Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống văn hóa, tinh thần phụ nữ Việt Nam hiện nay” (khu vực đồng bằng Bắc Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.95 KB, 106 trang )


iii
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU i
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM VÀ 9
PHẬT GIÁO KHU VỰC ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ 9
1.1. Khái quát chung về Phật giáo Việt Nam 9
1.1.1 Quá trình du nhập của Phật giáo vào Việt Nam 9
1.1.2. Tình hình Phật giáo Việt Nam hiện nay 16
1.2 Phật giáo khu vực đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 22
1.2.1 Sự du nhập và phát triển của Phật giáo khu vực Đồng Bằng
Bắc Bộ 22
1.2.2 Đặc điểm của Phật giáo khu vực đồng bằng Bắc Bộ 32
Chương 2: MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO KHU VỰC
ĐỒNG BẮNG BẮC BỘ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ, TINH
THẦN PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY 46
2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo khu vực Đồng Bằng Bắc Bộ đến đời sống
văn hoá phụ nữ Việt Nam hiện nay 48
2.1.1. Ảnh hưởng của Phật giáo khu vực Đồng Bằng Bắc Bộ đối với
văn hoá ứng xử của phụ nữ Việt Nam hiện nay 48
2.1.2 Ảnh hưởng của Phật giáo khu vực Đồng bằng Bắc Bộ đối với văn
hóa ăn, mặc của phụ nữViệt Nam hiện nay 60
2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo khu vực Đồng bằng Bắc Bộ đến đời
sống tinh thần phụ nữ Việt Nam hiện nay 73
2.2.1 Ảnh hưởng của Phật giáo khu vực Đồng bằng Bắc Bộ đến tín
ngưỡng của phụ nữ Việt Nam hiện nay 73
2.2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo khu vực Đồng bằng Bắc Bộ đối với tâm
lý và phong tục tập quán phụ nữ Việt Nam hiện nay 79


iv
2.3 Một số hạn chế liên quan đến ảnh hưởng của Phật giáo khu vực
Đồng Bằng Bắc Bộ đối với đời sống văn hóa, tinh thần phụ nữ Việt
Nam và khuyến nghị 86
2.3.1 Một số biểu hiện hạn chế liên quan đến ảnh hưởng của Phật giáo
khu vực Đồng Bằng Bắc Bộ đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay 86
2.3.2. Khuyến nghị nhằm khắc phục việc lợi dụng Phật giáo ảnh hưởng
đến phụ nữ Đồng Bằng Bắc Bộ 89
KẾT LUẬN 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99



















1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một tiểu hệ thống kiến trúc thượng tầng, ra đời, tồn tại và
phát triển từ rất lâu trong lịch sử nhân loại. Sự ra đời và phát triển của tôn
giáo, một mặt do điều kiện kinh tế - xã hội, mặt khác do nhu cầu tín
ngưỡng, đời sống tinh thần của con người quyết định. Bởi vậy, từ xã hội
nguyên thủy đến nay đã có rất nhiều loại hình tôn giáo với tín ngưỡng, nghi
lễ và các hình thức sinh hoạt khác nhau. Tôn giáo đã sớm cấu thành đời
sống con người, tồn tại trong mối quan hệ tương hỗ với các lĩnh vực khác
như xã hội, văn hóa.
Việt Nam vốn là một nước đa tôn giáo. Các tôn giáo đó có lịch sử phát
triển và phạm vi ảnh hưởng xã hội không giống nhau. Có tôn giáo du nhập
từ bên ngoài, có tôn giáo sinh ra từ nhu cầu nội sinh của dân tộc. Quá trình
tồn tại của đời sống văn hóa, tinh thần con người Việt Nam chịu ảnh hưởng
rất nhiều từ văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo. So với các tôn giáo khác, Phật
giáo được truyền vào Việt Nam từ rất sớm, ảnh hưởng rất quan trọng tới
đời sống văn hóa, tinh thần con người Việt Nam trong quá khứ cũng như
hiện tại. Có thời kỳ, Phật giáo gần như trở thành Quốc giáo, hệ tư tưởng
của Phật giáo chi phối đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam.
Theo các tài liệu lịch sử, Phật giáo du nhập và tồn tại ở Việt Nam
đến nay đã được hơn hai nghìn năm. Trung tâm Phật giáo Việt Nam quan
trọng đầu tiên được hình thành tại vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cũng bởi vậy,
Phật giáo đã sớm ăn sâu vào tiềm thức tất cả các giai tầng, lứa tuổi, không
phân biệt giới tính, đặc biệt là phụ nữ Việt Nam ở khu vực này.
Cho tới ngày nay, Phật giáo vẫn không ngừng thể hiện vai trò của
mình đối với mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, nhất là văn hoá, xã
hội. Từ nếp sống, nếp nghĩ của người dân khu vực đồng bằng Bắc bộ đều
mang ít nhiều dáng dấp của Phật giáo. Điều này thể hiện đặc biệt rõ nét

2

trong đời sống văn hóa, tinh thần của người phụ nữ, qua đạo đức, cách ứng
xử, đời sống tâm linh, lễ hội, trang phục…Có thể khẳng định rằng, Phật
giáo đã góp phần làm phong phú và giữ gìn bản sắc văn hóa, phát huy các
giá trị đạo đức tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam khu vực đồng bằng Bắc Bộ.
Vai trò của Phật giáo lại càng quan trọng hơn bao giờ hết khi mà, xã
hội hiện đại phát triển mạnh mẽ nhưng lại không ít sự đa dạng, phức tạp.
Phật giáo có điều kiện để toả sáng với những giá trị tinh tuý của mình, góp
phần giữ gìn và làm giàu thêm bản sắc văn hoá của dân tộc, xây dựng con
người Việt Nam nói chung và người phụ nữ Việt nói riêng, ngày càng hoàn
thiện theo tiêu chí Chân, Thiện, Mỹ, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước trong thời đại mới. Như trong Chỉ thị 37/CT-TƯ năm 1998 của Bộ
Chính trị Về công tác tôn giáo trong tình hình mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chỉ rõ cần phải phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức lành mạnh,
hướng thiện của tôn giáo, phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc và đời
sống xã hội. Gần đây, trong Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX, một lần nữa Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định và nhấn mạnh thêm rằng: “Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp
với công cuộc xây dựng xã hội mới…” [ 17; 46]. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống của xã hội nói chung và đối với
đời sống văn hóa, tinh thần của phụ nữ Việt Nam là cần thiết. Bởi việc
nghiên cứu này vừa cung cấp cơ sở lý luận vừa cung cấp cơ sở thực tiễn để
Đảng, Nhà nước và nhân dân phát huy được giá trị của Phật giáo trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Ảnh hưởng của Phật
giáo đối với đời sống văn hóa, tinh thần phụ nữ Việt Nam hiện nay” (khu
vực đồng bằng Bắc Bộ) làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học chuyên ngành
Tôn giáo học của mình.


3

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đền đề tài
Tìm hiểu về Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống
văn hóa, tinh thần người Việt nói chung đến nay cũng có khá nhiều công
trình. Song số công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của Phật giáo đối với
đời sống văn hóa, tinh thần của người phụ nữ Việt Nam còn khiêm tốn. Có
thể xem xét các công trình đó qua hai nhóm vấn đề sau:
Nhóm thứ nhất, nghiên cứu về Phật giáo nói chung và ảnh hưởng của
Phật giáo đối với xã hội Việt Nam, có các công trình sau đây:
“Tìm hiểu chức năng xã hội của Phật giáo Việt Nam”, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2010 của Trần Hồng Liên. Tác giả đi sâu
phân tích chức năng xã hội của Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay trên
các khía cạnh: kinh tế, phong tục, tập quán, đạo đức xã hội Việt Nam nói chung,
trong đó có ảnh hưởng đối với đời sống của phụ nữ Việt Nam…Mặc dù tác giả
mới chỉ đề cập những ảnh hưởng ở tầm khái quát song công trình này cung cấp
một số cơ sở lý luận và nội dung cho đề tài của luận văn.
Nghiên cứu vai trò của Phật giáo đối với văn hoá, xã hội Việt Nam ta
không thể không nhắc tới các công trình của những thế hệ đi trước như:Tác
giả Nguyễn Đăng Duy với “Phật giáo với Văn hoá Việt Nam” (1999), Nhà
Xuất bản Hà Nội. Công trình đã phân tích những ảnh hưởng qua lại giữa
văn hoá Việt Nam và Phật giáo. Từ đó tác giả đánh giá những đóng góp
của Phật giáo với văn hoá Việt Nam trên cả hai phương diện: văn hoá hữu
hình và văn hoá tinh thần. Tuy nhiên tác giả chủ yếu phân tích những ảnh
hưởng của Phật giáo với văn hoá Việt Nam ở trong các thời kỳ lịch sử
trước đây, còn giai đoạn hiện nay thì đề cập không nhiều.
Các công trình khác như: “Phật giáo trong mạch sống dân tộc” (2006)
của Thượng toạ Thích Thanh Từ; “Văn hoá truyền thống và Phật giáo Việt
Nam” (1999), Nhà Xuất bản Hà Nội của Minh Chi cũng đã đánh giá những
ảnh hưởng của Phật giáo với văn hoá, xã hội Việt Nam, trong đó có tầng

4

lớp phụ nữ Việt Nam. Nhưng cũng như công trình trên của tác giả Nguyễn
Đăng Duy, các công trình này chủ yếu đề cập vấn đề ở giai đoạn quá khứ.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu về Phật giáo, cung cấp
những cơ sở lý luận cho việc nhìn nhận, đánh giá ảnh hưởng của Phật giáo
đối với đời sống văn hóa, tinh thần của phụ nữ Việt Nam khu vực đồng
bằng Bắc Bộ như:
“Phật học khái luận” của tác giả Thích Chơn Thiện (Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, 1999) được coi là một tác phẩm lớn nghiên cứu một cách cơ
bản và tương đối toàn diện về Phật giáo. Tác giả tiếp cận Phật giáo ở góc
độ lịch sử, giáo lý, giới luật và lối sống tăng đoàn. Trong công trình này,tác
giả đã nghiên cứu một cách rất hệ thống về thứ bậc của ba ngôi tam bảo, đó
là Phật - Pháp - Tăng. Đặc biệt về phần Pháp Bảo, tác giả đã truyền tải toàn
bộ hệ thống giáo lý căn bản của Phật giáo, đây là những luận điểm mà các
học giả quan tâm nghiên cứu ở góc độ triết học, văn học, giáo dục, đạo
đức… Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra vai trò, nguồn gốc sự hình thành cũng
như sự phát triển của phật giáo.
“Lịch sử tư tưởng Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đăng Thục, công
trình này, tác giả này đã nêu lên được ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo
đối với đời sống xã hội trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ
thứ X.
“Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thời Lý Nam Đế”
của tác giả Lê Mạnh Thát, tác giả đã nêu rõ quá trình du nhập của Phật
giáo vào Việt Nam cũng như vai trò của Phật giáo trong bộ máy chính trị
của thời đó.
“Đức Phật và Phật Pháp” của tác giả Narada Thera do Phạm Kim
Khánh dịch (Nxb Thuận Hoá và Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh,
1994); tác phẩm “Phật học cơ bản” của ban Hoằng pháp Trung ương giáo
hội Phật giáo Việt Nam (Nxb Tôn giáo, 2003); tác phẩm “Phật giáo khái

5

lược” của tác giả Lưu Vô Tâm (Nxb Tôn giáo, 2003)… hầu hết các tác
phẩm trên đều truyền tải toàn bộ hệ thống giáo lý và vai trò của Phật giáo
đối với xã hội nhưng những tác phẩm này chưa nghiên cứu trong một giaid
doạn cụ thể mang tính triết học.
Bên cạnh đó còn nhiều bài viết công bố trên các tạp chí như: Tạp chí
nghiên cứu tôn giáo, triết học, văn hoá… cũng được đề cập vai trò của Phật
giáo ở nhiều góc độ khác nhau.
Nghiên cứu về phụ nữ trong đời sống xã hội, có các công trình:
“Phụ nữ Thăng Long Hà Nội, truyền thống và hiện tại” của tác giả
Nguyễn Văn Đễ, Nxb. Văn hoá Thông tin Hà Nội năm 2009. Tác phẩm đề
cập đến những phẩm chất, lối sống, văn hoá của người phụ nữ Hà Nội từ
truyền thống đến ngày nay.
“Người vợ Việt Nam” của Đào Khê, Nxb. Phương Đông, năm 2009.
Nội dung của tác phẩm này đề cập đến những vấn đề chính như: vai trò của
người phụ nữ Việt Nam trong gia đình với tư cách một người mẹ, người
vợ, nghĩa vụ giáo dục con cái của người vợ trong gia đình; trách nhiệm của
vợ với chồng và bố mẹ chồng, bố mẹ đẻ…;
“Người phụ nữ trong gia đình truyền thống Việt” của tác giả Thái
Hoàng Vũ, Nxb. Phụ nữ, năm 2008. Tác phẩm này phân tích những phẩm
chất và yêu cầu về đạo đức, lối sống, nhân cách của người phụ nữ Việt
Nam truyền thống.
“Ảnh hưởng của văn hoá Đông - Tây đối với địa vị của người phụ nữ
Việt Nam trong lịch sử” của tác giả Đặng Thị Vân Chi, Nxb. Phụ nữ năm
2007 là một tác phẩm phân tích được những yếu tố chi phối địa vị của
người phụ nữ trong lịch sử dưới khía cạnh văn hoá, có đề cập đến sự ảnh
hưởng của tôn giáo đối với địa vị người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử
nhưng chỉ mới bước đầu đặt ra vấn đề mà chưa có sự phân tích chuyên sâu.

6
Nhìn chung các công trình nghiên cứu của các tác giả khi nghiên cứu

về Phật giáo đã tiếp cận từ các góc độ: lịch sử, tôn giáo học, triết học, văn
hoá, nghệ thuật học. Và về vai trò của người phụ nữ mới chỉ chú trọng tới
vai trò của người phụ nữ trong các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, xã hội, gia
đình… mà chưa có công trình nào nghiên cứu, làm sáng tỏ ảnh hưởng của
tôn giáo đến người phụ nữ trong các tôn giáo nói chung cũng như những
ảnh hưởng của từng tôn giáo đến phụ nữ trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy,
nghiên cứu “Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh
thần phụ nữ Việt Nam hiện nay” đang còn bỏ ngỏ và cần được nghiên
cứu cấp thiết. Cho nên, chúng tôi hy vọng những nghiên cứu của mình về
vấn đề này sẽ góp phần vào việc chuyên sâu tìm hiểu những ảnh hưởng của
Phật giáo trên phương diện mới, nhằm mang lại cái nhìn khách quan hơn
khi đánh giá vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn:
Luận văn trên cơ sở phân tích những đặc điểm của Phật giáo khu vực
đồng bằng Bắc bộ, làm rõ những ảnh hưởng cơ bản của Phật giáo đến đời
sống văn hóa, tinh thần của phụ nữ Việt Nam, đồng thời đề xuất các
khuyến nghị khắc phục những biểu hiện tiêu cực liên quan đến ảnh hưởng
của Phật giáo đến phụ nữ Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện nhiệm vụ sau:
- Khái quát về sự du nhập và phát triển của Phật giáo Việt Nam và
Phật giáo khu vực đồng bằng Bắc Bộ;
- Trình bày những đặc điểm của Phật giáo khu vực đồng bằng Bắc Bộ;
- Trình bày những ảnh hưởng của Phật giáo khu vực đồng bằng Bắc Bộ
đến đời sống văn hóa, đời sống tinh thần của phụ nữ Việt Nam hiện nay;

7
- Đưa ra một số khuyến nghị nhằm khắc phục những vấn đề hạn chế
liên quan đến ảnh hưởng của Phật giáo đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời
sống văn hoá tinh thần người phụ nữ Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đời sống văn hóa, tinh thần là một khái niệm rộng, Luận văn chỉ tập
trung nghiên cứu một số ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hoá
tinh thần của phụ nữ Việt Nam trên một số lĩnh vực tiêu biểu như: văn hóa
ứng xử, văn hóa ăn, mặc, tín ngưỡng, tâm lý và phong tục tập quán.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo
Luận văn cũng kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu
trong nước và ngoài nước về Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo với
người phụ nữ Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng hệ thống các phương pháp của tôn giáo học và triết
học, phương pháp thống nhất giữa logic, lịch sử, phân tích, tổng hợp, đối
chiếu và so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở phân tích khái lược chung về Phật giáo Việt Nam, luận
văn phân tích những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh
thần của người phụ nữ Việt Nam trên một số lĩnh vực tiêu biểu như: phong
tục, tín ngưỡng, văn hoá ứng xử, thực hành nghi lễ tín ngưỡng tôn giáo của
phụ nữ. Luận văn chỉ ra những đóng góp của Phật giáo đối với đời sống
văn hoá tinh thần của phụ nữ Việt Nam.

8
7. Ý nghĩa của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu và phân tích một

số ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần phụ nữ Việt
Nam trên một số lĩnh vực cụ thể: tín ngưỡng, phong tục; văn hoá ứng xử,
thực hành nghi lễ tín ngưỡng tôn giáo của phụ nữ một cách có hệ thống.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu và giảng dạy về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, cho
việc hoạch định chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 02 chương 05 tiết.

9
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM VÀ
PHẬT GIÁO KHU VỰC ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

1.1. Khái quát chung về Phật giáo Việt Nam
1.1.1 Quá trình du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
Phật giáo là tôn giáo ngoại nhập, vào Việt Nam rất sớm, từ hơn 2000
năm trước. Thời kỳ đầu, Luy Lâu, trị sở quận Giao Chỉ lúc đó (hiện nay
thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), được coi là một trung tâm quan
trọng của Phật gáo Việt Nam. Phật giáo sớm bám rễ và hòa nhập với nền
văn hóa, tín ngưỡng bản địa của dân tộc Việt, biểu hiện rõ qua sự tích Khâu
Đà La và Man Nương, tạo ra Tứ Pháp (Vân, Vũ, Lôi, Điện). Trong nhiều
thế kỉ, Phật giáo Việt Nam được nhiều tăng sĩ Ấn Độ và Trung Hoa như:
Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Tử, Minh
Viễn, Trí Hoằng, Tăng Gia Bạc Ma …thuyết pháp. Từ thế kỉ thứ V trở đi,
Phật giáo Việt Nam bắt đầu có các tăng sĩ người Việt như: Vân Kì, Mộc
Xoa, Huệ Diễm, Trí Hành, Huệ Thắng, Đạo Thiền…
Đến nay, còn có nhiều quan điểm khác nhau về con đường truyền Phật
giáo vào Việt Nam. Nhìn chung, các quan điểm ấy đều thống nhất cho

rằng, Phật giáo du nhập vào nước ta rất sớm qua hai con đường là đường
biển và đường bộ, từ các quốc gia như: Ấn Độ, Trung Quốc, Lào,
Campuchia, Mã Lai, Indônêxia… Trong đó, Phật giáo du nhập vào Việt
Nam từ Ấn Độ trước khi được du nhập từ Trung Hoa.
Từ Ấn Độ, bằng đường biển (hay còn gọi là con đường gia vị) xuất
phát từ các hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua Srilanca, Indônêxia, Phật giáo
vào Việt Nam… Lợi dụng luồng gió thổi định kỳ hai lần một năm, phù hợp
với hai mùa mưa nắng ở khu vực Đông Nam Á, những thương nhân Ấn Độ
đã tới các vùng này để buôn bán bằng thuyền buồm. Trong các chuyến đi

10
viễn dương ấy, họ thường cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện
cho thuỷ thủ đoàn. Nhờ đó, các vị tăng sĩ đã truyền bá đạo Phật vào các dân
tộc ở Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Giao Châu, có trị sở là Luy Lâu
vốn là nơi nghỉ chân giao lưu của các thương thuyền thời bấy giờ. Lịch sử
chính thức xác nhận năm 240 trước Tây lịch: Mahoda, con vua A Dục
(Asoka) đã truyền Phật giáo vào Việt Nam [xem 11; 10].
Câu chuyện huyền thoại liên quan đến sự có mặt sớm nhất của Phật
giáo ở nước ta là “Truyện Nhất Dạ Trạch” trong “Lĩnh Nam chích quái”
của Vũ Quỳnh và Kiều Phú. Chuyện kể rằng, vào đời Hùng Vương thứ 3,
công chúa Tiên Dung con gái vua Hùng lấy Chử Đồng Tử. Hai người lập
phố xá buôn bán giao thiệp với người nước ngoài. Một hôm, Chử Đồng Tử
theo một khách ngoại quốc đến núi Quỳnh Viên ngoài bãi biển và tại đây
Chử Đồng Tử gặp một tiểu tăng tên là Ngưỡng Quang (có sách ghi là Phật
Quang) truyền phép cho Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử liền về nhà giảng lại
đạo Phật cho Tiên Dung và nàng giác ngộ. Cả hai bỏ phố phường cơ nghiệp
rồi tìm thầy học đạo.
Khi ấy nhiều thuyền buôn Ấn Độ cũng đã cập bến ở đảo Đồ Sơn (Hải
Phòng). Hằng năm trong thời gian phải chờ gió mùa Đông Bắc để trở về
Ấn Độ, họ lại lên bờ xây dựng những Phật tháp để lễ phật.

Theo Ngô Đăng Lợi thì: “Vùng Đồ Sơn mà có nhà nghiên cứu khẳng
định chính là thành Nêlê, nơi có bảo tháp của vua Asoka. Nếu vậy thì từ thế
kỷ thứ III trước Tây lịch đạo Phật đã được truyền trực tiếp vào nước ta”
[36; 124].
Vì Phật giáo Ấn Độ du nhập vào nước ta khá sớm, đến thế kỷ I SCN,
Luy Lâu đã là một trung tâm Phật giáo hưng thịnh với những bảo tháp, tăng
ni, kinh Phật rất đa dạng. Theo tư liệu về Thạch Quang Phật ở chùa Dâu thì
Phật giáo ở nước ta và trong tộc người Chăm là Phật giáo Tiểu thừa.

11
Phật giáo Ấn Độ trực tiếp du nhập vào nước ta đã dung hợp với tín
ngưỡng bản địa tạo ra một ngày Phật Đản riêng (08/04 âm lịch). Đến nay,
ngày này được cải chính lại là ngày trăng tròn 15 tháng Tư. Ảnh hưởng
trực tiếp Phật giáo từ Ấn Độ đến nước ta còn để lại dấu ấn trong ngôn ngữ.
Tiêu biểu là chữ “Buddha” (Phật) được phiên âm ra tiếng Việt là “Bụt”. Từ
“Bụt” thường xuất hiện phổ biến trong văn học dân gian của người Việt.
Phật giáo ở Giao Châu lúc ấy mang màu sắc Nam Phương, nhưng khi hòa
trộn vào tín ngưỡng bản địa, người Việt Nam lại hình dung Đức Phật như
là vị thần toàn năng có mặt ở khắp nơi sẵn sàng xuất hiện để cứu độ mọi
người.
Qua trên cho thấy, Phật giáo Ấn Độ đã trực tiếp du nhập vào Việt Nam
trước khi có sự du nhập Phật giáo từ Trung Quốc. Như nhà nghiên cứu
Trần Quốc Vượng kết luận: “Đạo Phật tại Giao Châu chắc chắn do từ Ấn
Độ truyền sang trực tiếp, mãi về sau mới lại do từ Trung Hoa tiếp tục
truyền xuống” [71; 105].
Từ Trung Quốc, bằng đường bộ, Phật giáo cũng được truyền vào Việt
Nam. Không bao lâu sau, Phật giáo Bắc phương đã chiếm ưu thế và đã thay
đổi chỗ đứng của Phật giáo Nam truyền vốn có từ trước. Từ “Buddha”
được dịch thành chữ “Phật” và từ đây chữ “Phật” dần dần thay thế cho chữ
“Bụt” và chữ “Bụt” chỉ còn giới hạn trong ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích.

Thời gian ấy, có ba tông phái Phật giáo từ Trung Hoa là Thiền Tông, Tịnh
Độ Tông và Mật Tông được truyền vào Việt Nam.
Ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam trong thời kỳ chế độ phong kiến,
tư tưởng đề cao vương quyền của nhà vua và quan lại đã dễ dàng tiếp thu tư
tưởng thần quyền của Phật giáo Đại thừa. Điều này thể hiện ở việc vừa đề
cao, tôn thờ Đức Phật tối cao, vừa tôn thờ tầng lớp các vị Bồ Tát bên dưới.
Buổi đầu giao lưu Phật giáo giữa Trung Quốc và Việt Nam vào thời
Hán nổi lên ba trung tâm Phật giáo, đó là Bành Thành (Kinh đô nước Sở

12
trước kia, nay thuộc hạ lưu sông Trường Giang, tỉnh Giang Tô); trung tâm
Lạc Dương trên bờ sông Lạc (phía nam sông Hoàng Hà, kinh đô nhà Đông
Hán, thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay) và trung tâm Luy Lâu - thủ phủ của
Giao Chỉ lúc bấy giờ.
Trung tâm Luy Lâu được hình thành sớm hơn và trở thành nơi trung
chuyển Phật giáo từ Ấn Độ sang Trung Hoa. Luy Lâu sớm có các nhà sư
Ấn Độ đến truyền kinh Phật bằng chữ Phạn. Điều đó hấp dẫn các nhà sư
Trung Hoa trước khi sang Ấn Độ phải sang Luy Lâu học chữ Phạn và tìm
hiểu Phật giáo qua các nhà sư Ấn Độ. Ngược lại, văn hoá Trung Hoa truyền
sang, chữ Hán được phổ biến đã khiến các nhà sư Ấn Độ muốn sang Trung
Hoa truyền đạo. Vậy nên họ cũng phải qua Luy Lâu học chữ Hán và tìm
hiểu về Trung Hoa.
Sự giao thoa văn hoá trên dẫn đến hiện tượng dung hoà giữa văn hoá
Ấn Độ và văn hoá Trung Hoa. Điển hình như trường hợp ngài Mâu Bác
(sinh cuối thế kỷ II) theo mẹ từ Trung Hoa sang Giao Châu khi còn rất trẻ.
Ở đây Ngài đọc các kinh sách cả Nho, Lão, Phật và viết cuốn sách tên là
“Lý hoặc luận” - Tập luận thuyết đầu tiên về đạo Phật bằng chữ Hán.
Sang thế kỷ III, có ba tăng nhân nước ngoài đến thuyết pháp tại Giao
Châu là Khương Tăng Hội người xứ Khang Cư (Sogdiane), tiếp đến là Chi
Cương Lương (Người xứ Nhục Chi) và Ma Ha Kỳ Vực (Người Ấn Độ).

Đến thế kỷ V, có hai thiền sư xuất hiện là Đạt Ma Đề Bà người Ấn Độ
đến Giao Châu để giảng dạy về phương pháp Thiền học và Thiền sư Huệ
Thắng là người Việt.
Thế kỷ VI, Lý Bí khởi nghĩa đánh đuổi quân Lương, giành độc lập,
dựng nước Vạn Xuân. Trong thời gian ở ngôi vua ngắn ngủi của mình (541
- 547) ông đã cho dựng chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc - Hà Nội)
(7;26). Sau này tại chùa Khai Quốc, Lý Thánh Tông đã lập ra Thiền Phái
Thảo Đường.

13
Thời kỳ nhà Đường (619 - 907) thống trị Việt Nam, Phật giáo cực
thịnh ở Trung Quốc. Lúc này lỵ sở chính quyền đô hộ chuyển từ Luy Lâu
về Đại La (Hà Nội) đã làm cho Đại La nhanh chóng trở thành một trung
tâm Phật giáo. Thiền Tông Trung Quốc truyền mạnh sang Việt Nam tiêu
biểu như Thiền sư Vô Ngôn Thông lập ra dòng Thiền Quang Bích. Ảnh
hưởng Thiền từ Trung Quốc truyền vào Việt Nam rất mạnh, đến nỗi cho
đến ngày nay hầu hết các ngôi chùa còn lại ở ngoài Bắc không ngôi chùa
nào ở nhà tổ không thờ một ông lông mày rộng, râu quai nón. Đó là Bồ Đề
Đạt Ma, người Ấn Độ khởi tổ dòng Thiền Trung Quốc. Đồng thời còn có
một ông nữa trông giống như một nhà sư, mặt hơi bầu giống người Trung
Quốc, khoác áo cà sa đang tọa thiền, đó là thiền sư Vô Ngôn Thông.
Thiền Tông phát triển ở Việt Nam đến thời nhà Trần có bốn dòng
chính: dòng Tì Ni Đa Lưu Chi, Thiền phái Vô Ngôn Thông, Thiền phái
Thảo Đường, Thiền phái Trúc Lâm.
Cùng với Thiền Tông, Tịnh Độ Tông từ Trung Quốc cũng sớm được
truyền vào nước ta. Tịnh Độ Tông hình thành ở Trung Quốc vào thời Đông
Tấn do Ngài sự Tuệ Viễn khởi xướng vào năm 402. Nhờ cách thức tu tập
đơn giản nên Tịnh Độ Tông trở thành tông phái phổ biến khắp Việt Nam.
Tại nơi hành hương, đâu đâu cũng gặp người dân tụng kinh A Di Đà và
niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà.

Cùng với hai tông phái trên, Mật tông cũng có ảnh hưởng tới Việt
Nam tuy mức độ còn thấp. Là một tông phái chủ trương sử dụng hình ảnh
cụ thể và những mật ngữ, mật cứu để khai mở trí tuệ giác ngộ. Mật Tông
truyền vào Việt Nam, nhanh chóng hoà vào các tín ngưỡng dân gian như
cầu hồn, dùng pháp thuật, yểm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật Tông không
có dấu hiệu phát triển rõ ràng ở Việt Nam, chỉ tuỳ thuộc vào sự thọ trì của
từng chùa và mỗi cá nhân có cơ duyên đến với tông phái này.

14
Từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ XIV là giai đoạn cực thịnh của Phật giáo
Việt Nam, đạt đến đỉnh cao ở triều đại Lý - Trần (1010 - 1400). Giai đoạn
này Phật giáo phát triển mạnh, ảnh hưởng đến hầu hết các lĩnh vực của xã
hội nhất là về tư tưởng, đạo đức, văn học, kiến trúc… nhiều vị cao tăng trở
thành quốc sư và là cố vấn của các nhà vua về mặt chính trị, quân sự, ngoại
giao, kinh tế… như Thiền sư Đỗ Thuận, Thiền sư Vạn Hạnh, Từ Lộ… Do
đó, Phật giáo thời kì này còn được coi là quốc giáo. Nhận xét về giai đoạn
hưng thịnh này của Phật giáo, trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, nhà sử học
Lê Văn Hưu viết: thời kỳ nhà Lý “nhân dân quá nửa làm sãi”, “trong nước
chỗ nào cũng có chùa” [xem 18; 161]. Hay trong thơ văn Lý - Trần có chép
lại những dịp khánh thành chùa diễn ra như những ngày lễ hội lớn: “Bốn
phương về dự, mở hội khánh thành, người như mây tụ. Ran tiếng tụng kinh,
xưng điều huyên áo. Lụa, tiền, của báu, ban phát khắp nơi” [50; 378].
Sang thế kỉ XV trở đi, Phật giáo suy yếu, Nho giáo ngày càng lớn
mạnh. Trong thời kỳ Nam Bắc phân tranh, Phật giáo được phục hồi lại,
song không được rực rỡ như trước. Các chúa Nguyễn và sau này là triều
Nguyễn lấy Nho giáo làm chính thống song vẫn duy trì và không bài bác
đạo Phật. Do đó, Phật giáo cũng có sự phát triển nhất định đối với tầng lớp
quý tộc, quan lại và đặc biệt là trong quần chúng nhân dân.
Đến nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đất nước lâm vào cảnh ngoại
xâm, xã hội nhiễu nhương, Phật giáo suy vi. Trong tình hình đấy, các vị

tăng sĩ Phật giáo đã tích cực cùng tham gia đấu tranh chống quân xâm lược,
và chấn hưng Phật giáo trên các phương diện giáo lý, giáo hội, tín đồ và
tông phái. Trong Mặt trận Việt Minh, đã xuất hiện Hội Phật giáo Cứu
Quốc; sau đó Giáo hội tăng già miền Bắc, Hội Phật học miền Trung, Hội
Phật học miền Nam, họp tại chùa Từ Đàm - Huế để thống nhất lại thành
Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam (8/4/1951).

15
Từ năm 1954 đến 1975 là giai đoạn Phật giáo Việt Nam có nhiều biến
đổi. Ở miền Bắc, Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam ra đời, vừa hoạt động
tôn giáo, vừa hoạt động yêu nước trong cương lĩnh Mặt trận Liên Việt, sau
là Mặt trận Tổ quốc. Tăng ni, Phật tử cùng đồng bào các giới tích cực thực
hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, cùng nhân dân miền
Nam đấu tranh thống nhất nước nhà. Năm 1958, Hội Phật giáo thống nhất
Việt Nam tập hợp giới Phật giáo miền Bắc, vừa hoạt động trong nước, vừa
hoạt động quốc tế.
Ở miền Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm, với chủ trương “quốc gia
hoá Thiên chúa giáo trong 5 năm” đã thi hành chính sách kỳ thị tôn giáo,
cấm đoán, đàn áp Phật giáo. Để tổ chức lại lực lượng, các tăng ni và Phật
tử ở miền Nam đã thành lập được “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống
nhất”. Lúc đầu có xu hướng thiên về các hoạt động dân tộc và dân chủ
nên “Giáo hội Việt Nam tống nhất” rất mạnh, có uy tín. Nhưng đến năm
1965 - 1966, dưới sự tác động, lôi cuốn, chia rẽ của Mỹ, Nguỵ, “Giáo hội
Phật giáo Việt Nam thống nhất” bị phân hoá thành hai phái: “Việt Nam
Quốc Tự” và “Ấn Quang”.
Sau ngày miền Nam giải phóng (1975), đại đa số các chức sắc, tăng ni,
phật tử có tinh thần dân tộc, gắn bó với cách mạng, yên tâm tu hành và
tham gia hoạt động xã hội, xây dựng đất nước. Để đoàn kết lực lượng Phật
giáo cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tháng 11 năm 1981, Giáo hội
Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) được thành lập. Đây là tổ chức thống nhất

trong lịch sử hơn 2000 năm của Phật giáo Việt Nam. GHPGVN hoạt động
theo đường hướng “Đạo Pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” đã trải qua 6
kỳ đại hội, đến nay đã được củng cố và phát triển.
Có thể nói rằng, trong hơn 2000 năm tồn tại và phát triển, Phật giáo
Việt Nam có lúc thịnh đạt, lúc suy vi, song được cải biến không ít cả về nội
dung giáo lý và hình thức tổ chức. Nhờ đó, đến nay Phật giáo đã khá hoà

16
nhập với đời sống tinh thần và nhu cầu tâm linh của đa số dân cư. Tiếp thu
ảnh hưởng của cả hai phía Ấn Độ và Trung Quốc, Phật giáo Việt Nam ngày
nay hội tụ cả hai dòng chính của đạo Phật là Đại thừa và Tiểu Thừa, chịu
ảnh hưởng của cả ba tông phái lớn là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật
Tông. Phật giáo Việt Nam đã tạo dựng cho mình một truyền thống gắn bó
với dân tộc, góp phần quan trọng trong việc xây dựng nền văn hoá dân tộc,
tạo nên nhiều nét khắc sâu trong tâm tưởng, đạo đức, tâm lý lối sống của
nhân dân, thu được nhiều thành quả cả về đạo và đời. Đúng như một nhà
nghiên cứu Lê Văn Đính đã đánh giá: “Lịch sử Phật giáo Việt Nam có
những bước thăng trầm, thịnh suy, nhưng nhìn chung trong hoàn cảnh nào
Phật giáo cũng hòa nhập vào đời sống dân tộc, cùng chung vận mệnh và có
nhiều cống hiến đối với dân tộc” [21; 17].
1.1.2. Tình hình Phật giáo Việt Nam hiện nay
Đại hội lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng 12 năm 1986 trong điều
kiện đất nước đầy khó khăn. Mục tiêu ổn định kinh tế-xã hội không đạt
được. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế rơi vào khủng
hoảng trầm trọng. Tình hình thực tế trên đặt ra ba vấn đề lớn: Cơ cấu sản
xuất; cải tạo xã hội; cơ chế quản lý kinh tế. Đây là yếu tố quan khách quan
đòi hỏi có sự đổi mới tư duy. Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Đại hội đã nêu ra năm
phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội và đề ra hệ thống các
giải pháp để thực hiện mục tiêu: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn

cơ cấu đầu tư; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội, chủ nghĩa, sử
dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Coi nền kinh tế có nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ; đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế, dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp,
chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh
xã hội chủ nghĩa; phát huy động lực của khoa học - kỹ thuật; mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.

17
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI là bước đột phá đầu tiên
về đổi mới tư duy của Đảng. Những chính sách này đã đưa ra lối thoát cho
cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội, thể hiện quan điểm đổi mới toàn diện đất
nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Những chính sách này được Đảng ta tiếp tục khẳng định,
bổ sung và phát triển trong Đại hội VII, VIII, IX, X. Tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân hàng năm trong 5 năm, từ 2001-2005 là 7,5%. Năm 2006
tăng lên 8,17%.
Bước vào 2007, thế và lực của nền kinh tế nước ta cũng như những
kinh nghiệm tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa đều đã được tăng lên đáng kể. Việc nước ta trở
thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã tạo thêm cơ
hội để nền kinh tế nước ta hội nhập sâu và rộng hơn vào kinh tế thế giới.
Theo báo cáo công bố tình hình kinh tế xã hội tháng 3 và quý I năm 2010
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại cuộc họp báo Chính phủ ngày 1/4/2010,
mặc dù đứng trước nhiều khóa khăn, thách thức, nhưng trong quý I/2010
nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục đà phục hồi của những quý cuối năm 2009
với tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đạt 5,83%, gấp gần 1,9 lần tốc độ
tăng trong quý I/2009. Đáng chú ý là sự phục hồi diễn ra hầu hết các lĩnh
vực, ngành kinh tế then chốt: giá trị sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản tăng 5,8%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,6%; thị trường

trong nước tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao, trong đó,
tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế tăng 24,1%,
hoạt động du lịch sôi nổi, lượng khách quốc tế đến việt Nam tăng 36,2% so
với cùng kỳ năm trước; thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội ước tính tăng
26,23% so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt là khu vực ngoài nhà nước tăng
tới 46,38%;…

18
Đảng và Nhà nước có những chủ trương cụ thể định hướng sự phát
triển của đất nước:
- Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là nhiệm vụ trung tâm;
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần;
- Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường;
- Đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước;
- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Các lĩnh vực xã hội giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và đời
sống của đông đảo nhân dân, xoá đói giảm nghèo, phát triển sự nghiệp
văn hoá, giáo dục đã được quan tâm phát triển từng bước đồng bộ với
phát triển kinh tế.
Trong công cuộc đổi mới, vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo cũng được
Đảng và Nhà nước Việt Nam nhìn nhận thấu triệt hơn, cụ thể hơn, đáp ứng
được yêu cầu của thời đại mới. Đặc biệt, với Nghị quyết 24/TW: Về tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, ngày 16 tháng 10 năm 1990
của Bộ Chính trị, cùng nhiều chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo khác, đã
tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam
nói riêng hoạt động ích đời, lợi đạo, góp phần thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Phật giáo đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển chung của
xã hội. Tăng ni, tín đồ Phật giáo đã đoàn kết với toàn dân trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước, cùng đứng về phía dân tộc chống ngoại xâm và

xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song, Phật giáo còn có những hạn chế nhất
định. Một số tăng sĩ do bị bọn xấu lợi đụng đã đi ngược lại với đường lối
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gây chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, đoàn kết trong Giáo hội. Một bộ phận tăng ni bị sa sút về giới
hạnh, có những nơi sinh hoạt Phật giáo còn chứa đựng các yếu tố mê tín dị
đoan…

19
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi
đã tác động đến đời sống tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. Trong
điều kiện đó, Phật giáo cũng có những thích ứng, chuyển biến cho phù hợp
với thực tiễn xã hội. Sau khi Giáo hội Việt Nam thống nhất (1981), các hệ
phái Phật giáo trong cả nước đã được quy tụ lại trong một hệ thống thống
nhất. Cho đến nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã làm nên sự phục hồi và
phát triển Phật giáo về mọi mặt.
Theo thống kê năm 2005, Phật giáo cả nước có gần 10 triệu tín đồ,
hơn 35 ngàn tăng ni, hơn 15 ngàn ngôi chùa; 4 Học viện Phật giáo, 8 lớp
Cao đẳng và 31 trường Trung cấp Phật học và một số tờ báo, tạp chí nghiên
cứu Phật học [Xem 74; 112]. Tuy nhiên, do Phật giáo là tôn giáo có quy
định tiêu chuẩn tín đồ vừa tự giác, vừa mềm dẻo nên số lượng tín đồ Phật
giáo khó đoán định một cách chính xác. Nếu dựa vào người lên chùa, có
niềm tin, thậm chí thờ Phật trong nhà thì con số có tín ngưỡng Phật giáo
còn rất nhiều.
Trước năm 1975, Phật giáo chỉ có một trường Đại học, nay số trường,
lớp tăng dần hàng năm. Năm 1993 có 22 trường, đến 2001 có 34 trường.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 4 Học viện Phật giáo với hơn 1000 tăng ni
sinh, 35 lớp Cao đẳng và Trung cấp Phật học với trên 5000 tăng ni sinh;
1,076 cơ sở từ thiện và nhân đạo, trong đó có 950 lớp học sinh tình thương.
Phật giáo Nam tông Khơme có 2.500 các vị sư theo các lớp cao cấp và
Trung cấp Phật học Pali, đào tạo, bồi dưỡng, chức sắc, nhà tu hành trong

tôn giáo đang mở rộng theo hướng rút ngắn thời gian chiêu sinh, tăng số
lượng, mở rộng loại hình đào tạo. Học viện Phật giáo thành phố Hồ Chí
Minh và Học viện Phật giáo Nam tông Khơme tại Cần Thơ sau khi được
cấp đất xây dựng mới đang tiếp tục hoàn tất thủ tục để triển khai xây dựng.
Cũng trong thời gian qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã cử nhiều tăng ni
đi du học Ấn Độ, Nhật Bản, Srilanka

20
Giáo hội Phật giáo Việt Nam luôn quan tâm đến hoạt động văn hoá,
thúc đẩy mạnh mẽ việc nghiên cứu, tuyên truyền giáo lí đạo Phật. Một loạt
các bộ kinh điển quan trọng đã được dịch ra tiếng Việt và phát hành rộng
rãi. Năm 2008, 40 ấn Phật được in để phục vụ cho Đại lễ Phật đản Liên
Hợp quốc. Ngoài ra có các tạp chí nghiên cứu như Phật giáo tập văn của
Ban văn hoá Trung ương giáo hội, Báo Giác ngộ của Thành hội Phật giáo
Hồ Chí Minh, Tạp chí Khuông Việt, Tạp chí nghiên cứu Phật học… Mặt
khác, giới Phật học Việt Nam thời gian qua cũng đã tổ chức được nhiều
hội thảo khoa học trong nước và quốc tế. Nội dung các cuộc hội thảo gắn
Phật giáo với những vấn đề cấp thiết của xã hội Việt Nam hiện nay như:
Phật giáo với văn hoá dân tộc, giáo dục Phật giáo, Phật giáo trong giai
đoạn hiện nay
Hiện nay, để thích ứng mềm dẻo với những biến đổi của đời sống xã
hội, Phật giáo không ngừng hoàn thiện mình và hấp thụ nhiều tư tưởng,
nhiều quy phạm đạo đức của xã hội. Phật giáo chú trọng đến đời sống xã
hội hiện thực và ngày càng nhấn mạnh giáo lí xây dựng một cuộc sống
công bằng, bình đẳng và tốt đẹp. Đồng thời gắn kết chặt chẽ các tín ngưỡng
với cải thiện tình trạng xã hội hiện thực và góp phần cải thiện đời sống tinh
thần của một bộ phận quần chúng mà không bỏ rơi tinh thần Phật pháp.
Chú trọng đời sống hiện thực, chủ trương nhập thế, Phật giáo Việt
Nam luôn đề cao lý tưởng “Phật pháp bất ly thế gian giác”. Dù nhập thế với
đời sống xã hội, các tăng ni có đời sống tu hành với nhiều tiện nghi hiện

đại, song không vì thế mà họ buông thả đời sống nội tâm, luôn giữ vững
Giới-Định-Tuệ.
Với tinh thần từ bi, cứu khổ cứu nạn, Phật giáo luôn mở rộng cửa chùa
để làm chỗ dựa cho những người gặp bất trắc trong cuộc sống, tích cực
tham gia các hoạt động từ thiện nhân đạo giúp đỡ những người có hoàn
cảnh khó khăn, góp phần san sẻ những gánh nặng của xã hội.

21
Trong tinh thần hoà bình và hữu nghị, đoàn kết với Phật giáo trên thế
giới, Giáo hội Phật giáo Việt Nam với tư cách là thành viên của Tổ chức
Phật giáo Châu Á vì hoà bình (CABCP) đã có mối quan hệ hữu nghị, rộng
rãi với Phật giáo ở nhiều quốc gia như: Lào, Campuchia, Thái Lan, Trung
Quốc, Mayanma, Mông Cổ, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc… Đồng thời
Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đón tiếp và làm việc với rất nhiều phái
đoàn Phật giáo các nước đến tham quan và trao đổi Phật học. Nhiều đoàn
của Phật giáo Việt Nam cũng tham gia đi nghiên cứu và tìm hiểu tình hình
tôn giáo ở các nước khác như Thái Lan, Hàn Quốc, Ấn Độ và dự Hội nghị
thượng đỉnh Phật giáo thế giới lần thứ V tại Nhật Bản.
Năm 2008, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng phối hợp đăng cai tổ
chức, Đại lễ Phật đản thành công với sự tham dự của 4000 đại biểu, trong
đó khách quốc tế khoảng 2000 đến từ 74 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới. Đây là một hoạt động văn hoá tôn giáo lớn nhất được tổ chức tại Việt
Nam từ trước đến nay, được các tổ chức cá nhân và khách quốc tế đánh giá
cao, đại lễ tưởng niệm và hội thảo khoa học nhân kỉ niệm 700 năm ngày
mất đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông. Đoàn đại diện Giáo hội Phật
giáo Việt Nam dự Hội nghị thượng đỉnh Phật giáo lần thứ V tại Nhật Bản
và nhận chuyển giao quyền đăng cai tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Phật
giáo lần thứ VI trong năm 2010. Hội nghị chuyên đề về công tác đổi mới
Phật giáo Nam tông Khơme.
Như vậy, Phật giáo ở nước ta hiện nay, hội được nhiều nhân duyên tốt

đẹp và đang có xu hướng phát triển và tiếp tục phát triển hơn nữa. Điều đó
chứng tỏ Phật giáo luôn là nhu cầu hiện thực của một bộ phận không nhỏ
quần chúng nhân dân. Là một thành tố của văn hoá Việt Nam, Phật giáo đã
và đang xứng đáng có được một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa,
xã hội của Việt Nam hiện nay.


22
1.2 Phật giáo khu vực đồng bằng Bắc Bộ hiện nay
1.2.1 Sự du nhập và phát triển của Phật giáo khu vực Đồng Bằng
Bắc Bộ
Quá trình du nhập của Phật giáo vào khu vực đồng bằng Bắc Bộ
Phật giáo du nhập vào khu vực đồng bằng Bắc Bộ, có nhiều điều kiện
thuận lợi cả về mặt tự nhiên lẫn xã hội.
Đồng bằng Bắc Bộ là một vùng đất rộng lớn được kiến tạo bởi hệ
thống sông Hồng và sông Thái Bình, bao gồm phần bằng, trũng thuộc các
tỉnh, thành phố: Hà Nội, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái
Bình,Hải Phòng và phần đồng bằng thuộc các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc,
Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình.
Về vị trí địa lý, đồng bằng Bắc Bộ là tâm điểm của con đường giao lưu
theo hai trục chính: Tây - Đông và Bắc - Nam. Vị trí này khiến cho nó trở
thành vị trí tiền đồn để tiến tới các vùng khác trong các nước khu vực Đông
Nam Á, là mục tiêu xâm lược đầu tiên của tất cả thế lực ngoại xâm khi
muốn bành trướng vào vùng lãnh thổ ở Đông Nam Á. Nhưng cũng chính vị
trí địa lý này đã tạo điều kiện cho dân cư có thuận lợi về giao lưu và tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại, trong đó có Phật giáo, tạo nên sự phong
phú, đa dạng cũng như nét đặc thù của văn hoá Bắc Bộ.
Về địa hình, đồng bằng Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc
thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ
độ cao 10 đến 15m giảm dần đến độ cao mặt biển. Toàn vùng cũng như

trong mỗi vùng, địa hình cao thấp không đều. Tại vùng có địa hình cao
nhưng vẫn có nơi thấp úng như Gia Lương (Bắc Ninh). Tại vùng trũng,
thấp như, Hà Nam, Ninh Bình… vẫn có đồi, núi
Mặt khác, khí hậu vùng đồng bằng Bắc Bộ rất độc đáo, khác hẳn
những vùn đồng bằng khác. Đây là vùng duy nhất ở Việt Nam có một mùa
đông thực sự với ba tháng có nhiệt độ trung bình dưới 18 độ C, do đó mà

23
có dạng khí hậu bốn mùa với mỗi mùa tương đối rõ nét, khiến vùng này
cấy được vụ lúa ít hơn các vùng khác. Hơn nữa, khí hậu ở đây cũng lại rất
thất thường, gió mùa đông bắc vừa lạnh vừa ẩm, gió mùa hè nóng và ẩm.
Một đặc điểm nữa là môi trường nước, đồng bằng Bắc Bộ có một
mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, khoảng 0,5 đến 1km/km
2
, gồm các dòng
sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, cùng các mương máng
tưới tiêu dày đặc. Do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa với mùa khô và mưa
nên thuỷ chế các dòng sông, nhất là sông Hồng cũng có hai mùa rõ rệt: mùa
cạn, dòng chảy nhỏ, nước trong và mùa lũ dòng chảy lớn, nước đục. Ngoài
khơi, thuỷ triều vịnh Bắc Bộ theo chế độ nhật triều, mỗi ngày có một lần
nước lên và một lần nước xuống. Chính các yếu tố nước tạo nên tập quán
canh tác, cư trú và tâm lí ứng xử cũng như sinh hoạt văn hoá cộng đồng của
cư dân trong khu vực rất mềm dẻo và linh hoạt. Đây chính là đặc điểm phù
hợp với căn tính “khế lý khế cơ” của đạo Phật, là tiền đề để đạo Phật được
du nhập một cách dễ dàng.
Về môi trường xã hội, cư dân đồng bằng Bắc Bộ sống bằng nghề trồng
lúa nước, làm nông nghiệp thuần tuý. Biển và rừng bao bọc quanh vùng
đồng bằng Bắc Bộ nhưng từ trong tâm thức, người nông dân Việt Bắc Bộ là
những cư dân “xa rừng nhạt biển”. Nói khác đi, họ là những người đắp đê
lấn biển trồng lúa, làm muối và đánh cá ven biển. Hàng ngàn năm lịch sử,

người nông dân Việt đồng bằng Bắc Bộ không có nghề đánh cá được tổ
chức theo quy mô lớn, không có những đội tàu thuyền lớn. Nghề khai thác
hải sản không mấy phát triển. Các làng ven biển thực ra chỉ là các làng làm
nông nghiệp, có đánh cá và làm muối. Ngược lại, đồng bằng Bắc Bộ là một
châu thổ có nhiều sông ngòi, mương máng, nên người dân chài trọng về
việc khai thác thuỷ sản. Tận dụng ao hồ, đầm để khai thác thuỷ sản là một
phương cách được người nông dân chú trọng. Đã có lúc việc khai thác ao
hồ thả cá tôm được đưa lên hàng đầu như câu ngạn ngữ: “Nhất canh trì, nhì

×