Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Kế toán hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Tổng Công ty Dệt – May Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (979.84 KB, 134 trang )

Header Page 1 of 146.

LUẬN VĂN:

Kế toán hạch toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm tại Tổng Công
ty Dệt – May Hà Nội

Footer Page 1 of 146.


Header Page 2 of 146.

PHẦN MỞ ĐẦU

Ngay từ những bước chân đầu tiên của lịch sử loài người, con người đã biết đến hoạt
động lao động sản xuất. Dù là giản đơn hay phức tạp thì sản xuất vẫn là hoạt động cơ bản,
không thể thiếu và quyết định đến sự tồn tại và phát triển của con người. Theo dòng chảy
thời gian, hoạt động sản xuất cũng không ngừng phát triển. Kèm theo đó là yêu cầu sản
xuất phải được quản lý chi tiết hơn, tinh tế hơn nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế và xã hội
cao cho doanh nghiệp.
Tại các doanh nghiệp sản xuất nói chung và tại Tổng Công ty Dệt – May Hà Nội nói
riêng, một công việc không thể thiếu nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý sản xuất chính là
hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Bởi dù doanh nghiệp sản xuất hoạt
động trong bất kỳ lĩnh vực nào thì kết quả sản xuất mà nó tạo ra cũng là sản phẩm đến tay
người tiêu dùng. Việc sản xuất những sản phẩm đó đồi hỏi phải được hạch toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm để làm căn cứ xác định giá bán và căn cứ xác định
kết quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
Không những thế, việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chi tiết
đến từng đối tượng còn giúp cho công tác quản lý dược tiến hành sát xao, từ đó đề ra
những kế hoạch sản xuất hiệu quả, đồng thời giúp ban quản lý doanh nghiệp giám sát việc


thực hiện kế hoạch sản xuất đó.
Với tư cách là một Tổng công ty Nhà nước lớn, một doanh nghiệp hàng đầu trong
lĩnh vực dệt – may Việt Nam, Tổng Công ty Dệt – May Hà Nội có rất nhiều sản phẩm với
những chủng loại, kích cỡ, kiểu dáng và màu sắc rất khác nhau, được hình thành từ nhiều
loại chi phí khác nhau. Trong điều kiện hết sức đa dạng và phong phú cả về các yếu tố
đầu vào lẫn các sản phẩm đầu ra như vậy nên tại Tổng Công ty Dệt – May Hà Nội, yêu
cầu đối với công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là cao và phức
tạp hơn rất nhiều, đồng thời là một nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của doanh
nghiệp.
Chính vì những vấn đề đã đề cập đến ở trên, em xin chọn đề tài luận văn là “Kế toán
hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Tổng Công ty Dệt – May Hà
Nội” nhằm làm rõ hơn công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
một doanh nghiệp sản xuất nói chung và tại Tổng Công ty Dệt – May Hà Nội nói riêng.

Footer Page 2 of 146.


Header Page 3 of 146.

Từ đó đưa ra những nhận xét và giảI pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của công tác hạch
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Tổng Công ty Dệt – May Hà Nội, góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh nói riêng, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và
đẩy mạnh sự phát triển của Tổng Công ty trong tương lai.

Footer Page 3 of 146.


Header Page 4 of 146.

PHẦN I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH Ở
DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

1.1. CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ PHƯƠNG PHÁP TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT
1.1.1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất
1.1.1.1. Chi phí sản xuất
Như chúng ta đã biết, sự phát sinh và phát triển của xã hội gắn liền với hoạt động lao
động sản xuất của con người. Cùng với thời gian thì sản xuất đã ngày càng phát triển, các
sản phẩm sản xuất ra không chỉ dừng lại ở chỗ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bản thân
mà còn được sử dụng để trao đổi, buôn bán trên thị trường. Nhưng dù ở bất kỳ thời điểm
nào, dù giản đơn hay phức tạp thì quá trình sản xuất luôn là sự kết hợp của ba yếu tố: tư
liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đặc biệt đối với một doanh nghiệp sản
xuất thì đó là quá trình chuyển hoá nguyên vật liệu đầu vào thành các sản phẩm đầu ra
dưới sự tác động của máy móc thiết bị và sức lao động của công nhân. Những hao phí về
sức người sức của ấy khi được thể hiện dưới hình thức giá trị thì trở thành chi phí sản
xuất.
Như vậy, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động
sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất
kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Về thực chất, chi phí là sự dịch
chuyển vốn – chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ).
Với khái niệm về chi phí nêu trên, ta thấy không có sự đồng nhất giữa chi phí và chi
tiêu. Bởi chi tiêu chỉ là sự giảm đi đơn thuần của các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của
doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tuy khác nhau về cơ bản nhưng
giữa chúng lại có mối liên hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở cho việc phát sinh chi
phí. Sự khác biệt giữa chúng (về lượng và thời gian) là do đặc điểm, tính chất vận động
và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu
hạch toán chúng.
Trong quá trình hoạt động của mình, bên cạnh những chi phí phát sinh do quá trình
sản xuất, doanh nghiệp còn phát sinh những chi phí khác không mang tính sản xuất như


Footer Page 4 of 146.


Header Page 5 of 146.

hoạt động bán hàng, hoạt động quản lý, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường. Tuy
nhiên chỉ có những chi phí được sử dụng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà
doanh nghiệp phải bỏ ra trong kỳ mới được tính vào chi phí sản xuất trong kỳ.
1.1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh bao gồm nhiều loại với nội dung, tính chất, công dụng,
vị trí, vai trò rất khác nhau, đòi hỏi phải được tiến hành phân loại sao cho phù hợp với
yêu cầu quản lý và hạch toán trong doanh nghiệp. Xuất phát từ những mục đích khác
nhau của quản lý mà chi phí sản xuất kinh doanh cũng được phân loại theo những mục
đích khác nhau. Tuy nhiên, chi phí sản xuất kinh doanh chủ yếu được phân loại theo hai
tiêu thức sau:
Thứ nhất, phân loại chi phí sản xuất theo nội dung và tính chất kinh tế của chi phí.
Theo tiêu thức này thì chi phí được phân thành các loại:
- Chi phí về nguyên liệu, vật liệu: gồm giá mua và chi phí thu mua của toàn bộ
nguyên vật liệu dùng cho hoạt dộng sản xuất kinh doanh trong kỳ, bao gồm giá trị nguyên
vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ (trừ giá trị vật liệu dùng
không hết nhập kho và phế liệu thu hồi).
- Chi phí về nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ
(trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
- Chi phí về tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương: gồm toàn bộ lương và các
khoản phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân, viên chức.
- Chi phí về các khoản trích theo lương: bao gồm phần bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, kinh phí công đoàn trích theo tỷ lệ quy định của người lao động.
- Chi phí về khấu hao tài sản cố định: phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố định trích
trong kỳ của các tài sản cố định tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Chi phí về dịch vụ mua ngoài sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Chi phí khác bằng tiền phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh mà chưa được phản
ánh trong các yếu tố chi phí nêu trên.
Phân loại chi phí theo cách này giúp chúng ta biết được tỷ trọng của từng loại chi phí
so với tổng số mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất, làm cơ sở cho việc xây
dựng các kế hoạch định mức về vốn lưu động trong các thời kỳ. Đồng thời đây cũng là tài
liệu quan trọng làm căn cứ xác định mức tiêu hao vật chất.

Footer Page 5 of 146.


Header Page 6 of 146.

Thứ hai, phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng của chi phí. Theo
tiêu thức này, chi phí được phân thành các loại:
- Chi phí nguyên vât liệu trực tiếp: bao gồm toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính,
vật liệu phụ, nhiên liệu,...tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất.
- Chi phí nhân công trực tiếp: gồn tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích
BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân sản xuất.
- Chi phí sản xuất chung: gồm những chi phí không phải là chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp nhưng lại phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản
xuất như chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên phân xưởng; chi
phí vật liệu phục vụ quản lý sản xuất; chi phí khấu hao tài sản cố định tại phân xưởng; chi
phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền phục vụ cho hoạt động và quản lý của
phân xưởng cũng như của đội sản xuất.
- Chi phí bán hàng: bao gồm toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến tiêu thụ sản
phẩm, hàng hóa, lao vụ.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: bao gồm những chi phí phát sinh liên quan đến vấn
đề quản lý trong doanh nghiệp.
Tác dụng của cách phân loại này là phục vụ yêu cầu quản lý chi phí theo định mức,

phục vụ công tác kế hoạch hoá và phân tích giá thành theo khoản mục; đồng thời giám sát
tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và hạ giá thành.
Thứ ba, phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển. Theo cách phân loại này, chi
phí sản xuất được phân thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. Trong đó chi phí sản
phẩm là những khoản mục chi phí gắn lièn với quá trình sản xuất sản phẩm (đối với
doanh nghiệp sản xuất) hay quá trình thu mua hàng hóa (đối với doanh nghiệp thương
mại). Nó bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí
sản xuất chung và chỉ được thu hồi sau khi sản phẩm được tiêu thụ hay hàng hóa được
bán ra. Còn đối với những sản phẩm hay hàng hóa chưa tiêu thụ thì chi phí sản phẩm sẽ
nằm trên khoản mục hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán. và khi được tiêu thụ nó sẽ
trở thành khoản mục giá vốn hàng bán trên báo cáo kết quả kinh doanh.
Khác với chi phí sản phẩm, chi phí thời kỳ là những chi phí dùng để hoạt động kinh
doanh trong kỳ, ngoài chi phí hàng tồn kho, khi phát sinh sẽ làm giảm lợi nhuận trong kỳ
của doanh nghiệp. Đối với một doanh nghiệp, chi phí thời kỳ bao gồm chi phí bán hàng

Footer Page 6 of 146.


Header Page 7 of 146.

và chi phí quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên giữa chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ có
điểm khác nhau cơ bản, đó là chi phí sản phẩm ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh
nghiệp ở nhiều kỳ khác nhau, do nó chỉ được tính vào kỳ mà sản phẩm tiêu thụ. Trong khi
đó chi phí thời kỳ thì ảnh hưởng lại trực tiếp đến lợi nhuận của kỳ mà nó phát sinh do nó
phát sinh vào kỳ nào thì được phản ánh luôn vào kỳ ấy.
Thứ tư, phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng công việc.
Theo như cách phân loại này thì chi phí được phân thành biến phí và định phí. Trong đó
biến phí là những chi phí thay đổi tỷ lệ thuận với khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ,
còn định phí thì ngược lại, không thay đổi về tổng số khi có sự thay đổi về số lượng trong
một chừng mực nào đó. Tuy nhiên, biến phí tính trên một đơn vị sản lượng lại không hề

thay đổi, còn định phí tính cho một đơn vị sản lượng lại thay đổi tỷ lệ nghịch với khối
lượng sản phẩm sản xuất ra.
Ngoài ra, trên thực tế, khi phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ giữa chi phí
với khối lượng công việc thì ngoài biến phí và định phí còn tồn tại một loại chi phí khác,
mang đặc điểm của cả hai loại chi phí trên. Tức là nó vừa có tính chất cố định lại vừa có
tính chất biến đổi so với tổng khối lượng sản phẩm. Ví dụ như chi phí điện thoại hay điện
sản xuất...Đối với loại chi phí này, đòi hỏi phảI có sự bóc tách thành chi phí cố định hay
chi phí biến đổi theo những phương pháp thích hợp nhằm phục vụ cho yêu cầu kế toán
quản trị trong doanh nghiệp.
Thứ năm, phân loại chi phí theo quá trình tập hợp chi phí. Theo như cách phân loại
này thì chi phí sản xuất được phân thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Trong đó
chi phí trực tiếp là những chi phí sản xuất có quan hệ trực tiếp đến việc sản xuất ra một
loại sản phẩm hay một công việc nhất định, bao gồm chi phí nguyên vật liệu chính, chi
phí vật liệu phụ, nhiên liệu, tiền lương và các khoản trích theo lương,…Do tính chất trực
tiếp của loại chi phí này mà nó được ghi trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí căn cứ
vào các số liệu hay chứng từ kế toán. Khác với chi phí trực tiếp, chi phí gián tiếp là những
chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí. Do đó nó không được hạch toán
trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí nào mà phảI được tập hợp chung cho tất cả các
đối tượng rồi mới tính toán và phân bổ c ho từng đối tượng theo những tiêu thức hợp lý.
Trong doanh nghiệp chi phí gián tiếp bao gồm chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí
dịch vụ mua ngoài,tiền lương nhân viên phân xưởng, chi phí khác bằng tiền,…Việc phân

Footer Page 7 of 146.


Header Page 8 of 146.

loại chi phí theo như tiêu thức trên giúp cho việc phân bổ đúng đắn chi phí, đồng thời tập
hợp chi phí đầy đủ, tạo điều kiện quản lý tốt chi phí.
Bên cạnh các cách phân loại nêu trên, để đáp ứng yêu cầu quản lý đặc thù tại từng

doanh nghiệp, người ta cũng có thế tiến hành phân loại chi phí theo các cách khác. Như
chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được (kiểm soát được đối với những
chi phí thuộc cấp quản lý của mình và ngược lại, phân loại chi phí như vậy giúp cho nhà
quản lý quản lý có hiệu quả nhũng chi phí thuộc cấp quản lý của mình và lập báo cáo kết
quả cho từng bộ phận trong doanh nghiệp), chi phí cơ hội (là lợi ích tốt nhất bị mất đi khi
lựa chon phương án này thay vì lựa chọn một phương án khác, nó giúp nhà quản lý cân
nhắc kỹ lưỡng trước khi ra quyết định), chi phí chênh lệch (là khoản chi phí có ở phương
án này nhưng không có hoặc chỉ có một phần ở phương án khác, nghiên cứu loại chi phí
này giúp cho nhà quản lý lựa chọn một dự án đầu tư hay kế hoạch sản xuất kinh doanh),
chi phí chìm (là loại chi phí mà doanh nghiệp luôn phải gánh chịu dù lựa chọn bất cứ
phương án kinh doanh nào. Nghiên cứu chi phí này giúp cho nhà quản trị bỏ qua những
chi phí không cần thiết hay không ảnh hưởng tới kết quả quyết định khi xem xét lựa chọn
phương án kinh doanh tối ưu).
Tóm lại có rất nhiều cách thức phân loại chi phí, mỗi cách thức tuy có một ý nghĩa
riêng nhưng chúng lại có mối liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau, cùng phục vụ
cho công tác kế toán quản trị nói chung và công tác quản lý chi phí nói riêng.s
1.1.2. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Để có thể tập hợp chính xác và kịp thời chi phí sản xuất, việc đầu tiên kế toán cần
làm là phải xác định đối tượng tập hợp chi phí. Đây là công việc ban đầu và hết sức quan
trọng, ảnh hưởng tới toàn bộ công tác hạch toán chi phí sản xuất tại doanh nghiệp. Để xác
định đối tượng tập hợp chi phí một cách đúng đắn, đáp ứng tốt yêu cầu quản lý, kế toán
căn cứ vào một số cơ sở sau:
- Căn cứ vào mục đích, tác dụng của chi phí cũng như của việc sử dụng chi phí. Ví dụ
như để phục vụ mục đích quản trị nội bộ trong doanh nghiệp, chi phí biến đổi được tập
hợp cho từng sản phẩm, trong khi đối tượng hạch toán chi phí cố định lại là trong phạm vi
toàn doanh nghiệp.
- Căn cứ vào đặc điểm loại hình sản xuất; với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng
loạt nhỏ, đối tượng hạch toán chi phí là các đơn đặt hàng riêng biệt. Còn đối với sản xuất

Footer Page 8 of 146.



Header Page 9 of 146.

hàng loạt với khối lượng lớn thì tuỳ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất là giản đơn
hay phức tạp mà đối tượng hạch toán chi phí có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm hay
từng giai đoạn công nghệ,...
- Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm; đối với sản xuất giản
đơn thì đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm hay toàn
bộ quá trình sản xuất. Còn đối với sản xuất mang tính phức tạp thì đối tượng hạch toán
chi phí lại là từng bộ phận, chi tiết của sản phẩm, hay từng giai đoạn chế biến, từng phân
xưởng sản xuất,...
- Căn cứ vào yêu cầu tính giá thành cho từng đối tượng tính giá thành. Ví dụ như nếu
yêu cầu tính giá thành cho toàn bộ một đơn hàng thì đối tượng hạch toán chi phí sẽ là toàn
bộ chi phí phát sinh để thực hiện đơn hàng ấy. Đối với những khoản chi phí phát sinh
chung cho quá trình sản xuất sản phẩm của nhiều đơn hàng thì được tập hợp chung cho
toàn bộ các đơn rồi mới tiến hành phân bổ theo một tiêu thức thích hợp. Hay như đối với
những sản phẩm phải trải qua nhiều bước, nhiều giai đoạn công nghệ mà có yêu cầu phải
tính giá thành bán thành phẩm thì đối tượng tập hợp chi phí sẽ là từng bước, từng giai
đoạn công nghệ.
- Căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh; căn cứ vào
năng lực chuyên môn nghiệp vụ của kế toán, vào mức độ trang bị các phương tiện kỹ
thuật phục vụ công tác kế toán mà có thể thực hiện chi tiết hoá đối tượng hạch toán chi
phí sản xuất ở nhiều góc độ. Trình độ càng cao thì mức độ chi tiết càng lớn.
Như vậy, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là từng phân xưởng, từng sản
phẩm, từng giai đoạn công nghệ hoặc cả quy trình công nghệ. Việc xác định đối tượng
hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác định đối tượng tập hợp chi phí mà thực chất
là nơi phát sinh chi phí (như phân xưởng, tổ, đội,...) và nơi chịu chi phí (như sản phẩm,
loại sản phẩm, giai đoạn công nghệ, công trình, hạng mục công trình,...)
1.1.3. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất

1.1.3.1. Các phương pháp chung và trình tự tập hợp chi phí sản xuất
Tuỳ thuộc vào đối tượng tập hợp chi phí mà kế toán vận dụng phương pháp tập hợp
chi phí phù hợp. Nhưng nhìn chung có 2 phương pháp để tập hợp chi phí sản xuất là
phương pháp tập hợp trực tiếp và phương pháp phân bổ (tập hợp gián tiếp).

Footer Page 9 of 146.


Header Page 10 of 146.

Đối với phương pháp tập hợp trực tiếp, kế toán căn cứ vào các chứng từ gốc phản
ánh các chi phí sản xuất đã phát sinh cho từng đối tượng chịu chi phí có liên quan để phản
ánh vào các tài khoản hoặc sổ kế toán chi tiết. Phương pháp này thường được áp dụng
cho các chi phí phát sinh liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt
(phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm, nhóm sản phẩm, lao vụ,...) như chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp hoặc chi phí nhân công trực tiếp.
Phương pháp phân bổ (tập hợp gián tiếp) được áp dụng trong trường hợp vật liệu
xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán
riêng được. Đối với phương pháp này ta phải lựa chọn một tiêu thức phân bổ phù hợp để
tiến hành phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí. Việc phân bổ được tiến hành theo các
bước sau:
- Xác định hệ số phân bổ:
Hệ số phân bổ

=

Tổng chi phí cần phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng

- Xác định mức chi phí phân bổ cho từng đối tượng:

Ci = Ti x H
Trong đó: Ci : Chi phí phân bổ cho đối tượng i
Ti : Tiêu chuẩn phân bổ cho đối tượng i
H : Hệ số phân bổ
Đối với mỗi loại chi phí, ta lại sử dụng những tiêu thức phân bổ khác nhau tuỳ thuộc
vào đặc điểm, tính chất và yêu cầu quản lý đối với loại chi phí đó. Nhìn chung việc tập
hợp chi phí được tiến hành theo các bước:
- Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử
dụng.
- Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất kinh doanh phụ từng
đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ.
- Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loại sản phẩm có liên
quan.
- Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, tính ra tổng giá thành và giá
thành đơn vị sản phẩm.

Footer Page 10 of 146.


Header Page 11 of 146.

Trình tự trên phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành nghề, vào trình độ
quản lý và hạch toán của bản thân doanh nghiệp cũng như vào mối quan hệ giữa các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Việc xác định một trình tự hợp lý có ý nghĩa quan trọng trong
việc tính toán giá thành một cách chính xác và kịp thời. Với trình tự như trên thì nội dung
và cách thức thực hiện cũng có sự khác nhau tuỳ thuộc vào phương pháp hạch toán hàng
tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp.
1.1.3.2. Kế toán chi phí sản xuất theo chế độ kế toán hiện hành
a) Kế toán chi phí sản xuất trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện kế toán
hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên

 Tài khoản sử dụng:
- TK 621 “Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp”: Tài khoản này dùng để phản ánh
chi phí nguyên vật liệu sử dụng trực tiếp cho sản xuất, chế tạo sản phẩm. Tài khoản này
có thể được mở chi tiết cho từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, sản phẩm,...).
- TK 622 “Chi phí nhân công trực tiếp”: Tài khoản này dùng để phản ánh toàn bộ các
khoản phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất và cũng được chi tiết cho từng đối tượng
tập hợp chi phí như TK 621.
- TK 627 “Chi phí sản xuất chung”: Tài khoản này được sử dụng để phản ánh những
chi phí phục vụ sản xuất, kinh doanh phát sinh trong quá trình sản xuất và chế tạo sản
phẩm. TK 627 được mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất.
Ngoài ra, để tiện cho việc quản lý, TK 627 còn được chi tiết thành 6 tiểu khoản cấp 2
để được theo dõi theo các yếu tố chi phí sản xuất. Đó là các tiểu khoản:
- TK 6271 “Chi phí nhân viên phân xưởng”: bao gồm chi phí về lương chính, lương
phụ, các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên phân xưởng và các khoản BHXH, BHYT,
KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định.
- TK 6272 “Chi phí vật liệu”: bao gồm các chi phí sản xuất chung cho phân xưởng
như sửa chữa, bảo dưỡng máy móc, chi phí vật liệu cho quản lý phân xưởng,...
- TK 6273 “ Chi phí dụng cụ sản xuất”: là chi phí về công cụ dụng cụ sản xuất được
dùng trong phân xưởng.
- TK 6274 “Chi phí khấu hao tài sản cố định”: bao gồm chi phí khấu hao tài sản cố
định thuộc cả các phân xưởng sản xuất kinh doanh chính lẫn phân xưởng sản xuất kinh
doanh phụ như máy móc thiết bị, nhà cửa, kho tàng,...

Footer Page 11 of 146.


Header Page 12 of 146.

- TK 6277 “Chi phí dịch vụ mua ngoài”: gồm chi phí dịch vụ mua ngoài phục vụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của phân xưởng như điện, nước, điện thoại,...

- TK 6278 “Chi phí bằng tiền khác”: bao gồm những chi phí bằng tiền khác ngoài các
khoản trên như chi phí hội nghị, tiếp khách, lễ tân,...
Bên cạnh đó, tuỳ theo yêu cầu quản lý của từng ngành nói chung và từng doanh
nghiệp nói riêng mà TK 627 có thể mở thêm một số tiểu khoản khác để phản ánh một số
nội dung hoặc yếu tố chi phí.

Footer Page 12 of 146.


Header Page 13 of 146.

 Phương pháp hạch toán đối với từng loại chi phí:
- Kế toán chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp:
Đối với những vật liệu khi xuất dùng chỉ liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập
hợp chi phí riêng biệt thì được tập hợp trực tiếp.
Đối với những vật liệu xuất dùng liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí mà
không thể thự hiện hạch toán riêng thì kế toán sử dụng phương pháp phân bổ gián tiếp.
Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng trong phân bổ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
thường là theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, theo số giờ máy chạy
hoặc theo sản lượng sản phẩm,...Công thức phân bổ được áp dụng giống như công thức
đã nêu trong phần phương pháp chung. Trong đó tổng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
cần phân bổ được tính theo công thức:
Tổng CPNVLTT
cần phải phân bổ =
trong kỳ

Giá trị thực tế của các
loại
NVL xuất trong kỳ


Giá trị

Giá trị
-

phế liệu thu

-

hồi

NVL
tồn cuối
kỳ

Trình tự tập hợp chi phí nguyên vật liệu được thể hiện qua sơ đồ 01
- Kế toán chi phí nhân công trực tiếp:
Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm những khoản thù lao phải trả cho công nhân
trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các dịch vụ, lao vụ như tiền lương chính,
lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp làm thêm, phụ cấp độc
hại,...) và các khoản đóng góp cho quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lện quy định dựa
trên số tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất.
Chi phí nhân công trực tiếp thường được tính trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi
phí. Tuy nhiên trong trường hợp chi phí nhân công trực tiếp có liên quan đến nhiều đối
tượng thì có thể tập hợp chung rồi tiến hành phân bổ theo những tiêu thức thích hợp cho
các đối tượng có liên quan. Các tiêu thức thường được sử dụng là tiền lương định mức,
giờ công thực tế, giờ công định mức,...

Footer Page 13 of 146.



Header Page 14 of 146.

Trình tự tập hợp chi phí nhân công trực tiếp được thể hiện trong sơ đồ 02

TK 151, 152, 111, 112, 331,...

TK 621

(1)

TK 154

(3)

TK 152
(2)

(1) Nguyên vật liệu trực tiếp xuất dùng cho sản xuất sản phẩm
(2) Vật liệu dùng không hết, nhập kho
(3) Kết chuyển nguyên chi phí vật liệu trực tiếp
Sơ đồ 01: Trình tự tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp

TK 334

TK 622

(1)

TK 154


(2)

TK 338
(3)

(1) Tiền lương và phụ cấp phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất
(2) BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định
(3) Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
Sơ đồ 02: Trình tự tập hợp chi phí nhân công trực tiếp
- Kế toán chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Nó đòi hỏi phải được tập
hợp theo đúng địa điểm phát sinh chi phí và phân bổ cho các sản phẩm hoặc công việc có
Footer Page 14 of 146.


Header Page 15 of 146.

liên quan do nó phát sinh trong phạm vi toàn phân xưởng và liên quan đến nhiều sản
phẩm, lao vụ.
Tuỳ thuộc vào chi phí sản xuất chung thuộc loại biến đổi (thay đổi theo khối lượng
sản phẩm hoàn thành) hay cố định (không thay đổi theo số lượng sản phẩm hoàn thành
như chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí quản lý hành chính ở phân xưởng, chi phí
bảo dưỡng máy móc thiết bị,...) mà kế toán tiến hành lựa chọn ra những tiêu thức phân bổ
thích hợp.
Đối với chi phí sản xuất chung mang tính chất biến đổi, kế toán tiến hành phân bổ
theo công thức:
Tổng biến phí SXC cần


Mức biến phí SXC
phân bổ cho từng đối

Tổng tiêu thức

phân bổ

=

x

Tổng tiêu thức phân bổ

tượng

phân bổ
của từng đối tượng

của tất cả các đối tượng

Riêng đối với định phí sản xuất chung, nếu mức sản phẩm sản xuất thực tế lớn hơn
mức công suất bình thường thì định phí sản xuất chung được phân bổ theo công thức:
Tổng định phí SXC cần

Mức định phí SXC
phân bổ cho từng đối =
tượng

phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ


Tổng tiêu thức phân
x

bổ của từng đối

của tất cả các đối tượng

tượng

Trong trường hợp còn lại, nếu mức sản phẩm sản xuất thực tế nhỏ hơn mức công
suất bình thường thì định phí sản xuất chung được phân bổ theo mức công suất bình
thường, trong đó lượng sản phẩm chênh lệch giữa thực tế so với mức sản xuất bình
thường được tính vào giá vốn hàng tiêu thụ (Còn được gọi là định phí SXC không phân
bổ). Công thức phân bổ như sau:
Mức định phí

Tổng tiêu thức phân bổ

SXC phân bổ cho

của mức sản phẩm SX thực tế

mức sản phẩm
thực tế

=

Tổng tiêu thức phân bổ của sản phẩm
theo công suất bình thường


Tổng định
x

phí SXC
cần phân bổ

Mức chi phí sản xuất chung tính cho phần sản phẩm chênh lệch thực tế với công
suất bình thường được tính theo công thức:

Footer Page 15 of 146.


Header Page 16 of 146.

Mức định phí

Mức định phí SXC không
phân bổ tính cho lượng sản
phẩm chênh lệch

=

Tổng định phí
SXC cần phân bổ

-

SXC phân bổ
cho mức sản

phẩm thực tế

Thông thường trong chi phí sản xuất chung, chi phí khấu hao tài sản cố định được
phân bổ theo số giờ hoạt động của máy. Trong khi đó chi phí dịch vụ mua ngoài có thể
được phân bổ theo số giờ máy chạy hoặc công suất thiết bị.
Chi phí sản xuất chung trong doanh nghiệp được tập hợp theo trình tự sau:
TK 334, 338
(1)

TK 627

TK 111, 112, 152

(5)

TK 152, 153
(2)

TK 154
(6)

TK 242, 335
(3)

TK 632
(7)

TK 214

TK 1331


(4)

TK 331, 111, 112,...
(8)

(9)

Footer Page 16 of 146.


Header Page 17 of 146.

(1) Chi phí nhân viên phân xưởng
(2) Chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ
(3) Chi phí theo dự toán
(4) Chi phí khấu hao tài sản cố định
(5) Các khoản thu hồi được ghi giảm chi phí sản xuất chung
(6) Phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng tính giá
(7) Kết chuyển chi phí sản xuất chung cố định (không phân bổ) vào giá vốn
(8) Chi phí dịch vụ mua ngoài
(9) Thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ (nếu có)
Sơ đồ 03: Trình tự tập hợp chi phí sản xuất chung

 Trình tự tập hợp chi phí sản xuất toàn doanh nghiệp:
TK 154
TK 621

TK 152, 111,...


(4)

(1)
TK 155, 152
TK 622

(5)

(2)
TK 157
TK 627

(6)

(3)
TK 632
(7)

(1) Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
(2) Chi phí nhân công trực tiếp
(3) Chi phí sản xuất chung
(4) Các khoản ghi giảm chi phí
(5) Giá thành sản phẩm thực tế nhập kho
(6) Giá thành sản phẩm thực tế gửi bán
(7) Giá thành thực tế sản phẩm tiêu thụ

Footer Page 17 of 146.


Header Page 18 of 146.


Sơ đồ 04: Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất sản phẩm theo phương pháp kê khai
thường xuyên
b) Kế toán chi phí sản xuất trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện kế toán
hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ
 Tài khoản sử dụng:
- TK 621 “ Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp”, TK 622 “Chi phí nhân công trực
tiếp”, TK 627 “ Chi phí sản xuất chung”.
- TK 154 “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” : phản ánh giá trị sản phẩm dở
dang đầu kỳ và cuối kỳ.
- TK 631 “Giá thành sản xuất” : được sử dụng để tổng hợp chi phí sản xuất sản
phẩm và tính ra giá thành các sản phẩm, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ. Tài
khoản này được chi tiết theo đối tượng hạch toán chi phí.
- TK 632 “Giá vốn hàng bán”.
 Phương pháp hạch toán:
Theo phương pháp này, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp không được phản ánh theo
từng nghiệp vụ xuất dùng mà chỉ được ghi một lần vào cuối kỳ hạch toán, sau khi đã tiến
hành kiểm kê và xác định được giá trị nguyên vật liệu tồn kho và đang đi đường. Việc
hạch toán chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung được thực hiện giống như
trong phương pháp kê khai thường xuyên. Riêng đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,
kế toán căn cứ vào số dư đầu kỳ và cuối kỳ trên các tài khoản hàng tồn kho (TK 152, 153,
154...) và giá trị vật liệu mua trong kỳ trên TK 611 để tính ra giá trị nguyên vật liệu xuất
dụng trong kỳ theo công thức:
Trị giá

Trị giá

Trị giá

Trị giá


Trị giá NVL

NVL

NVL

NVL

NVL

hàng hoá mất,

hàng hoá

= hàng hoá + hàng hóa

- hàng hoá

-

hao hụt (nếu

xuất

tồn kho

mua vào

tồn kho


xác

trong kỳ

đầu kỳ

trong kỳ

cuối kỳ

định được)

Theo phương pháp kiểm kê định kỳ, chi phí sản xuất chung được tập hợp theo trình tự:

Footer Page 18 of 146.


Header Page 19 of 146.

TK 333, 111,

TK 6111

112, 411...

TK 621
(4)

TK 631

(5)

(1)

TK 151, 152
(2)

(3)

(1) Giá trị vật liệu tăng trong kỳ
(2) Giá trị vật liệu chưa dùng cuối kỳ
(3) Kết chuyển giá trị vật liệu chưa dùng đầu kỳ
(4) Giá trị NVL dùng trực tiếp chế tạo sản phẩm
(5) Kết chuyển chi phí NVL trực tiếp
Sơ đồ 05: Hạch toán tổng hợp chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp

 Trình tự tập hợp chi phí toàn doanh nghiệp
(1)

TK 621

TK 631

TK 154

(5)
(2)

TK 622


TK 632
(6)

(3)

TK 627
(4)

Footer Page 19 of 146.


Header Page 20 of 146.

(1) Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ
(2) Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp
(3) Chi phí nhân công trực tiếp
(4) Chi phí sản xuất chung kết chuyển hoặc phân bổ cho các đối tượng tính giá
(5) Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ
(6) Tổng giá thành sản xuất của sản phẩm, dịch vụ nhập kho, gửi bán hay tiêu thụ trực
tiếp
Sơ đồ 06: Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất sản phẩm
theo phương pháp KKĐK

1.2. ĐÁNH GIÁ SẢN PHẨM DỞ DANG CUỐI KỲ TRONG DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT
Sản phẩn dở dang là lượng sản phẩm hoặc công việc còn đang trong quá trình sản
xuất, gia công chế biến hoặc đang nằm trên dây chuyền công nghệ. Đây cũng có thể là
những sản phẩm, công việc đã trải qua và hoàn thành một vài quy trình chế biến nhưng
phải được tiếp tục gia công thì mới trở thành sản phẩm hoàn chỉnh.
Để tính toán giá thành sản phẩm một cách hợp lý và sát thực thì phải tính toán và xác

định được phần chi phí sản xuất còn nằm ở số sản phẩm dở dang lúc cuối kỳ. Công việc
tính toán và xác định chi phí đó được gọi là đánh giá sản phẩm dở dang. Đây là một trong
những nhân tố quyết định đến tính trung thực và hợp lý của giá thành.
Để đánh giá chính xác về sản phẩm dở dang thì trước hết phải tổ chức kiểm kê chính
xác khối lượng sản phẩm làm dở thực tế, đi kèm với việc xác định mức độ hoàn thành của
chúng. Tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản
phẩm mà doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở
dang sau:
1.2.1. Đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu chính (CPNVLC)
hoặc theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (CPNVLTT)
Theo phương pháp này, người ta chỉ tính chi phí nguyên vật liệu chính hoặc chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp cho sản phẩm dở dang. Còn các chi phí gia công chế biến (như
chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung,...) được tính hết cho sản phẩm hoàn
thành theo công thức:

Footer Page 20 of 146.


Header Page 21 of 146.

Số lượng sản phẩm

Giá trị VLC
nằm trong

=

sản phẩm

Giá trị


DD cuối kỳ

DD

Số lượng
thành phẩm

Số lượng
+

x

sản phẩm
DD

VLC
xuất
dùng

Đây là phương pháp đơn giản, cho phép tính toán nhanh và dễ dàng với một khối
lượng tính toán ít. Tuy nhiên, phương pháp này lại không cho phép đánh giá chính xác
sản phẩm dở dang do đã bỏ qua toàn bộ chi phí chế biến. Nó thường được áp dụng trong
trường hợp doanh nghiệp sản xuất có số lượng sản phẩm dở dang ít, có chi phí vật liệu
chính hoặc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giá thành sản
phẩm. Đặc biệt chi phí đó phải được bỏ ra 1 lần từ lúc bắt đầu quy trình công nghệ sản
xuất chế tạo sản phẩm. Tuy nhiên trong trường hợp doanh nghiệp sản xuất theo một quy
trình công nghệ phức tạp theo kiểu chế biến liên tục thì chi phí sản phẩm dở dang ở giai
đoạn thứ nhất được tính theo chi phí vật liệu chính hoặc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,
còn ở các giai đoạn sau được tính theo giá thành bán thành phẩm của giai đoạn trước

chuyển sang. Toàn bộ chi phí bỏ ra ở giai đoạn sau sẽ được tính hết cho sản phẩm hoàn
thành trong giai đoạn đó.
1.2.2. Đánh giá sản phẩm dở dang theo phương pháp ước tính sản lượng tương
đương
Theo phương pháp này, người ta phải căn cứ vào mức độ hoàn thành của sản phẩm dở
dang để quy đổi số lượng sản phẩm dở dang đó thành số lượng sản phẩm hoàn thành
tương đương. Từ đó xác định chi phí cho sản phẩm dở dang cuối kỳ như sau:
Trường hợp 1, đối với chi phí bỏ ra một lần tại khâu ban đầu, không phụ thuộc vào mức độ
chế biến (vật liệu chính) được tính cho sản phẩm dở dang theo số lượng thực tế:
Tổng chi phí VLC

Chi phí VLC
tính cho sản

=

phẩm dở dang

Số lượng sản
phẩm hoàn thành

+

Số lượng

Số lượng sản

x

phẩm dở dang


sản phẩm
dở dang

Trong đó:
Tổng chi phí
VLC

Footer Page 21 of 146.

=

Chi phí VLC
DD đầu kỳ

+

Chi phí VLC phát
sinh trong kỳ


Header Page 22 of 146.

Trường hợp 2, đối với những chi phí bỏ ra dần theo mức độ chế biến (chi phí chế
biến) thì được tính cho sản phẩm dở dang theo tỷ lệ phần trăm hoàn thành (theo sản phẩm
hoàn thành tương đương):
Tổng chi phí chế biến

Chi phí
chế biến tính cho

sản phẩm
dở dang

=

Số lượng

Số lượng sp hoàn

Số lượng sản
phẩm hoàn thành

+

thành tương

x

sản phẩm
hoàn thành
tương đương

đương

Trong đó:
Tổng CP chế biến = CP chế biến DD đầu kỳ + CP chế biến phát sinh trong kỳ
Số lượng sản phẩm
hoàn thành tương đương

=


Số lượng sản phẩm
dở dang

x

Tỷ lệ %
hoàn thành

Từ đó tính ra giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ theo công thức:
Giá trị sản phẩm
dở dang cuối kỳ

=

Chi phí VLC tính
cho sản phẩm DD

+

Chi phí chế biến
tính cho sản phẩm DD

Phương pháp này giúp đưa ra kết quả đánh giá chính xác hơn so với phương pháp
đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu chính, do trong giá trị sản phẩm
làm dở đã bao gồm cả 3 khoản mục phí (tính theo mức độ hoàn thành). Tuy nhiên, khii áp
dụng phương pháp này, công việc tính toán sẽ trở nên phức tạp hơn, khối lượng tính toán
cũng nhiều hơn. Mặt khác, việc xác định mức độ hoàn thành của sản phẩm dở dang lại
khá phức tạp và mang tính chủ quan của con người.
Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp sản xuất sản phẩm mà

chi phí nguyên vật liệu chính hoặc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp không chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng chi phí và mức độ dở dang của sản phẩm không đồng đều giữa các kỳ.

Footer Page 22 of 146.


Header Page 23 of 146.

1.2.3. Đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí kế hoạch hoặc theo chi phí định mức
Theo phương pháp này, người ta căn cứ vào chi phí kế hoạch hoặc định mức ở từng
bước, từng giai đoạn công nghệ, tưng khâu công việc để làm cơ sở đánh giá sản phẩm dở
dang ở từng bước, giai đoạn, khâu công việc đó. Trong đó chi phí định mức được xác
định dựa trên khối lượng sản phẩm làm dở đã được kiểm kê, xác định ở từng công đoạn
và định mức từng khoản mục chi phí ở từng công đoạn sản xuất tương ứng cho từng đơn
vị sản phẩm. Đối với chi phí bỏ 1 lần ngay từ đầu, tính theo công thức:
CPSX của SPDD
cuối kỳ giai đoạn i

Số lượng SPDD cuối
=

kỳ

x

Định mức chi phí

giai đoạn i

giai đoạn i


Còn đối với chi phí bỏ dần dần trong quá trình chế biến thì chi phí dở dang được tính
như sau:
CPSX của

Số lượng

Mức độ

SPDD cuối kỳ = SPDD cuối kỳ x hoàn thành x
giai đoạn i

giai đoạn i

của SPDD

Định mức
chi phí
giai đoạn i

Trong phương pháp này, khi xác định mức độ hoàn thành của sản phẩm làm dở, kế
toán áp dụng phương pháp khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương nhưng là dựa
trên chi phí sản xuất định mức. Trong trường hợp không xác định được mức độ hoàn
thành của sản phẩm làm dở thì kế toán áp dụng theo phương pháp chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp hoặc nguyên vật liệu chính trực tiếp (dựa trên CPNVLTT hoặc CPNVL chính
định mức). Phương pháp này có ưu điểm là tính toán nhanh, dễ dàng, thuận lợi do đã có
hệ thống định mức sẵn. Nhưng trong quá trình áp dụng lại vấp phải một hạn chế đó là khó
khăn trong việc xây dựng được một hệ thống định mức chuẩn xác là vô cùng khó khăn.
Do đó, nó thường được áp dụng tại những đơn vị mà tại đó được hệ thống chi phí định
mức, chi phí kế hoạch được xây dựng một cách ổn định, sát với tình hình thực tế.

1.3. GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ THÀNH SẢN
PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.3.1. Giá thành sản phẩm và phân loại giá thành sản phẩm
1.3.1.1. Giá thành sản phẩm
Giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và
lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.

Footer Page 23 of 146.


Header Page 24 of 146.

Nói cách khác, đó là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp
bỏ ra bất kể ở kỳ nào nhưng lại có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm hoàn
thành trong kỳ. Một cách cụ thể hơn, giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham
gia trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ và phải được bồi hoàn để tái sản
xuất trong doanh nghiệp, mà không bao gồm tất cả mọi chi phí phát sinh trong kỳ kinh
doanh. Do vậy yêu cầu giá thành phải phản ánh đúng giá trị thực của các tư liệu sản xuất
tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ để có thể bù đắp được những hao phí về lao động sống và
lao động vật hoá mà quá trình sản xuất tạo ra.
Qua đó ta thấy, về bản chất, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là giống nhau vì
chúng cùng là biểu hiện bằng tiền về lao động sống và lao động vật hoá. Tuy nhiên chúng
khác nhau về lượng và thời gian.
Về mặt thời gian, chi phí sản xuất luôn bị gói trong một thời kỳ nhất định, không
phân biệt là cho loại sản phẩm nào, đã hoàn thành hay chưa. Trong khi đó việc tính giá
thành sản phẩm là việc xác định một lượng chi phí sản xuất tính cho một đại lượng kết
quả hoàn thành nhất định, bất kể chi phí sản xuất đó phát sinh ở kỳ nào. Về mặt lượng,
chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm liên hệ với nhau theo công thức:
Giá thành sp
hoàn thành


=

Chi phí SX
DD đầu kỳ

+

Chi phí SX phát
sinh trong kỳ

Chi phí SX
-

DD cuối
kỳ

Từ công thức trên ta thấy, giữa chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ và giá thành sản
phẩm luôn có sự chênh lệch về mặt lượng do đầu kỳ và cuối kỳ tại doanh nghiệp có sản
phẩm dở dang. Nếu như doanh nghiệp không có sản phẩm dở dang hoặc sản phẩm dở
dang đầu và cuối kỳ bằng nhau thì lúc này, giá thành sản phẩm chính là bằng tổng chi phí
sản xuất phát sinh trong kỳ.
1.3.1.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Để đáp ứng những yêu cầu khác nhau trong quản lý, hạch toán và trong công tác kế
hoạch hoá giá thành, ngươig ta đã tiến hành phân loại giá thành theo những tiêu thức khác
nhau:
 Theo thời điểm lập và nguồn số liệu, giá thành được chia làm 3 loại, giá thành kế
hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế:

Footer Page 24 of 146.



Header Page 25 of 146.

- Giá thành kế hoạch: là giá thành được xác định trên cơ sở giá thành thực tế kỳ
trước và các định mức bình quân tiên tiến, dự toán chi phí của kỳ kế hoạch và không biến
đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch.
- Giá thành định mức: là loại giá thành sản phẩm được xây dựng trên cơ sở các định
mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu
tháng). Do đó nó luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được
trong quá trình sản xuất sản phẩm.
- Giá thành thực tế: được xác định dựa trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế phát
sinh và tập hợp trong kỳ cùng với khối lượng sản xuất thực tế trong kỳ.
Trong đó giá thành kế hoạch và giá thành định mức được tính toán trước khi tiến hành
sản xuất. Còn giá thành thực tế lại được xác định sau khi quá trình sản xuất đã hoàn
thành.
 Theo phạm vi tính giá thành, giá thành được chia làm 2 loại, giá thành sản xuất và giá
thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ):
- Giá thành sản xuất: là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí sản xuất mà doanh
nghiệp bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất, bao gồm
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
- Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ): là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các chi
phí để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, bao gồm chi phí sản xuất, chi phí
quản lý và chi phí bán hàng.
1.3.2. Đối tượng tính giá thành
Đối tượng tính giá thành trong doanh nghiệp sản xuất là các loại sản phẩm, công việc
hoặc lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra cần phải được tính giá thành và giá thành đơn vị.
Nếu khi xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất, người ta xác định giới hạn tập hợp
chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí thì khi xác định
đối tượng tính giá thành, người ta lại xác định thành phẩm, bán thành phẩm, công việc,

lao vụ nhất định mà có thể và đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng đó có thể
là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất, cũng có thể đang nằm trên dây chuyền công
nghệ, tuỳ thuộc vào chế độ hạch toán kinh tế mà doanh nghiệp áp dụng. Ví dụ như khi
căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất, nếu chỉ là sản xuất giản đơn thì đối
tượng tính giá thành chính là sản phẩm cuối cùng, còn nếu là sản xuất phức tạp thì đối

Footer Page 25 of 146.


×