lêninit Thống nhất Nêpan, Đảng
Lao động Braxin, đưa các đảng này lên vị trí nắm quyền từ nhiều năm nay.
Một nét mới đáng chú ý trong PTCSQT thời gian gần đây là phong trào đã
nỗ lực tìm kiếm cơ chế phối hợp hoạt động chung, tập hợp lực lượng, tăng cường
đoàn kết, trao đổi kinh nghiệm, phối hợp hành động, góp phần nâng cao sức
mạnh của phong trào. Quan hệ giữa các ĐCS và công nhân (ĐCS-CN) trên thế
giới từng bước được khôi phục và củng cố lại đồng thời với bước phục hồi của
PTCSQT. Các mối quan hệ này, về cơ bản, được chỉ đạo theo tinh thần chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong bối cảnh lịch sử mới. Trong đó,
nguyên tắc quan trọng nhất trong quan hệ giữa các ĐCS-CN hiện nay là nguyên
tắc độc lập, tự chủ, bình đẳng, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
đoàn kết hợp tác vì lợi ích chung. Hình thức quan hệ giữa các ĐCS-CN hiện nay
phát triển mạnh nhất vẫn là hình thức quan hệ song phương. Từ chỗ trao đổi
thông tin, tài liệu, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, gần đây giữa các đảng đã xác
lập quan hệ trao đổi về mặt lý luận. Nhiều đảng đã hình thành cơ chế trao đổi lý
luận thường kỳ như giữa ĐCS Việt Nam với ĐCS Trung Quốc, ĐCS Cuba, Đảng
24
Nhân dân cách mạng Lào; giữa các ĐCS trong EU, SNG và ở khu vực Ban
Căng ĐCS Nhật Bản cũng đã thiết lập được cơ chế hợp tác trao đổi lý luận với
ĐCS Trung Quốc và một loạt ĐCS-CN châu Âu. Bên cạnh quan hệ song
phương, các quan hệ đa phương cũng được thúc đẩy khá mạnh. Theo hướng này,
hàng loạt hội nghị của các ĐCS-CN ở từng khu vực, từng châu lục và giữa các
châu lục được tổ chức. Các cuộc hội thảo, trao đổi lý luận và thực tiễn được
nhiều đảng quan tâm.
Ở khu vực châu Âu, các ĐCS-CN ở Tây Bắc Âu, Ban Căng, Đông Âu liên
tiếp tổ chức các cuộc gặp gỡ, bày tỏ quan điểm về nhiều vấn đề quan trọng của
khu vực và thế giới. Đáng chú ý nhất là việc ĐCS Hy Lạp từ năm 1998 đến nay
đã đăng cai tổ chức cuộc gặp giữa các ĐCS-CN tại thủ đô Aten gọi là "Cuộc gặp
quốc tế các ĐCS-CN quốc tế". Diễn đàn cuộc gặp quốc tế Aten đã trở thành hoạt
động thường niên của các ĐCS-CN toàn thế giới.Gặp mặt quốc tế Aten đã thu
hút ngày càng đông đảo đại biểu các ĐCS-CN từ khắp mọi khu vực, châu lục của
thế giới. Diễn đàn Aten trở thành phương thức tập hợp lực lượng với nhiều nét
mới phù hợp, có hiệu quả thiết thực của PTCSQT hiện nay. Các ĐCS-CN tham
dự diễn đàn gặp mặt đều đánh giá cao phương thức hoạt động chung này do đều
có cơ hội bình đẳng để bày tỏ quan điểm, chính kiến một cách dân chủ, không có
sự áp đặt trong mọi hoạt động của diễn đàn.
Nhận rõ tính đa dạng trong lập trường, quan điểm và điều kiện hoạt động
khác nhau giữa các ĐCS-CN, diễn đàn Aten luôn tìm kiếm và thể hiện tính sáng
tạo, linh hoạt đối với việc xử lý những vấn đề nhạy cảm trong quan hệ giữa các
ĐCS-CN nhằm thúc đẩy tình đoàn kết, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các đảng tham
gia diễn đàn. Do đó, từ việc lựa chọn hình thức, nội dung phối hợp hoạt động
đến việc xác định mức độ, khuôn khổ lập trường quan điểm chung cũng như
25