Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VĂN HÓA VĂN HÓA LÀNG VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN VỀ TÍNH CỘNG ĐỒNG TRONG VĂN HÓA LÀNG Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.2 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Đồng bằng Bắc bộ hiện nay là một vùng đất chiếm vị trí quan trọng trong
sự phát triển cả về kinh tế, văn hoá, lẫn quân sự của Việt Nam. Từ vị trí địa
chính trị cùng với điều kiện tự nhiên được tạo bởi hệ thống mạng lưới sông ngòi
dày đặc và miền khí hậu đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, mà các cư dân
nơi đây có một sắc thái văn hóa riêng có - văn hóa Làng Việt Bắc Bộ gắn liền
với nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước.
Làng Việt Bắc Bộ là nơi bao đời nay cư dân Việt cư trú, lao động, sản
xuất và tổ chức mọi sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt tinh thần; đồng thời là nơi cố
kết quan hệ dòng tộc, xóm giềng. Làng là mô hình để con người theo đó mà mở
rộng ra xây dựng tổ chức quốc gia, đô thị. Làng còn là pháo đài để chống giặc
ngoại xâm bảo vệ sự bình yên cho dân tộc, cho đất nước. Văn hóa làng chính là
hệ thống những giá trị được hình thành và kết tinh qua bao đời trong toàn bộ các
hoạt động của con người, nó cũng chính là công cụ, là phương tiện tổ chức và
duy trì toàn bộ các hoạt động xã hội trên một phạm vi địa giới lãnh thổ nhất
định. Văn hóa làng đi vào tâm tư, tình cảm con người bằng hàng loạt những giá
trị văn hóa vật chất và tinh thần.
Văn hóa Làng Việt Bắc Bộ mà đặc trưng nổi bật là ý thức cộng đồng làng,
ý thưc tự quản, quyền quản lý xã hội được thể hiện trong hương ước của làng và
tính độc đáo rất riêng của làng trong tập quán, nếp sống, tín ngưỡng, tôn giáo kể
cả giọng nói và cách ứng xử. Văn hóa Làng Việt Bắc Bộ mang đầy đủ những
đặc trưng cơ bản của văn hóa làng Việt Nam, tuy nhiên tinh thần đoàn kết, cố
kết cộng đồng được biểu hện rõ nét hơn cả, trở thành những giá trị nổi trội nhất
so với các phẩm chất quan trọng khác như: tính ưa hài hòa, khuynh hướng thiên
về âm tính, tính tổng hợp, tính linh hoạt…Vì vây, làm rõ đặc điểm và tính cộng
đồng của Làng Việt Bắc bộ, bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống
trước những tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế
luôn là vấn đề mang tính khách quan đặt ra hiện nay.

1



NỘI DUNG
1. Đặc điểm văn hóa Làng Việt Bắc bộ
Làng là đơn vị cư trú cơ bản của nông thôn người Việt và đã hình thành từ
rất sớm (trước khi có Nhà nước). Đầu tiên làng là điểm tụ cư của những người
cùng huyết thống, sau đó để phù hợp với sự phát triển của xã hội và lịch sử ,
làng còn là điểm tụ cư của những nhóm người cùng nghề nghiệp, bao gồm nhiều
dòng họ khác nhau. Khi Nhà nước ra đời, làng là một đơn vị hành chính cơ sở
của nhà nước và là một tổ chức tự quản, quân sự và văn hoá khá hoàn chỉnh.
Cùng với việc xuất hiện làng trong lịch sử Việt Nam, văn hoá làng cũng ra đời,
trở thành nét đặc trưng của văn hoá dân tộc.
Như vậy, có thể khẳng định: Làng là một đơn vị cộng cư của cư dân nông
nghiệp định cư trên một vùng đất chung, một hình thức tổ chức xã hội nông
nghiệp tự cấp, tự túc. Đó cũng là mẫu hình phù hợp với xã hội có nền sản xuất
tiểu nông. Làng được hình thành và tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội
nguồn và cùng địa vực. Làng có sức sống mãnh liệt với cấu trúc động, không có
làng bất biến, sự biến đổi của làng thường chịu sự tác động của sự biến đổi
chung đất nước.
Làng Việt ở Bắc bộ là hình thức công xã nông thôn với những đặc thù
riêng của làng được thể hiện ở chế độ ruộng đất, chế độ công điền, các hình thức
và nguyên tắc tổ chức xã hội như lệ làng, tín ngưỡng, lễ hội làng của các cư dân
Đồng bằng Bắc bộ. Làng Việt Bắc bộ mang những đặc điểm cơ bản làng Việt
Nam, tuy nhiên xét theo chiều sâu văn hóa “trong các sắc thái phong phú và đa
dạng của văn hóa Việt Nam, Đồng bằng Bắc bộ như là một vùng văn hóa độc
đáo và đặc sắc”(1), những sắc thái văn hóa độc đáo đó được quy định bởi các đặc
điểm cơ bản:
1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội
Sau hàng triệu năm hình thành và hàng nghìn năm khám phá của người
Việt, vùng Đồng bằng Bắc Bộ dần được định hình cho đến ngày nay “đồng bằng
1


PGS,TS Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt Nam, Nxb KHXH, H.1993, Tr.280

2


Bắc Bộ bao gồm lưu vực của sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã…” (2)bao
gồm phần trũng, phần bằng, trung du của các tỉnh, thành: Hà Nội, Hải Phòng,
Hưng Yên, Nam Định, Hải Dương, Hà Nam, Thái Bình, Ninh Bình, Bắc Ninh,
Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Khí hậu nhiệt đới gió
mùa tương đối rõ nét cùng một mạng lưới sông ngòi dày đặc tạo nên một sắc
thái riêng trong tập quán canh tác, cư trú, tâm lý ứng xử cũng như sinh hoạt
cộng đồng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
Ở Đồng bằng Bắc Bộ, người dân sống quần tụ thành làng, một hình thái
cộng cư với những thiết chế phù hợp với điều kiện tự nhiên ở đây. Làng là kết
quả của các công xã thị tộc nguyên thuỷ chuyển sang công xã nông thôn. Các
vương triều phong kiến đã chụp xuống công xã nông thôn ấy tổ chức hành chính
và nó trở thành các làng quê. Có thể nói, làng là một đơn vị quần cư chủ yếu do
nền văn minh nông nghiệp lúa nước và tổ chức xã hội truyền thống Việt Nam
hình thành. Trong lịch sử, làng có vị trí và vai trò quan trọng trên tất cả các lĩnh
vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá xã hội ….Làng là nơi cộng đồng dân cư
sinh sống, liên kết chặt chẽ với nhau, trong quan hệ kinh tế, họ tộc, hội hè, tín
ngưỡng, giúp đỡ nhau khi vui buồn cũng như lúc hoạn nạn. Làng ở Đồng bằng
Bắc bộ có những đặc điểm cơ bản cả về tự nhiên, kinh tế xã hội:
Một là, đặc điểm về mặt hành chính
Làng là cơ sở, là tế bào, là đơn vị hành chính nhỏ nhất của một tổ chức bộ
máy nhà nước. Tuy nhiên trong mỗi làng đều có một bộ máy quản lý có tính tự
quản, với những thiết chế và luật lệ nhất định. Đến thời phong kiến tập quyền,
các chính quyền Nhà nước Trung ương ngày càng can thiệp vào bộ máy quản lý
của làng, lấy làng, xã làm cấp cai trị về hành chính. Tuy vậy, bên cạnh các chức

vụ đứng đầu do làng, xã cử ra và được Nhà nước phong kiến quyết định, thì
trong bộ máy quản lý làng, xã còn có các tiên, thứ chỉ, Hội đồng bô lão (Hội
đồng Kỳ hào, Kỳ mục), các chức dịch, hương chức…Và về thực chất, quyền
hành cao nhất trong các làng, xã vẫn thuộc về các tiên chỉ, thứ chỉ và Hội đồng
Kỳ hào, Kỳ mục. Do đó, bộ máy quản lý làng, xã vẫn cơ bản mang tính tự quản.
2

Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, H. 2006, Tr.2234

3


Nó chi phối đến mọi công việc của làng và hầu hết các hoạt động của thành viên
trong làng. Để thực hiện quyền tự quản của mình, bộ máy quản lý của làng
không ngừng đặt ra các thiết chế, luật lệ, phép tắc riêng và áp đặt các thiết chế,
luật lệ ấy vào đời sống làng, xã. Từ thế kỷ XIII, XIV trở đi, nhiều thiết chế, luật
lệ của các làng đã được văn bản hóa thành những hương ước, khoán ước và thực
sự trở thành công cụ của bộ máy quản lý các làng, xã ở nông thôn. Điều đó vừa
duy trì tính cộng đồng vừa làm tăng sự ràng buộc và sự lệ thuộc của người dân
vào các thiết chế của cộng đồng làng.
Đứng đầu làng là lý trưởng nay là trưởng thôn, trưởng xóm người đại diện
của dân làng trong mối quan hệ với nhà nước, là người có trách nhiệm truyền
đạt nội dung các mệnh lệnh của trên và tổ chức thực hiện các mệnh lệnh đó
trong phạm vi làng mình như: nộp thuế, giao lính…Đồng thời, cũng là cầu nối
để người dân trong làng bày tỏ tâm tư, nguyện vọng hoặc đề xuất các biện pháp
xây dựng làng với các cấp có thẩm quyền của nhà nước. Mặc dù vậy, lý trưởng
vẫn phải tuân thủ các quyết định, quy định của Hội đồng Kỳ hào, Kỳ mục đưa
ra. Các công việc của làng hầu như nhà nước không điều chỉnh mà do làng tự
quyết định, vì vậy người Việt ở đây thường có câu: “Phép vua thua lệ làng”.
Hai là, đặc điểm về kinh tế

Kinh tế chủ yếu “cư dân ở Đồng bằng Bắc bộ là cư dân sống với nghề
trồng lúa nước , làm nông nghiệp một cách thuần túy” (1). Nói cách khác, kinh tế
chủ yếu là nông nghiệp, nhưng nông nghiệp mang tính trọng nông và tự cung, tự
cấp. Đây là một trong những đặc trưng nổi bật nhất của nền kinh tế xã hội nông
nghiệp truyền thống. Hầu như ở các làng đều có các hoạt động sản xuất tương tự
giống nhau, bao gồm các hoạt động nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, buôn bán
nhỏ và khai thác sản vật tự nhiên để tự sản xuất những sản phẩm cho nhu cầu
tiêu dùng cơ bản nhất của dân cư trong làng. Trong cấu trúc kinh tế ấy, nông
nghiệp là hoạt động căn bản nhất và luôn được xem là “nghề gốc” của đa số các
hộ dân cư. Hoạt động nông nghiệp bao trùm và chi phối đến tất cả các hoạt động
kinh tế khác. Trong đó, sản xuất lương thực, mà đặc biệt là sản xuất lúa gạo đã
1

Sđd, Tr.236-237

4


phát triển từ rất sớm và trở thành ngành sản xuất chính, là nền tảng cho các hoạt
động kinh tế khác. Điều này được quy định trước hết bởi các điều kiện tự nhiên
của sản xuất và tập quán, nhu cầu sử dụng lúa gạo làm lương thực đã có từ lâu
đời của dân cư, cả ở đồng bằng lẫn trung du miền núi. Do đó, sản xuất lúa gạo
và lương thực đã trở thành phương thức sản xuất và sinh sống vừa có ý nghĩa
sinh tồn vừa có ý nghĩa truyền thống của hầu hết các làng xã trong suốt chiều
dài lịch sử. Bên cạnh sản xuất lúa gạo, dân cư các làng còn trồng các loại cây
hoa màu, cây ăn quả và rau đậu thực phẩm, đồng thời với chăn nuôi gia súc, gia
cầm, thả cá, đánh bắt thủy hải sản, khai thác sản vật tự nhiên… Song, toàn bộ
các hoạt động kinh tế này chỉ là các hoạt động phụ để tận dụng lao động nông
nhàn, bổ sung sản phẩm cho nhu cầu lương thực và phục vụ nhu cầu tiêu dùng
trực tiếp của các hộ dân cư. Khi dân số các làng ngày càng tăng lên, đất ở và đất

đai canh tác trở nên chật hẹp, lương thực và hoa lợi thu được ngày càng không
đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng tại chỗ của dân cư, thì một mặt, đất đai và sản
xuất lương thực càng được coi trọng hơn, sử dụng triệt để hơn. Song, cấu trúc
kinh tế cũng như phương thức sản xuất và sinh sống của dân cư về cơ bản không
có những thay đổi, vẫn chỉ là sự tái lập hay nối tiếp truyền thống nông nghiệp và
tập quán sinh sống bằng nghề trồng lúa của những làng quê cũ. Cho đến thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX ở Ðồng bằng Bắc Bộ cây lúa đã trở thành độc canh, được
trồng hầu như trên toàn bộ các cánh đồng, việc canh tác và thâm canh lúa được
tiến hành ráo riết nhưng cũng chỉ gần đủ cho nhu cầu về gạo của dân chúng.
Phương thức sản xuất và sinh sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, lấy
nông nghiệp làm cốt lõi sinh tồn đã trở thành tập quán sinh sống, thành tư tưởng,
ý thức và tình cảm ngấm sâu trong tiềm thức của người dân nông thôn. Ở đây,
nông nghiệp vừa là tất yếu sinh tồn, nhưng cũng là ước mơ, khát vọng về sự
giầu có, sung túc và thịnh vượng của dân cư. Đất đai, ruộng vườn, lúa gạo hay
trâu bò luôn được coi là thước đo về sự giàu có, sung túc. Và từ đó, tư tưởng “dĩ
nông vi bản” đã trở thành ý thức hệ phổ biến, hầu như bất di bất dịch, kể cả đối

5


với tầng lớp quan lại phong kiến cũng như đối với người nông dân và các tầng
lớp dân cư khác.
Bên cạnh sản xuất nông nghiệp là cơ bản, thì trong nền kinh tế xã hội
truyền thống, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng xuất
hiện từ rất sớm, gắn liền với hoạt động nông nghiệp và hỗ trợ, bổ sung cho nông
nghiệp. Theo thống kê cho đến thế kỷ XIX đã có tới hơn 40 làng chuyên dệt vải,
lụa; hơn 20 làng làm nghề gốm sứ, hàng chục làng chuyên làm nghề thêu,
nhuộm, nghề mộc, rèn, đúc đồng, đan lát mây tre,… Nhiều loại sản phẩm thủ
công nghiệp đã nổi tiếng, và không ít mặt hàng đạt tới trình độ kỹ nghệ cao, trở
thành những sản phẩm có ý nghĩa văn hóa, tinh thần, biểu trưng cho tài nghệ và

truyền thống của các làng. Việc giao lưu, trao đổi hàng hóa và hoạt động thương
nghiệp cũng ngày càng mở rộng. Ở Ðồng bằng Bắc Bộ trước đây, cứ khoảng vài
ba làng lại có một chợ tổng hay chợ huyện là nơi buôn bán, trao đổi hàng hóa
giữa các làng trong vùng. Ở những làng xã có các nghề tiểu thủ công nghiệp
phát triển thì việc buôn bán, trao đổi hàng hóa cũng thường xuyên tấp nập, nhộn
nhịp hơn. Đến thế kỷ XVIII, XIX đã xuất hiện không ít những làng buôn chuyên
nghiệp, mà phần đa dân làng lấy việc buôn bán làm nghiệp chính và nguồn sống
chính của họ là do kinh tế thương nghiệp mang lại.
Ba là, đặc điểm về mặt xã hội
Đặc điểm về xã hội của Làng Việt Bắc Bộ được biểu hiện hết sức phong
phú, sinh động. Thế giới đầy mầu sắc của văn hóa làng được quy ước thành lệ
làng, đúc kết trong hương ước làng, bộc lộ một cách phong phú qua hội làng.
Tất cả chắt lọc lại, tạo nên bản sắc văn hóa làng, mà trong đó tính cộng đồng
làng và tính tự trị của làng là những giá trị nổi trội nhất. Bên cạnh đó còn là các
phẩm chất quan trọng khác như: tính ưa hài hòa, khuynh hướng thiên về âm
tính (mà tính trọng tình, hay tình làng là một biểu hiện của nó), tính tổng hợp và
tính linh hoạt.
Trải qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc, văn hóa Làng Việt Bắc bộ đã
chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình. Sau lũy tre làng, bên giếng làng, dưới
6


mái đình làng, trong bầu khí thân thương của những ngày hội làng, mọi người
sống với nhau nặng tình nặng nghĩa, giúp đỡ nhau lúc tắt lửa tối đèn. Tình làng
nghĩa xóm, quan hệ láng giềng ràng buộc con người trong nếp sống làng, xã có
kỷ cương, trong sáng và thanh cao.
Sự gắn bó giữa con người với con người trong cộng đồng làng quê không
chỉ là quan hệ sở hữu trên đất làng, đình làng, chùa làng… những nơi diễn ra
sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng chung mà còn là sự gắn bó về chuẩn mực đạo đức,
chuẩn mực xã hội. Ở mỗi làng, ngoài phong tục chung còn có tục lệ riêng được

ghi trong hương ước, khoán ước. Đây là những quy định khá chặt chẽ về mọi
phương diện cuả làng từ lãnh thổ đến việc sử dụng đất đai, từ quy định về sản
xuất, bảo vệ môi trường đến quy định về tổ chức làng xã… và vì thế tạo nên một
sức mạnh tinh thần không thể phủ nhận, nhưng cũng đồng thời tạo ra sự coi nhẹ
vai trò cá nhân.
Trong suốt tiến trình phát triển lâu dài của Làng Việt Bắc bộ, tính cộng
đồng luôn được bảo lưu và duy trì mạnh mẽ, trở thành một trong những đặc
trưng cơ bản, có tính phổ quát và bao trùm trong sản xuất và đời sống xã hội ở
nông thôn. Nói đến kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống, trước hết, là nói
đến sự cố kết và tính cộng đồng về mặt dân cư và lãnh thổ của các làng, xã nông
thôn. Sự cố kết này được hình thành dựa trên quan hệ láng giềng, quan hệ huyết
tộc hoặc dòng họ. Đó là một tập hợp dân cư, hay cộng đồng dân cư cùng nhau tụ
cư, sinh sống trên một khu vực lãnh thổ nhất định, bao gồm cả khu đất làm nhà
ở, vườn tược của các hộ gia đình lẫn đất đai canh tác, đồng cỏ, đồi rừng, ao hồ,
đầm bãi và tài nguyên thiên nhiên do các thành viên trong làng cùng khai phá,
chiếm đoạt hay do các thế hệ cha ông họ để lại. Toàn bộ đất đai, tài nguyên và
lãnh thổ ấy đều là tài sản chung của mọi thành viên trong làng, thuộc sở hữu
chung của mỗi làng, do làng kiểm soát, quản lý và chi phối. Mọi thành viên
trong làng đều được sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên theo những quy định
của làng, đồng thời có trách nhiệm và nghĩa vụ chung trong việc gìn giữ, bảo vệ,
khai thác và sử dụng chúng.
7


Đặc điểm nổi bật của các gia đình Làng Việt Bắc Bộ là gia đình tiểu nông,
phụ quyền nhưng về thực chất người phụ nữ có vai trò đáng kể trong gia đình,
xã hội. Hầu hết những công việc quan trọng họ đều đảm nhiệm: chăm lo công
việc đồng áng, làm nghề thủ công, chạy chợ, giữ tay hòm chìa khoá, đối nội
trong gia đình, dòng họ, đối ngoại với hàng xóm, láng giềng, giáo dục con cái từ
khi chúng được sinh ra cho đến khi chúng trưởng thành….. Đó là những nguyên

nhân vì sao người phụ nữ được coi trọng trong làng.
Bốn là, đặc điểm về quốc phòng, an ninh
Làng Việt Bắc bộ thường được xây dựng như một đảo nhỏ nằm ở giữa
cánh đồng lúa, vói những rặng tre bao quanh. Các làng được chia tách với nhau
thông qua một cánh đồng, hay một dòng sông nên làng cũng kiêm luôn cả nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh. Mỗi làng là một đơn vị quân sự, có dân binh, lực lượng
quân sự riêng của mình. Nếu không được tuyển vào quân đội thường trực của
Nhà nước thì dân binh nói chung vẫn làm ruộng ở nhà, đây là lực luợng quân sự
dự bị và sẽ tuân thủ sự điều động của nhà nước khi cần.
Nhiều làng đã lập ra các hương ước, khế ước xác định rõ địa giới lãnh thổ,
đất đai và khẳng định “chủ quyền” của làng trên toàn bộ địa giới ấy. Và để bảo
vệ chủ quyền lãnh thổ của làng, nhiều nơi đã quy định cụ thể về sử dụng đất đai,
nguồn nước, đốn cây, phát rẫy, khai thác nguồn lợi tự nhiên, về canh phòng,
chống xâm lấn, trộm cướp… Đất đai trong lãnh thổ của làng, ngay cả ruộng đất
tư cũng không được bán, đổi, sang nhượng cho người làng khác. Dân từ nơi
khác đến ở được coi là dân ngụ cư phải có sự đồng ý của làng và thường phải 2
-3 đời sau mới được chính thức gia nhập cộng đồng làng xã, trở thành thành viên
của làng. Trong cộng đồng dân cư - lãnh thổ của làng còn có những cộng đồng
theo địa bàn cư trú hẹp hơn như thôn, xóm… Những cộng đồng này gắn bó với
nhau trên quan hệ láng giềng gần gũi, thân cận và thường cũng có những quy
ước riêng về nơi cư trú, sinh sống của họ theo địa giới hành chính.
1.2. Đặc điểm văn hoá, tín ngưỡng

8


Văn hóa, tín ngưỡng vói tư cách là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh
tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định, nhưng ngược lại có tính độc lập
tương đối của mình, có thể tác động trở lại tồn tại xã hội giống như các hình thái
ý thức xã hội khác. Văn hóa, tín ngưỡng của Làng Việt Bắc bộ cũng mang đầy

đủ đặc trưng của văn hóa, tín ngưỡng Việt Nam nói chung, song do những điều
kiện tự nhiên, xã hội chi phối văn hóa, tín ngưỡng nơi đây có những đặc điểm
riêng. Cụ thể:
Một là, tục thờ cúng thần linh, tổ tiên…
Do nhận thức cũng như sự phát triển thấp kém của trình độ sản xuất đã
làm cho các cư dân Làng Việt Bắc bộ phụ thuộc rất lớn vào tự nhiên. Thiên
nhiên đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa, tinh thần,
tín ngưỡng, tình cảm của các cư dân trong làng. Nhiều yếu tố và hiện tượng tự
nhiên được “sùng bái” và trở thành tín ngưỡng như “thần sấm”, “thần mưa”,
“thần sông”, “thần núi”,… cùng với những lễ hội truyền thống, mang đậm sắc
thái văn hóa của các cộng đồng, các vùng quê như các lễ hội: cầu mưa, rước
nước, điền, hạ ngư... Và từ xa xưa, thiên nhiên đã đi vào tục ngữ, ca dao, trở
thành nguồn cảm hứng cho những sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật, cho sự
thể hiện tình cảm của con người, sự gắn bó với cộng đồng và tình yêu đối với
quê hương, đất nước. Sự gắn bó mật thiết với tự nhiên, tôn trọng tự nhiên, vừa
đấu tranh với tự nhiên vừa hòa hợp với tự nhiên để sinh tồn và phát triển - đó là
một trong những triết lý cho sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế xã hội nông
nghiệp truyền thống.
Do tính chất của nền văn hóa nông nghiệp nên trong mối quan hệ xã hội,
tín ngưỡng và lối sống đều thể hiện mục đích hướng tới sự phồn thực: tồn tại hệ
thống các nữ thần gọi là các bà, các Mẫu, tục thờ mẫu trở thành một tín ngưỡng
Việt Nam điển hình của các cư dân nơi đây.
Tuy có niềm tin rằng chết là về với tổ tiên nơi chín suối, nhưng ông bà tổ
tiên vẫn thường xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu sống khỏe mạnh,

9


ăn lên làm ra. Vì vậy, xuất hiện tục thờ cúng tổ tiên (tập thể gia tiên) – một hình
thức tín ngưỡng đặc biệt riêng có của các loại hình tín ngưỡng Việt Nam.

Trong gia đình, ngoài thờ cúng tổ tiên còn có tục thờ thần Thổ công, một
dạng mẹ đất, là vị thần trông coi gia cư, ngăn chặn tà thần, định đoạt phúc hoạ
cho cả gia đình. Vì vậy, trong văn hóa truyền miệng của cư dân Làng Việt Bắc
bộ thường có câu: “Đất có thổ công, sông có hà bá”
Trong phạm vi làng quan trọng nhất là thờ thần Thành Hoàng làng. Đây là
vị thần che chở, cai quản định đoạt cho dân làng, không một làng nào lại không
có thần Thành Hoàng làng. Đó là vị thần có tên tuổi, tước vị rõ ràng, là người có
công lập ra làng xã, là anh hùng từng sinh ra hay mất đi ở làng, thậm chí là
người ăn mày, ăn xin, ăn trộm...Thành Hoàng làng cũng là tập thể chục vị.
Hai là, các đặc trưng về văn hóa ăn, mặc, học hành
Ăn uống của các cư dân ở Làng Việt Bắc bộ cũng giống như các cư dân
sinh sống trên các lãnh thổ khác, bữa ăn chính bao gồm cơm + rau + cá, nhưng
thành phần cá ở đây chủ yếu hướng đến là cá nước ngọt. Hải sản dánh bắt ở biển
chủ yếu giới hạn ở các làng ven biển, còn các làng trong đồng bằng, trung du hải
sản không phải chiếm ưu thế. Để thích ứng với điều kiện khí hậu, trong thành
phần thức ăn có tăng thêm thịt và mỡ, nhất là vào mùa đông để giữ thêm năng
lượng cho cơ thể. Các gia vị có tính chua, cay, đắng thường có trong bữa ăn của
đồng bào Nam, Trung bộ thì ở các Làng Việt Bắc bộ cũng xuất hiện…
Cách mặc của người dân cũng là sự lựa chọn nhằm thích ứng với điều
kiện của tự nhiên. Đàn ông với trang phục đi làm là chiếc quần lá tọa, áo cánh
màu nông sòng. Đàn bà mặc chiếc váy thắm, áo nâu khi đi làm, mùa lễ hội đàn
bà áo mớ ba mớ bẩy, đàn ông với chiếc quần trắng, áo dài the, chít khăn đen.
Ngày nay, cách ăn mặc đã có sự thay đổi rất nhiều
Cùng với văn hóa dân gian, văn hóa Làng Việt Bắc bộ còn được mệnh
danh là nền văn hóa bác học. Chính sự giáo dục, trọng người có chữ đã tạo cho
nơi đây có lớp lớp các thế hệ con người tri thức. Thời tự chủ, Thăng Long với
vai trò là kinh đô cũng đảm nhiệm vị trí trung tâm của nền giáo dục đất nước,
10



năm 1078 Văn Miếu đã xuất hiện, năm 1076 đã có Quốc Tử Giám “Trong thời
kỳ Đại Việt số người đi học, thi đỗ ở vùng đồng bằng miền Bắc tính theo tỷ lệ
dân số thì cao hơn rất nhiều so với các nơi khác. Trong lịch sử 850 năm (10651915) khoa cử dưới các triều vua, cả nước có 56 trạng nguyên thì 52 người là ở
vụng đồng bằng miền Bắc”(1). Thời Pháp thuộc Hà Nội cũng là nơi thu hút được
rất nhiều tri thức ở các vùng…Chính sự phát triển của giáo dục đã tạo ra sự phát
triển của văn hóa bác học, bởi chủ thể sáng tạo ra nền văn hóa bác học chính là
đội ngũ tri thức.
Ba là, các phong tục hôn nhân, ma chay, lễ, tết…
Gắn liền với tín ngưỡng, Làng Việt Bắc Bộ còn có nhiều phong tục, là
những thói quen ăn sâu vào đời sống xã hội từ rất lâu đời, được đa số mọi người
thừa nhận và làm theo : Phong tục hôn nhân, phong tục ma chay, lễ tết, lễ hội…
Phong tục hôn nhân gắn liền tính cộng đồng làng xã. Hôn nhân truyền
thống không đơn thuần là việc hai người lấy nhau mà là việc của hai bên cha
mẹ, của hai họ dựng vợ gả chồng cho con cái. Tất cả đều xuất phát từ quyền lợi
tập thể: quyền lợi gia tộc, quyền lợi của làng xã. Việc hôn nhân là của hai người
nhưng lại kéo theo việc xác lập quan hệ qua lại giữa hai họ tộc, đó không phải là
việc lựa chọn cá nhân mà là lựa chọn gia đình, dòng họ xem có tương xứng hay
không, môn đăng hộ đối không: “Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống”. Sự ổn
định làng xã là mối quan tâm hàng đầu, người dân trong làng có truyền thống
khinh dân ngụ cư, vì vậy phải chọn chồng trong số người cùng làng: “Ta về ta
tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Điều này xét về phương diện tâm lý
đó là sự gắn bó quê cha đất tổ, về phương diện kinh tế là phục vụ cho sự ổn định
của làng xã (tục nộp cheo). Khi quyền lợi của tập thể cộng đồng được tính đến
thì người ta mới lo nhu cầu riêng tư cá nhân.
Nghề lúa nước mang tính thời vụ cao, lúc nông vụ, bận rộn tối tăm mặt
mũi “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” nên lúc nông nhàn, người dân có tâm
lý ăn bù, chơi bù. Ngày lễ tết được phân bố đều theo thời gian trong năm. Nếp
sống cộng đồng thể hiện ở chỗ Tết là dịp duy nhất trong năm có sự sum họp đầy
1


Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận, Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, H.1995, Tr.67

11


đủ của tập thể gia đình, gia tiên, gia thần. Tết là một cuộc đại đoàn viên. Ngoài
tết nguyên đán, còn có tết rằm tháng riêng, tết mồng ba tháng ba, Tết mồng bảy
tháng bảy, tết mồng năm tháng năm, tết trung thu…
Nếu lễ tết phổ biến theo thời gian, thì lễ hội là hệ thống phân bố theo
không gian. Mỗi vùng đều có những lễ hội riêng của mình, các lễ hội của Làng
Việt Bắc Bộ tập trung vào 2 mùa: mùa thu và mùa xuân, khi công việc đồng áng
rảnh nhất. Các lễ hội văn hoá, tôn giáo, lễ hội kỷ niệm anh hùng, lễ hội nghề
nghiệp…là điều kiện để dân trong làng tham gia sinh hoạt chung. Các lễ hội
thường diễn ra ở đình làng, chùa làng nên nó có giá trị cộng cảm cao. Sự cộng
cảm của tập thể cộng đồng làm cho mỗi người gắn bó chặt chẽ hơn, do đó thấy
mình vươn lên ở tầm vóc cao hơn, có sức mạnh tập thể lớn hơn.
2. Tính cộng đồng của văn hóa Làng Việt Bắc bộ
2.1. Vị trí, vai trò tính cộng đồng của văn hóa Làng Việt Bắc bộ
Do cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên, nên người làm
nông nghiệp phải dựa vào nhau để sinh tồn, duy trì nòi giống và phát triển các
giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp mang tính
thời vụ, đặc biệt là nông nghiệp lúa nước, tính thời vụ càng cao, để kịp thời vụ
con người buộc phải liên kết với nhau. Chính sự liên kết, tương hỗ này tạo nên
tính cộng đồng của Làng Việt Bắc bộ.
Như vây, tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại với
nhau tạo nên sức mạnh của cộng đồng người, trong đó mỗi người sống và lao
động sản xuất đều hướng tới người khác. Tính cộng đồng có đặc diểm dương
tính và hướng ngoại. Sản phẩm của tính cộng đồng là tập thể làng xã khép kín,
mang tính tự trị, các làng tồn tại khá biệt lập với nhau, độc lập với triều đình
phong kiến. Mỗi làng là một “vương quốc” nhỏ khép kín, làng nào biết làng đó,

có luật pháp riêng, cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp riêng. Sự biệt lập đó
tạo nên truyền thống: “ Phép vua thua lệ làng”.
Nếu như tính tự trị có biểu tượng là luỹ tre, rặng tre bao quanh kín làng,
trở thành thứ thành luỹ bất khả xâm phạm, đốt không cháy, trèo không vào, đào
12


không qua thì biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình, bến nước,
cây đa. Hầu hết làng nào ở Bắc bộ cũng có một cái đình, nó là biểu hiện điển
hình nhất, tập trung nhất của làng về mọi phương diện. Trước hết, nó là trung
tâm văn hoá hành chính, mọi công việc quan trọng của làng đều diễn ra ở đây:
Hội đông Kỳ mục, Kỳ hạt thu sưu thuế ở đây, ai mắc lỗi thì cũng ra đây để xử,
xử rồi thì lấy đây làm trại giam… Thứ đến, đình là trung tâm văn hoá, các hội hè
trong làng, mọi cuộc ăn uống chung, sinh hoạt vật chất chung của làng đều diễn
ra ở đây. Sân đình là nơi diễn chèo, tuồng… Đình còn là trung tâm về mặt tôn
giáo, thế đình, hướng đình được xem là quyết định vận mệnh của cả làng. Đình
cũng là nơi thờ thần Thành Hoàng làng, vị thần bảo trợ cho làng, đình làng còn
là trung tâm về mặt tình cảm của nhân dân trong làng. Đình là biểu tượng truyền
thống cho tính tổng hợp, tính cộng đồng của văn hoá làng xã. Lúc đầu, đình là
nơi lưu trú của tất cả mọi người, nhưng không biết tự lúc nào người ta thấy đình
chỉ là nơi lui tới của riêng đàn ông. Vì vậy, phụ nữ bị đẩy ra khỏi đình đã quần
tụ ở bến nước, giếng nước, chỗ hàng ngày chị em vẫn thường rửa rau, vo gạo,
giặt giũ…để trò chuyện.
Cây đa thường mọc ở đầu làng, gốc cây có miếu thờ nho nhỏ lúc nào
hương khói cũng nghi ngút. Đó là chốn linh thiêng, nơi hội tụ của các thánh
thần. Dưới gốc cây có quán trà là nơi nghỉ chân gặp gỡ của những người đi làm
đồng về, của khách qua đường.
Tính cộng đồng đóng một vai trò lớn trong đời sống sinh hoạt của người
dân trong làng. Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất, trong đó cùng họ
là đồng tộc, cùng tuổi là đồng niên, cùng nghề là đồng nghiệp, cùng quê là đồng

hương. Do sự đồng nhất giống nhau - “cùng hội cùng thuyền”, cùng cảnh ngộ
cho nên người ta luôn sẵn sàng tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi người trong
cộng đồng như anh em, chị em trong nhà “tay đứt ruột xót”, “chị ngã em nâng”,
“lá lành đùm lá rách” và như vậy làm cho các quan hệ, tình cảm của các thành
viên trong làng thêm gắn bó. Tính đồng nhất tạo nên tính tập thể rất cao, mọi
người trong cộng đồng đều gắn bó với tập thể, hoà đồng cùng cuộc sống chung
13


của tập thể. Sự đồng nhất cũng chính là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ, bình
đẳng bộc lộ trong các nguyên tắc tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, theo
nghề nghiệp, theo tuổi...
Tính cộng đồng đem lại cho mỗi cá nhân và cho cả làng nguồn sức mạnh
to lớn để cố kết cộng đồng thành một khối thống nhất, cùng “chung lưng, đấu
cật” trong phòng chống thiên tai, địch họa, trong lao động sản xuất, chiến đấu
bảo vệ thành lũy của làng. Tuy nhiên, tính cộng đồng ở Làng Việt Bắc bộ cũng
có tính hạn chế nhất định.
Thứ nhất, vì quá đề cao tính tập thể nên thủ tiêu vai trò của cá nhân.
Người Việt thường ít xưng tôi, luôn hoà tan vào các mối quan hệ xã hội, với
người này là em, người kia là cháu, với người khác nữa là chị, là anh. Cách giải
quyết xung đột theo lối hoà cả làng là hết sức phổ biến. Điều này có sự khác biệt
với truyền thống văn hoá phương Tây, nơi con người được rèn luyện ý thức đề
cao ý thức cá nhân ngay từ khi còn nhỏ.
Thứ hai, tính cộng đồng dẫn đến thói quen dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể “cha
chung không ai khóc”, “nước trôi thì bèo trôi, nước nổi thì thuyền nổi”. Cùng
với thói dựa dẫm, ỷ lại là tư tưởng cầu an (an phận thủ thưởng) và cả nể, làm gì
cũng sợ “rút dây động rừng”, nên việc gì cũng thường chủ trương đóng cửa bảo
nhau, ngại tranh đấu, “trung bình chủ nghĩa”...
Thứ 3, tính cộng đồng thường dẫn đến thói cào bằng, đố kỵ, không muốn
ai hơn mình “xấu đều còn hơn tốt lỏi”, “khôn độc không bằng ngốc đàn”. Cái

tốt, nhưng là cái tốt riêng lẻ sẽ trở thành cái xấu, ngược lại cái xấu nhưng là cái
xấu tập thể thì trở thành bình thường, “Toét mắt là tại hướng đình. Cả làng cùng
toét riêng mình em đâu !”, để cho tất cả đều như nhau.
Thứ 4, khi đứng trước khó khăn lớn, nguy cơ đe doạ sự sống còn của cả
cộng đồng làng thì tính cộng đồng được biểu hiện nổi bật ở tinh thần đoàn kết,
tính tập thể. Nhưng khi nguy cơ, khó khăn qua rồi thì có thể xuất hiện thói tư
hữu, óc bè phái cục bộ địa phương.

14


2.2. Những biểu hiện tập trung của tính cộng đồng văn hóa Làng Việt
Bắc bộ
Khi nghiên cứu tính cộng đồng của Làng Việt Bắc bộ với những biểu hiện
đặc trưng của nó nằm trong những thiết chế xã hội (thiết chế nông thôn). Trải
qua hàng nghìn năm lịch sử cùng với sự phát triển của tiến trình văn hóa làng xã
Việt Nam, dễ nhận thấy tính cộng đồng Làng Việt Bắc bộ như sau:
Một là, tính cộng đồng ở tổ chức nông thôn theo huyết thống: gia đình gia tộc
Những người cùng quan hệ huyết thống gắn bó mật thiết với nhau thành
đơn vị cơ sở là gia đình và đơn vị cấu thành là gia độc (dòng họ). Đối với văn
hóa làng xã Việt Nam nói chung, văn hóa Làng Việt Bắc bộ nói riêng gia đình
chiếm vị trí, vai trò quan trọng hơn rất nhiều so với các kiểu tổ chức giai đình
phương Tây. Với nền văn hoá nông nghiệp điển hình gia đình hạt nhân không đủ
đối phó với môi trường tự nhiên, xã hội nên vai trò của gia tộc, cộng đồng làng
xã rất quan trọng. Các khái niệm “cửu tối” trưởng họ, từ đường, gia phả, giỗ họ,
mừng thọ… đều liên quan đến gia tộc, đây hoàn toàn không phải gia đình.
Gia tộc của cư dân Làng Việt Bắc bộ từ lâu không còn là đơn vị kinh tế
hay “một đại gia đình phụ quyền” sống chung một mái nhà, khu đất trồng trọt
chung, thuộc quyền sở hữu chung, mà nó đã phân giải thành vô vàn các giai
đình nhỏ với mỗi bộ phận kinh tế riêng. Các cá nhân trong họ thường là chỗ dựa

về tâm lí, tinh thần của nhau, hỗ trợ nhau những việc đại sự như: ma chay, giỗ
kỵ, cưới xin… Về mặt vật chất: “xảy cha còn chú, xảy mẹ bú dì”, về mặt tinh
thần: “nó lú nhưng chú nó khôn”, về mặt chính trị - xã hội : “Một người làm
quan cả họ được nhờ”.
Một hình thức vừa liên kết theo dòng họ, vừa mang tính liên kết theo địa
vị là Giáp. Giáp là tổ chức gồm các đinh của một dòng họ, liên kết với nhau
thành một tập thể tương đối bền vững. Thường trong một làng chia làm nhiều
giáp, thậm chí 1 giáp trong quá trình phát triển cũng có thể độc lập trở thành một
làng. Những liên kết ràng buộc này tạo nên sự cố kết rất bền chặt.
15


Như vậy, quan hệ huyết thống là quan hệ theo hàng dọc, theo thời gian, là
cơ sở của tính tôn ty. Người sinh ra trước ở bậc trên, người sinh ra sau bậc
dưới… Về nguyên tắc lối liên kết theo huyết thống này không có gì đặc biệt,
nhưng cái đặc biệt không nằm ở đơn vị liên kết mà nằm ở mức độ liên kết, phân
biệt rành mạch 9 thế hệ là 1 điều khác nhiều dân tộc khác, bao gồm: kỵ, cụ, ông,
cha, tôi, con, cháu, chắt, chút. Sự cố kết theo thuyết thống tạo nên một tình cảm
dòng họ. “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, nhiều khi đã trở thành một
phương thức điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân. Ở làng xã, khi nói tới cá nhân,
người ta thường liên hệ người ấy với cả dòng họ và truyền thống của dòng họ
ấy. Chẳng hạn: dòng họ này của truyền thống học hành khoa cử, dòng họ kia có
danh tiếng về đường làm quan, thì có dòng họ lại tài giỏi về một nghề nghiệp
nào đó. Truyền thống tốt đẹp của dòng họ trở thành một động lực thôi thúc cá
nhân thường xuyên phấn đấu vươn tới mục tiêu tốt đẹp hơn để tiếp nối thanh
danh của dòng họ mình, cũng từ đây từ tình cảm dòng họ, tình cảm làng xã, tình
cảm quê hương cũng được phát triển theo.
Tuy nhiên, tình cảm dòng họ có nảy sinh tính chất hẹp hòi, cục bộ trong
sự nhìn nhận, trong cách ứng xử thiên lệch theo chủ nghĩa gia đình giữa người
trong họ và người ngoài họ. Nhiều họ ganh ghét đố kỵ dẫn đến xung đột, từ một

nguyên nhân nhỏ có thể dẫn đến hiềm khích dai dẳng.
Hai là, tính cộng đồng ở tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú: xóm làng
Việc tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú chính là bước thứ hai trong
lịch sử phát triển của Làng Việt Bắc bộ. Những người sống gần nhau có xu
hướng liên kết chặt chẽ với nhau. Khi công xã thị tộc tan rã, chuyển thành công
xã nông thôn thì các thành viên trong làng không chỉ gắn bó với nhau bằng quan
hệ máu mủ mà còn bằng quan hệ sản xuất, hình thành nên mối quan hệ theo địa
vực. Thiết chế thể hiện mối liên kết rõ nét nhất là ngõ, xóm, làng.
Để ứng phó môi trường tự nhiên, nhu cầu của nghề truyền thống lúa nước
mang tính thời vụ, con người ở đây không chỉ liên kết chặt chẽ với nhau nhằm
chống lại thiên tai, địch họa, bảo vệ sản xuất…mà còn để ứng phó với môi
16


trường xã hội (nạn trộm cướp…). Các gia đình trong xóm có quan hệ với nhau
trên tinh thần: “tối lửa tắt đèn có nhau”, “bán anh em xa, mua láng riềng gần”…
Mỗi khi cá nhân, gia đình trong làng có công to việc lớn gì thì các gia đình khác
đều phải có trách nhiệm tham gia giúp đỡ cả về vật chất và tinh thần.
Ba là, tổ chức nông thôn theo sở thích, phường, hội
Trong làng, phần lớn người dân đều làm nông nghiệp, tuy nhiên nhiều
làng có những bộ phận cư dân sinh sống bằng nghề khác, những người này liên
kết chặt chẽ với nhau và tự họ thành lập ra tổ chức những người cùng nghề
nghiệp, những đơn vị tổ chức ấy gọi là phường. Như vậy, phường chính là một
dạng quần cư, liên kết chặt chẽ giữa các cư dân có chung nghề nghiệp, thường ở
Làng Việt Bắc bộ có các phường: gốm, phường nề, phường vật, phường mộc…
Bên cạnh các phường còn có hội: Hội là tổ chức nhằm liên kết người cùng
sở thích, cùng thú vui, cùng đẳng cấp. Khác với phường, hội không phải là sự
đoàn viên giữa các thành viên về mặt kinh tế mà hội còn là sự liên kết các thành
viên của làng về mặt tình cảm, tín ngưỡng, tôn giáo… ở các Làng Việt Bắc bộ
thường có các hội: hội vật, hội tổ tôm, hội trọi gà, hội cờ tướng…

Phường, hội rất gần nhau ngoài mục đích về kinh tế (giúp đỡ nhau về tiền,
thú bảo vệ, phát triển làng thủ công…) việc tham gia các thiết chế này còn đem
lại cho cá nhân trong phường, hội sự thoả mãn nhu cầu về tinh thần, đó là sự
khẳng định vị thế của bản thân trong một xã hội thu nhỏ. Vì thế từng cá nhân
trong quan hệ với những người khác tại cộng đồng phải thực sự hài hòa, sao cho
bất kỳ người nào dù hèn kém đến mấy thì trong đời mình, ít nhất cũng phải được
người khác tôn trọng một lần. Điều này giúp cá nhân lấy lại thăng bằng và phát
triển một cách ổn định trong những quan hệ rất chằng chịt, hà khắc của làng
người Làng Việt Bắc bộ.
Việc tham gia các mối liên kết khác nhau chính là một hình thức phân
chia ngôi thứ, thang bậc xã hội của mỗi cá nhân trong làng (mặc dù không liên
quan trực tiếp tới các hoạt động kinh tế). Sự phân chia ngôi thứ cũng chính vì
vậy trở thành một vấn đề trung tâm, bao trùm đời sống xã hội, làng xã Việt Nam
17


nói chung, Làng Việt Bắc bộ nói riêng. Bởi vì, mỗi thang bậc xã hội thể hiện
qua ngôi thứ ở đình không chỉ liên quan đến quyền lợi của mỗi người mà còn
danh dự, uy tín, vị thế, là cả niềm tự hào của bản thân và con cháu họ, thậm chí
cả gia tộc. Vì vậy, có thể nói, không có một cá nhân nào trong quá trình sống
của mình lại không tham gia vào một liên kết nào của làng.
Như vậy, có thể khẳng định cùng với những thắng lợi to lớn qua hàng
nghìn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm gìn giữ và bảo vệ đất nước của dân
tộc Việt Nam, đó chính là nhờ một phần vào sức mạnh cộng đồng của dân tộc,
trong đó có sự đóng góp không nhỏ của tính cộng đồng Làng Việt Bắc bộ. Tinh
thần đoàn kết, yêu thương, sẵn sàng sẻ chia của mỗi người dân chính là truyền
thống tốt đẹp trong văn hóa con người Việt Nam nói chung, văn hóa của mỗi
người dân Làng Việt Bắc bộ nói riêng.
Tuy nhiên, bên cạnh giá trị tích cực thì tính cộng đồng cũng có những hạn
chế nhất định: chủ nghĩa bình quân, thói cào bằng, 1 phương thức quản lí hành

chính, tập trung, một tác phong quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền “phép vua thua
lệ làng”, bệnh làm ăn kiểu sản xuất nhỏ. Cung cách làm ăn theo kiểu phường
hội, thương nhân liên kết nhau, chèm ép người nông dân lao động về giá trị sản
vật do họ làm ra, bệnh gia đình chủ nghĩa, tật xuề xoà đại khái, thói ỷ lại…
Chúng ta đang sống trong thời kỳ có nhiều sự biến động trên tất cả các
bình diện của đời sống kinh tế xã hội. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất
nước với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử qua hơn 25 năm đổi mới, văn
hóa làng nói chung, văn hóa Làng Việt Bắc bộ nói riêng ngày càng được Đảng,
Nhà nước, các cấp, các ngành quan tâm đầu tư, bảo tồn và phát triển những giá
trị văn hóa truyền thống. Hiện nay, hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu. Xét
về bản chất thì hội nhập là một quá trình tương tác mang tính hai chiều, nhưng
trên thực tế thì kinh tế và kỹ thuật đang nắm phần ưu thế, trong quá trình hội
nhập đó, hội nhập và phát triển văn hóa đòi hỏi phải là sự phát huy ưu thế những
giá trị văn hóa truyền thống, xóa bỏ những gì lạc hậu, cản trở sự phát triển xã
hội. Đồng thời, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giầu kho tàng văn
18


hóa truyền thống, giữ gìn và phát triển văn hóa các vùng miền trong đó có văn
hóa Làng Việt Bắc bộ cũng chính là quá trình quá trình giữ gìn, bảo tồn bản sắc
văn hóa dân tộc Việt Nam.

KẾT LUẬN
Văn hóa Làng Việt Bắc bộ là những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần
được hình thành và kết tinh qua bao đời nay của các cư dân sinh sống thuộc địa
bàn Đồng bằng Bắc bộ. Đây cũng là cái nôi hình thành lên những giá trị văn
19


hóa, văn minh Việt buổi ban đầu và hiện tại cũng là nơi lưu giữ được nhiều giá

trị truyền thống hơn cả. Trên đường đi xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm
đã bản sắc văn hóa dân tộc, phải đặc biệt chú ý kế thừa và tiếp thu những giá trị
cao đẹp trong văn hóa Làng Việt Bắc bộ, không ngừng tiếp thu có chọn lọc văn
hóa nhân loại, bổ sung và làm giàu thêm tính đa dạng của bức tranh đa sắc mầu
của văn hóa Việt Nam.
Văn hóa Làng Việt Bắc bộ có những đặc điểm tự nhiên, xã hội, đặc điểm
văn hóa tín ngưỡng riêng có của các cư dân nơi đây, trong những đặc điểm chi
phối ấy tính cộng đồng được coi là đặc trưng, là sản phẩm của nét đẹp văn hóa
truyền thống con người Bắc bộ. Tuy cũng còn những hạn chế nhất định, cần
được gạt bỏ trên con đường xây dựng đời sống văn hóa mới, nhưng những giá
trị của tính cộng đồng phải được phát huy hơn nữa trong quá trình đổi mới, hội
nhập kinh tế quốc tế, tạo ra “hệ miễn dịch” trước những tác động của mặt trái cơ
chế thị trường, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bẳn
sắc dân tộc.

20



×