Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ VÀ CƠ SỞ HẠ TẦNG PHỤC VỤ XỬ LÝ NƯỚC CẤP VÀ NƯỚC THẢI NUÔI TÔM VÙNG VEN BIỂN BẮC BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.17 KB, 23 trang )

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
“NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ
VÀ CƠ SỞ HẠ TẦNG PHỤC VỤ XỬ LÝ NƯỚC CẤP VÀ NƯỚC THẢI
NUÔI TÔM VÙNG VEN BIỂN BẮC BỘ”

Người thực hiện chuyên đề: TS. Bùi Thị Lan Hương - Viện Môi trường Nông
Nghiệp

Hà Nội – 2014


MỤC LỤC
I.ĐẶT VẤN ĐỀ..........................................................................................................................3
II. MỤC TIÊU.............................................................................................................................3
III. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................................................4
3.1. Nội dung nghiên cứu....................................................................................................4
3.2. Địa điểm nghiên cứu....................................................................................................4
3.3. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................4
IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN..............................................................................................4
4.1. Tổng quan về các giải pháp xử lý nước cấp và nước thải trong hệ thống nuôi trồng
thủy sản trên thế giới...........................................................................................................4
4.2. Các giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường nước nuôi tôm ở Việt Nam.......................14
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ..................................................................................................22
5.1. Kết luận......................................................................................................................22
5. 2. Đề nghị......................................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................................23


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong hoạt động nuôi tôm, phần lớn chất thải tích tụ dưới đáy ao sẽ gây
tổn hại đến sức khỏe tôm, làm ảnh hưởng hiệu quả của nghề nuôi. Lớp bùn ở


đáy ao khiến môi trường nước bị thiếu ơxy trầm trọng và từ đó cịn sản sinh ra
nhiều chất độc như amoniac, nitrite, hydrogen sulfide…khiến tôm di chuyển đến
một số khu vực nước sạch. Việc tập trung tại cùng một chỗ làm tăng tính cạnh
tranh khi ăn, sẽ có những con bị ăn thiếu. Trường hợp môi trường bị ô nhiễm
nặng, tôm sẽ bỏ ăn, sức tăng trưởng giảm, dễ mắc bệnh, tỷ lệ chết cao (thậm chí
bị chết hàng loạt). Đối với nguồn chất thải từ hoạt động nuôi tôm, nếu không
được xử lý tốt, sẽ gây ô nhiễm môi trường đất và nguồn nước, làm ảnh hưởng
đến hệ sinh thái ven biển, tác động xấu đến các hoạt động khác ở vùng ven biển.
Một trong những phương pháp tốt nhất để giảm thiểu tác nhân ô nhiễm từ
ao nuôi thủy sản là giảm lượng xả thải từ việc giảm thay nước (Tucker &
Hargreaves, 2003). Hệ thống ni trồng thủy sản tuần hồn (RAS) cho phép
canh tác thâm canh, giới hạn lượng xả thải, do đó làm giảm sử dụng nước và
giảm thiểu tác động xấu về môi trường. Việc kết hợp hệ thống đất ngập nước
(ĐNN) vào RAS để xử lý nước ao tôm thâm canh tuần hồn được nghiên cứu
thành cơng ở Đài Loan (Lin et al., 2005).
Để xác định các biện pháp ứng dụng trong xử lý nước cấp và nước thải
trong các hệ thống nuôi trồng thủy sản hiện nay và việc áp dụng trong thực tiễn
nuôi trồng thủy sản và nuôi tôm ở các tỉnh ven biển Bắc Bộ, chúng tôi thực hiện
chuyên đề: “Nghiên cứu đánh giá hiện trạng áp dụng công nghệ và cơ sở hạ
tầng phục vụ xử lý nước cấp và nước thải nuôi tôm vùng ven biển Bắc Bộ”
II. MỤC TIÊU
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về các nghiên cứu trong và ngoài nước về công
nghệ xử lý nước cấp và nước thải trong hệ thống nuôi trồng thủy sản.
- Xác định được các công nghệ hiện tại đang áp dụng trong xử lý nước
vùng nuôi tôm vùng ven biển bắc bộ


III. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu
- Tổng hợp được các tài liệu các nghiên cứu và ứng dụng trong xử lý nước

cấp, nước thải trong hệ thống nuôi trồng thủy sản trong nước và trên thế giới.
- Tổng hợp được các ứng dụng các công nghệ đang áp dụng trong xử lý
nước cấp, nước thải trong nuôi tôm ở các vùng ven biển Bắc Bộ.
3.2. Địa điểm nghiên cứu
+ Tại Nam Định: nghiên cứu được tiến hành ở 2 huyện Hải Hậu và Giao
Thủy, 4 xã gồm: Hải Lý, Hải Chính (Hải Hậu), Giao Phong và Quất Lâm (Giao
Thủy)
+ Tại Quảng Ninh: Nghiên cứu được tiến hành ở 2 huyện: Móng Cái và
Quảng Yên, 4 xã: Vạn Ninh, Bình Ngọc (Móng Cái), Hà An, Tân An (Quảng
Yên)
3.3. Phương pháp nghiên cứu.
- Thu thập số liệu, tổng hợp các kết quả nghiên cứu, ứng dụng trong nước
và trên thế giới về công nghệ áp dụng, phân tích đánh giá thực trạng và các biện
pháp đã áp dụng.
- Điều tra thực địa: tiến hành khảo sát thực địa để khái quát hiện trạng nuôi
tôm của vùng nghiên cứu. Đánh giá và phân tích hiện trạng cơng nghệ xử lý
nước trong quy hoạch các vùng NTTS.
IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Tổng quan về các giải pháp xử lý nước cấp và nước thải trong hệ thống
nuôi trồng thủy sản trên thế giới
(i) Phương pháp sử dụng các vật liệu lọc, khoáng hấp phụ
Nhiều loại vật liệu có khả năng hấp phụ chất ơ nhiễm được nghiên cứu và
tiềm năng của chúng cũng đã được công bố. Các loại vật liệu hấp phụ phổ biến
đó là: nhơm họat tính, than họat tính, sắt hoặc mangan bọc cát, cao lanh đất sét,


Bentonite, Zeolit, hydroxit sắt, silic oxit, apatít, nhựa trao đổi ion, và rất nhiều
vật liệu có trong tự nhiên như xơ dừa, hoặc nhân tạo khác...
Khoa Hóa, Đại học kỹ thuật Athen, Hy Lạp đã sử dụng zeolite tự nhiên để
xử lý KLN có trong bùn sau xử lý nước thải đạt hiệu quả cao đối với Cd, Cr, Cu,

Fe, Mn, Ni, Pb, Zn. Viện Nghiên cứu Môi trường của Trường North Highland
College và Viện UHI Millenium đã nghiên cứu xử lý kim loại kiềm thổ và kim
loại năng (KLN) bằng chitin thô. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả xử lý
của chitin thô với KLN cao hơn với kim loại kiềm thổ.
Theo K. Kadirvelu, K. Thamaraiselvi and C. Namasivayam, than hoạt tính
được sản xuất từ xơ dừa để hoạt hóa nước theo phương pháp hóa học dựa trên
các đặc tính hóa học của nó. Than xơ dừa có khả năng hấp thu Ni (II). Điều này
được thể hiện qua sự giảm dần nồng độ Cacbon khi nồng độ Ni không đổi, hoặc
sự tăng dần nồng độ Ni khi nồng độ Cacbon không đổi. Kết quả là một lượng
lớn Ni được hấp thu trên 1 đơn vị trọng lượng Cacbon. Các mơ hình Langmuir
và Freundlich thể hiện sự hoạt động của ion kim loại hấp thu này hoàn toàn phù
hợp với thực nghiệm: Khả năng hấp thu (Qo) là 62,5 mg Ni (II)/g tại thời điểm
ban đầu với pH = 5,0 và ở nhiệt độ t = 30°C cho các kích thước hạt từ 250-500
μm. Sự hấp thu Ni tăng lên với pH = 2-7 và vẫn tiếp tục cho tới khi pH = 10.
Việc thu hồi Ni (II) sau khi hấp thu có thể được thực hiện bằng cách xử lý than
nạp Ni với HCl. Nhả hấp thu đã nghiên cứu xác nhận đó là sự hấp thu trao đổi
ion.
Trên thế giới đã có những nghiên cứu về vật liệu hấp phụ chế tạo từ các
phụ phẩm nông nghiệp như lõi ngơ, bã mía, vỏ lạc, vỏ đỗ, … để hấp phụ các
kim loại nặng trong môi trường nước. Kết quả nghiên cứu của S.R. Shukla,
Roshan S. Pai, Amit D. Shendarkar trên các sợi xơ dừa cho thấy xơ dừa có khả
năng hấp thu các kim loại nặng như Ni (II), Zn (II) và Fe (II) từ nước thải chứa
kim loại nặng. Các sợi xơ dừa này cũng được hoạt hóa bằng cách oxy hóa với
H2O2 để sử dụng như là vật liệu hấp thu. Các sợi xơ dừa đã được hoạt hóa hấp
thụ được khoảng 4,33 mg/g Ni (II), 7,88 mg/g Zn (II) và 7,49 mg/g Fe (II) so
với sự hấp thu của các sợi xơ dừa chưa hoạt hóa là 2,51 mg/g Ni (II), 1,83 mg/g


Zn (II), 2,84 mg/g Fe (II). Giá trị hấp thu các kim loại nặng tăng lên khi pH
giảm.

(ii)Công nghệ thẩm thấu ngược RO
Công nghệ thẩm thấu ngược RO nhờ phong điện với mơ hình pilot được
thử nghiệm trên đảo Coconut – Hawaii (Mỹ). Nguyên lý của công nghệ là sử
dụng năng lượng gió chuyển thành thủy năng để dịng nước đi qua màng RO.
Phần nước sạch qua màng được tái sử dụng cho ao nuôi. Phần nước ô nhiễm
đậm đặc được thu gom để xử lý phù hợp hoặc tái sử dụng cho mục đích ni
trồng khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tùy vào tốc độ gió, nước sạch được tạo
ra liên tục và tuần hoàn khoảng từ 228 – 366lít/giờ và nồng độ Nitơ được loại bỏ
từ 90 – 97%.
Một nghiên cứu khác cũng được tiến hành bằng phương pháp sử dụng công
nghệ màng vi sinh tầng chuyển động - MBBR (moving bed biofilm reactors) với
ưu điểm vận hành nó đơn giản và khơng cần thiết phải có thêm cơng đoạn lắng.
Cơng nghệ MBBR có tốc độ nitrat hóa cao nhờ khả năng tập trung mật độ lớn
của vi sinh vật trong chất mang (độ xốp của chất mang là 98%, diện tích bề mặt
6000 – 8000 m2/m3) vào sự chuyển động của chất mang trong nước. Lượng khí
cấp cho q trình nitrat hóa đủ duy trì sự chuyển động của chất mang trong nước
do chất mang nhẹ (xấp xỉ khối lượng riêng của nước). Kích thước chất mang khá
thô (cỡ cm) nên không cần tới bể lắng mà chỉ cần tấm lưới chắn là đủ. Sử dụng
công nghệ trên có thể mang lại hiệu quả tốt trong kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường
do nước ni trồng thủy sản và phát triển bền vững cho ngành sản xuất.
Công nghệ màng Polyethersulfone (PES) không đối xứng áp suất thấp được
các nhà khoa học Malaysia nghiên cứu ứng dụng xử lý nước thải nuôi tôm.
Màng PES được ứng dụng trên ngun lý sự đảo ngược giữa pha khơ/ướt, qua
đó xác định hiệu quả xử lý đối với nguồn nước bị ô nhiễm. Hệ thống xử lý bao
gồm một bể lọc cát thô để tách cặn thô trong nước. Với mục tiêu tập trung vào
xử lý các chất ô nhiễm dinh dưỡng (tổng Nitơ, tổng Phốt pho), màng PES được
xác định có khả năng loại bỏ tổng N lên tới 85,7% và tổng P là 96,49% với áp
suất chênh lệch yêu thấp cầu từ 4 – 8 bar.



(iii) Phương pháp hoạt hóa nước:
Smirnov (2000) đã nghiên cứu và phát triển "Phương pháp và thiết bị để
sản xuất những dạng chất lỏng hoạt hóa và phương pháp sử dụng” nhờ một thiết
bị mang tên "công nghệ cộng hưởng từ ở cấp độ phân tử - MRET”. Theo đó
phân tử nước là một hình tháp với 2 phân tử hidro và 1 phân tử oxy liên kết với
nhau tạo thành góc 104,50. Đây là cấu trúc phổ biến của các phân tử nước trong
tự nhiên, tuy nhiên thực tế thì các phân tử nước này lại thường chịu các lực liên
kết hóa học khác, do vậy liên kết hidro với nguyên tử oxy có sự thay đổi, nó trở
thành các nhóm tinh thể mà ở đó lực liên kết chỉ cịn có 5 – 10% lực liên kết H –
O. Lúc này cấu trúc của tinh thể nước gần giống như cấu trúc của nước trong tế
bào. Bằng các biện pháp kỹ thuật (sử dụng thiết bị hoạt hóa) sẽ góp phần nâng
cao lực liên kết H – O do lúc này nước được hoạt hóa (activated water).
Theo Smirnov thì nước hoạt hóa có vai trị:
+ Nâng cao năng lực sinh học của nước, giảm hàm lượng Ca2+, Mg2+
giảm độ cứng của nước;
+ Thay đổi pH trong nước dần về giá trị trung tính
(iv) Phương pháp sử dụng vi sinh vật
Vào những năm giữa thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học trên thế giới đã chứng minh được vai trò của vi sinh vật trong tự nhiên
đối với các quá trình phân giải các hợp chất hữu cơ. Trong tự nhiên, vi sinh vật
được phân bố rộng rãi trong đất, nước và khơng khí và trên cơ thể động, thực
vật. Ngồi một số ít gây bệnh cho người và động, thực vật, hầu hết vi sinh vật
đều tham gia và đóng vai trị quan trọng trong q trình chuyển hố vật chất,
nhờ đó mà chuỗi thức ăn và lưới năng lượng luôn được duy trì ở trạng thái cân
bằng.
Trên thực tế, vi sinh vật không trực tiếp phân huỷ các hợp chất hữu cơ mà
chúng chỉ tham gia chuyển hóa hợp chất hữu cơ thành những chất đơn giản như
đường, amino acid, mỡ... nhờ các enzym ngoại bào. Q trình phân giải có thể
được thông qua 3 con đường sau:



- Phân hủy hợp chất cácbon tự nhiên thành đường đơn thơng qua phân
huỷ hồn tồn
- Phân hủy mỡ thành đường đơn và axit béo
- Phân hủy Protein thành amôn hoặc nitrat
Xử lý nước bằng phương pháp sinh học là việc sử dụng các vi sinh vật để
phân hủy các chất thải trong nước, chủ yếu là các hợp chất hữu cơ dễ phân hủy. Xử
lý nước thải bằng vi sinh vật được sử dụng lần đầu tiên ở Anh vào năm 1918.
Khoảng 13 năm sau đó, phương pháp này được thực hiện tại Horidome và Atsuta
của Nagoga. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quy trình xử lý sinh học khác nhau
được áp dụng và không ngừng được cải tiến. Xử lý sinh học được chia thành các
loại:
- Xử lý hiếu khí: là oxy hóa hay khử bằng các vi sinh vật hiếu khí, như
trong quy trình bể hiếu khí có bùn hoạt tính (bể aeroten), màng lọc sinh học, đĩa
quay sinh học,…
- Xử lý kỵ khí: là xử lý bằng các vi sinh vật kỵ khí, như trong các bể
biogas
- Xử lý bằng phương pháp sinh học trong điều kiện tự nhiên, khi đó thực
vật sẽ trở thành giá thể cho vi sinh vật hoạt động
Hiện nay, trên thế giới đã ứng dụng thành cơng q trình lọc sinh học nhờ
vi khuẩn để xử lý nước trong nuôi trồng thuỷ sản. Công nghệ này chủ yếu dựa
trên việc duy trì một tỉ lệ hợp lý Carbon : Nitrogen để thúc đẩy quá trình phân
hủy dị dưỡng. Một loạt thí nghiệm đã được tiến hành để nghiên cứu hiệu quả
của công nghệ bio-floc khi sử dụng kết hợp với hệ thống nuôi nước chảy, cụ thể
là được sử dụng như một bộ phận xử lý rời phía ngồi của hệ thống tuần hoàn
nước.
Chuntapa Benjamas và ctv đã tiến hành thả vi khuẩn lam Spirulina
platensis trong bể nuôi tôm hùm để kiểm soát chất lượng nước. Kết quả cho thấy
hàm lượng Nitơ vô cơ (NH4, NO2, NO3) được xử lý khá hiệu quả. Khi số lượng
vi khuẩn này tăng đến mức có nguy cơ gây ơ nhiễm nguồn nước sẽ được vớt ra

khỏi bể (kích thước vi khuẩn lam khá lớn).


Trong thời gian qua, việc nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học trong xử
lý nước nuôi trồng thủy sản là hướng đi có ý nghĩa thực tiễn về khía cạnh bảo vệ
môi trường và đảm bảo hiệu quả sản xuất, góp phần đưa nghề ni trồng thủy
sản phát triển bền vững, đảm bảo an toàn với thuỷ sản, người nuôi và người tiêu
dùng.
Thành phần sinh học của chế phẩm này gồm nhiều chủng vi sinh; tập hợp
các thành phần men ngoại bào của quá trình sinh trưởng vi sinh; các enzyme
ngoại bào tổng hợp; các chất dinh dưỡng sinh học và khống chất kích hoạt sinh
trưởng ban đầu và xúc tác hoạt tính. Chế phẩm sinh học có khả năng:
+ Khống chế sinh học: Những dịng vi khuẩn có ích trong chế phẩm có
khả năng sinh các chất kháng khuẩn ví dụ bacteriocin để tiêu diệt các vi khuẩn
gây bệnh trong ao.
+ Tạo sức sống mới: Các vi khuẩn trong chế phẩm khi đưa vào ao sẽ phát
triển mạnh mẽ cả về số lượng và hoạt tính, có khả năng tồn tại cả trong môi
trường và trong đường ruột, ảnh hưởng có lợi đối với vật ni.
+ Xử lý sinh học: Khả năng phân giải các chất hữu cơ trong nước giải
phóng axít amin, glucose, cung cấp thức ăn có vi sinh vật có ích. Giảm thiểu
thành phần nitơ vô cơ như NH3, NO2- thành các chất không độc như NH4+, NO3-,
giảm mùi hôi thối, cải thiện chất lượng nước.
(v) Phương pháp sử dụng hệ động, thực vật để hấp thụ các chất ơ nhiễm
Sử dụng các lồi động, thực vật thủy sinh để hấp thụ các chất ô nhiễm
nhằm giảm thiểu chất hữu cơ lơ lửng là giải pháp được dựa trên trên cơ sở q
trình chuyển hóa vật chất trong hệ sinh thái thông qua chuỗi thức ăn. Người ta
thường sử dụng thực vật làm các sinh vật hấp thụ các chất dinh dưỡng là nitơ và
phospho, carbon để tổng hợp các chất hữu cơ làm tăng sinh khối (sinh vật tự
dưỡng), đó là tảo hay thực vật phù du, rong câu và các loài thực vật thủy sinh
khác.

(vi) Sử dụng thực vật thủy sinh:
Trên thế giới, các nhà khoa học đã nghiên cứu và tìm ra có ít nhất 400 lồi
thực vật thuộc 45 họ có khả năng hấp thụ kim loại. Các loài này là các loài thực


vật thân thảo hoặc thân gỗ, có khả năng tích luỹ và khơng có biểu hiện về mặt
hình thái khi nồng độ kim loại trong thân cao hơn hàng trăm lần so với các lồi
bình thường khác.
Nhiều lồi thực vật như Cỏ nến Typha sp., Sậy Phragmites sp,...đã được
biết đến như các lồi có khả năng vận chuyển khí từ lá xuống rễ và oxy được
giải phóng vào nước ở vùng rễ, được vi sinh vật sử dụng cho quá trình phân hủy
hiếu khí. Gần đây, ở nhiều nước như Đức, Anh, Hungari, Thái Lan, Ấn Độ,…,
công nghệ sử dụng cánh đồng lọc bằng lau sậy đã được ứng dụng để xử lý nước
thải và hiệu quả xử lý nước thải của công nghệ vùng rễ gần với tự nhiên này có
thể sánh được với cơng nghệ xử lý hiếu khí bằng bùn hoạt tính thơng thường.
Phương pháp dùng lau sậy xử lý nước thải do giáo sư Kathe Seidel người
Đức đưa ra từ những năm 60 của thế kỷ trước. Khi nghiên cứu khả năng phân
huỷ các chất hữu cơ của cây, ông nhận thấy ưu thế của phương pháp này chính
là tác dụng đồng thời giữa rễ, cây và các vi sinh vật ở vùng rễ. Trong đó, loại
cây có nhiều ưu điểm nhất là lau sậy. Ơxy được vận chuyển từ lá xuống rễ, rồi
được rễ thải vào khu vực xung quanh và được vi sinh vật sử dụng cho q trình
phân huỷ hiếu khí. Số lượng vi khuẩn trong đất quanh rễ loại cây này có thể
nhiều như số vi khuẩn trong các bể hiếu khí kỹ thuật (aeroten), đồng thời phong
phú hơn về chủng loại từ 10 đến 100 lần. Chính vì vậy, các cánh đồng lau sậy có
thể xử lý được nhiều loại nước thải có chất độc hại khác nhau và nồng độ ô
nhiễm lớn.
Đáng chú ý, trong các phương pháp xử lý sinh học ở điều kiện tự nhiên,
người ta đang ngày càng hướng tới sử dụng nhiều các loài thực vật thủy sinh.
Các lồi này có khả năng làm sạch mơi trường nước bằng cách cung cấp oxy từ
hệ rễ hoặc từ quá trình quang hợp vào nước cho các vi sinh vật hiếu khí hoạt

động giữ nguyên làm giá đỡ cho các vi sinh vật trong nước; sử dụng các chất
khống trong nước. Các lồi này thuộc các nhóm tảo, thực vật thủy sinh sống
chìm, thực vật thủy sinh sống trôi nổi và thực vật thủy sinh sống nổi.
(vii) Sử dụng động vật thủy sinh:


Bên cạnh các loài thực vật, nhiều nghiên cứu cũng đã tiến hành thăm dò
khả năng sử dụng động vật trong xử lý ô nhiễm môi trường. Kế tiếp trong chuỗi
thức ăn là các động vật bậc một – động vật ăn thực vật. Ðiển hình của các động
vật bậc một ở vùng nước ven biển là các loại ngao, vẹm, hàu là các lồi có thể
tiêu thụ các thực vật phù du và cải thiện điều kiện trầm tích đáy. Các loài cá ăn
thực vật phù du và mùn bã hữu cơ như cá măng, cá đối cũng được thử nghiệm
sử dụng ở các kênh thoát nước thải (Micheal J. Phillips, 1995).
Vọp sông Geloina coaxans là đối tượng thường phân bố ở những khu
rừng ngập mặn ven biển, chúng là lồi thích ứng rộng với độ mặn (từ 10 –
30‰), thích hợp nền đáy bùn nhão trong các khu rừng đước, sú vẹt rậm rạp, có
tán rừng che phủ ban ngày (Eileen và Courtney, 1982).
Các nghiên cứu của Jones và ctv (2001, 2002) cho thấy lồi sị đá Sydney
Saccotrea commercialis có khả năng làm giảm đáng kể hàm lượng các chất lơ
lửng, mùn bã hữu cơ, ni tơ tổng số, photpho tổng số, Chlorophyll-a, vi khuẩn
tổng số trong nước thải từ các ao nuôi tôm thâm canh. Hàm lượng chất rắn lơ
lửng có thể giảm được 49%, số lượng vi khuẩn giảm 58%, ni tơ tổng số giảm
đến 80% và photpho tổng số giảm 76%, Chlorophyll-a giảm 8%. Các loài cá ăn
thực vật phù du và mùn bã thải hữu cơ như cá măng, cá đối cũng được thử
nghiệm sử dụng ở kênh thoát nước thải (Micheal J. Philippin, 1995).
Theo tính tốn lý thuyết, ở điều kiện Việt Nam, 1 ha rừng ngập mặn (RNM)
mỗi năm tăng trưởng 56 tấn sinh khối và có thể hấp thụ được 219 kg nitơ, 20 kg
photpho (Jesper Clausen, 2002).
Darooncho (1991) đã nghiên cứu sử dụng rong biển (seaweed) để xử lý
nước thải ni tơm và sử dụng tuần hồn nước tại Thái Lan. Kết quả nghiên cứu

tại 2 tỉnh Chanthaburi và Songkhal cho thấy lượng amoni và BOD bị hấp thu bởi
rong biển là 100% và 39% sau 24 giờ. Thái Lan cũng đã sử dụng biện pháp xử
lý nước thải sau ni tơm bằng các đối tượng sinh học là sị Crassostrea sp.,
rong câu Gracillaria sp. sau đó qua lọc cát và cấp lại cho ao nuôi.
Ở Trung Quốc, để xử lý nước thải nuôi tôm công nghiệp, Xiongfei (2005)
cùng các cộng sự đã nghiên cứu sử dụng nhuyễn thể hai mảnh vỏ để xử lý nước


thải sau ni. Tỷ lệ về diện tích tương ứng ao tôm: ao nhuyễn thể: khu vực chứa
nước dự trữ là 1: 0,8: 0,4. Nước thải từ ao nuôi tôm được bơm ra kênh dẫn đến
hệ thống các ao nuôi nhuyễn thể và nước cuối hệ thống ao nhuyễn thể sẽ được
lấy để cấp cho các ao nuôi. Hiệu quả của hệ thống này đạt được là 40 – 83,6%
P-PO4; 45 – 89% TSS; 22 – 24% N-NO3; 19 – 64% TAN và tiền lãi từ thu
nhuyễn thể cũng bằng tiền lãi từ thu hoạch tôm.
Xuất phát từ giá trị kinh tế (chi phí ni thấp vì khơng tốn thức ăn), xã hội
và môi trường, nên các đối tượng nhuyễn thể 2 mảnh vỏ có hình thức sống vùi
tại những bãi triều đáy cát hay đáy bùn như: nghêu, ngao, sị huyết, móng tay, tu
hài… đã được nghiên cứu và nuôi phổ biến ở nhiều nước trên thế giới như
Trung Quốc, Indonesia, Đài Loan, Malaysia, Thái Lan, Philippine… (Lai và
Wang, 1980, dẫn theo Lê Minh Viễn, 2008). Theo Cole (1992), sị
Potamocorbula amurensis có thể lọc được từ 100 – 580 lít nước/gam trọng
lượng (tính theo trọng lượng khơ) trong thời gian từ 2 – 28 giờ.
Theo Ryther và cộng sự (1995), sị có thể loại bỏ Nitrogen và cặn hiệu quả
cao hơn vẹm. Hiệu quả lọc bỏ Nitrogen và cặn lơ lửng của sò tương ứng là 94 và
48%.
Khi nghiên cứu sử dụng sò Crassostrea virginica để xử lý nước thải phát
sinh trong nuôi tôm, Jakob (1993) cho biết chất thải từ ni tơm có thể làm cho
sị tăng trưởng nhanh, mức tăng đạt được từ 0,04 g lên 55 g sau 4 tháng. Nghiên
cứu của tác giả khẳng định nước thải từ nuôi tôm công nghiệp hay bán công
nghiệp có thể cung cấp đủ nhu cầu tăng trưởng nhanh của sị. Do đó việc sử

dụng sị khơng chỉ có tác dụng xử lý nước thải mà còn tăng thu nhập cho người
nuôi.
Theo Ling và cộng sự (1993), tại Thái Lan người ta đã sử dụng vẹm xạnh
(Perna viridis) bám trên các thanh tre và cho vào khu vực nước thải từ các khu
vực nuôi tôm ra vịnh Thái Lan.
Các nghiên cứu của Tunviali và cộng sự (1991) cũng cho thấy vẹm xanh có
thể giảm amoni và BOD trong nước thải nuôi tôm tương ứng là 67% và 77% sau 24
giờ.


Tại Malaysia, Enander và cộng sự (1994) đã nghiên cứu sử dụng sò
Scappharca imaeguivalvis và rong biển Gracilaria spp để xử lý nước thải sau
khi nuôi tôm tại tỉnh Kota Bharru cho hiệu quả giảm amoni, tổng N, tổng P
tương ứng là 61,72%, và 61%.
Một số công nghệ sinh học khác cũng được áp dụng xử lý nước thải nuôi
tôm tại một số nước châu Á như dùng bãi lọc cát kết hợp với nhiều giun tơ. Kết
quả thí nghiệm đã lọc được 1,5 m 3/m2/ngày, như vậy chỉ cần 1 ha bãi lọc có thể
đáp ứng được 10 ha ni tơm cơng nghiệp. Trồng rong biển (seaweed) và ni
sị (Crassostreasp.), rong câu (Gracillaria sp.) sau đó qua lọc cát và cấp lại cho
ao nuôi (Thái lan), kết quả cho thấy lượng amoni và BOD bị hấp thu bởi rong
biển là 100% và 39% sau 24 giờ.
Nuôi nhuyễn thể hai vỏ tại Quảng Châu- Trung quốc [11] tỷ lệ về diện
tích tương ứng ao tơm: ao nhuyễn thể: khu vực chứa nước dự trữ là 1: 0,8: 0,4.
Nước thải từ ao nuôi tôm được bơm ra kênh dẫn đến hệ thống các ao nuôi
nhuyễn thể và nước cuối hệ thống ao nhuyễn thể sẽ được lấy để cấp cho các ao
nuôi. Hiệu quả của hệ thống này đạt được là 40 – 83,6% P-PO4; 45 – 89% TSS;
22 – 24% N-NO3; 19 – 64% TAN và tiền lãi từ thu nhuyễn thể cũng bằng tiền
lãi từ thu hoạch tôm.
Tuy tiềm năng sử dụng các loài động vật thủy sinh đặc biệt là các loài
nhuyễn thể hai mảnh vỏ để xử lý nước thải và nước bị ô nhiễm là rất lớn nhưng

cho đến nay chưa có đánh giá nào về chất lượng thủy sản nuôi trong vùng nước
bị ô nhiễm. Mặt khác việc sử dụng động vật thủy sinh để xử lý ơ nhiễm cần một
diện tích ao ni và chi phí lớn, nó chỉ có thể thành cơng khi kết hợp với nghề
ni trồng thủy sản. Vì lý do đó, việc ứng dụng các lồi nhuyễn thể trong xử lý
nguồn nước ô nhiễm mới chỉ dừng lại ở quy mơ nhỏ.
Tóm lại: Trên thế giới hiện nay có rất nhiều công nghệ xử lý nước bị ô
nhiễm, mỗi công nghệ có hiệu quả xử lý khác nhau. Xử lý nước bằng các
phương pháp sinh học là một trong những hướng được sử dụng phổ biến, do
hiệu quả xử lý bền vững, thân thiện với môi trường và vốn đầu tư thấp.


4.2. Các giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường nước nuôi tôm ở Việt Nam
Nước dùng trong nuôi trồng thủy sản thường chứa nhiều loại tác nhân gây
bệnh. Trước khi sử dụng để nuôi trồng thủy sản, cần xử lý nước, tiêu diệt tác
nhân gây bệnh.
+ Xử lý nước thải và nước cấp bằng phương phương pháp cơ học:
Được thực hiện qua các ao lắng, lọc. Đây là biện pháp xử lý sơ bộ trước khi
áp dụng các biện pháp xử lý sinh học, hóa học để loại bỏ một phần những vật
chất lơ lửng trong nước.
Phương pháp này được sử dụng để xử lý nước cấp, nước thải từ các ao
ni và có thể áp dụng ngay trong các ao nuôi để giảm bớt một phần các chất ô
nhiễm, tạo điều kiện thuận lợi và giảm bớt áp lực cho các hệ thống xử lý tiếp
theo.
Nhược điểm của phương pháp này là chiếm nhiều diện tích đất để xây dựng
các ao lắng chứa nước và các kênh trong hệ thống dẫn đến ao lắng, do đó
phương pháp này hiện nay ít được sử dụng.
+ Xử lý nước thải và nước cấp bằng phương pháp hoạt hóa nước:
Hiện nay, cơng nghệ hoạt hóa nước cũng đang được nghiên cứu ứng
dụng để xử lý nước cho một số ao, hồ trong thành phố và nước thải từ bãi
chôn lấp rác. Công nghệ này cũng được áp dụng để xử lý nước nguồn trước

khi cấp vào các ao ni. Nó có thể xử lý được một số tác nhân ô nhiễm về hóa
chất, kim loại nặng...
+ Xử lý nước thải và nước cấp bằng phương pháp hóa học:
Phương pháp thường được sử dụng để xử lý các nguồn ơ nhiễm hố chất
nghiêm trọng, ngoài ra được dùng để diệt các loài vi sinh vật gây bệnh như ký
sinh trùng, động vật đơn bào, vi khuẩn, vius.. và các chất khí độc hịa tan trong
nước. Hóa chất thơng thường dùng cho xử lý là Chlorine, clorua vôi ... nồng độ
30 ppm để xử lý các phần tử keo hữu cơ lơ lửng trong nước. Biện pháp này chỉ
được áp dụng khi có dịch bệnh xảy ra trong khu vực nuôi. Đây là hình thức xử
lý triệt để và thường được áp dụng đối với hệ thống xử lý liên tục có nhiều ao xử
lý khi thải ra nguồn tiếp nhận. Nước thải được xử lý định kỳ theo thời gian.


+ Xử lý nước thải và nước cấp bằng phương pháp sinh học:
Sử dụng hệ động, thực vật thuỷ sinh để hấp thụ các chất hữu cơ hiện đang
được áp dụng phổ biến. Tùy theo thành phần ô nhiễm, nồng độ ô nhiễm và yêu
cầu chất lượng nước thải sau xử lý mà có thể áp dụng q trình xử lý sinh học
yếm khí hoặc hiếu khí. Các biện pháp kết hợp trong quá trình xử lý sinh học
gồm:
- Thả các loại thực vật thủy sinh như bèo lục bình, cá nhằm giảm thiểu chất
hữu cơ lơ lửng;
- Tăng cường sục khí thúc đẩy q trình phân hủy chất hữu cơ;
- Bổ sung chế phẩm sinh học
- Bổ sung các lồi nhuyễn thể, cá ... để có thể giảm bớt hàm lượng thức ăn
dư thừa, tôm chết, phân thải...
Biện pháp này có ưu điểm là vừa tiết kiệm được chi phí vận hành vừa tăng
hiệu quả xử lý chất thải hữu cơ để phân hủy sinh học. Diện tích xử lý có thể tận
dụng các mương nước, các ao lắng...
Một số chế phẩm vi sinh thường dùng để cải thiện môi trường nước ao nuôi
tôm, cá như Super VS, BRF-2 quakit… Thành phần sinh học của chế phẩm này

gồm nhiều chủng vi sinh, tập hợp các thành phần men ngoại bào của quá trình
sinh trưởng vi sinh, các enzyme ngoại bào tổng hợp, các chất dinh dưỡng sinh
học và khoáng chất kích hoạt sinh trưởng ban đầu và xúc tác hoạt tính. Chúng có
khả năng tiêu thụ các chất hữu cơ phát sinh trong quá trình sinh trưởng và phát
triển của vật ni trong ao hồ. Hay nói cách khác, chúng có tác dụng phân giải
chất hữu cơ hịa tan và khơng hịa tan từ phân tơm, các thức ăn thức ăn thừa tích
tụ đáy ao ni, tạo được sự ổn định, duy trì chất lượng nước và cả màu nước
trong ao hồ. Mặt khác chế phẩm này còn giúp giảm thiểu được các vi sinh vật
gây bệnh như Vibrio, Aeromonas, E.coli…, làm tăng thêm lượng oxy hịa tan
trong mơi trường nước ao nuôi và giảm thiểu lượng amoniac.
Đỗ Thị Tố Uyên và Cs, (2003) đã đưa ra 2 mô hình nghiên cứu xử lí nước
thải từ chế biến tinh bột gạo bằng vi khuẩn quang hợp. Mơ hình 1 sử dụng bao
nilon trong suốt, mơ hình 2 là bể phản ứng có nắp đậy bằng thủy tinh hữu cơ


trong để ánh sáng có thể xuyên qua, kết hợp với bổ sung vi khuẩn quang hợp.
Kết quả đã loại được 77% BOD5 và 100% Amon nước thải.
Phòng vi sinh vật môi trường - Viện Công nghệ Môi trường (Viện KHCN Việt Nam) đã tiến hành phân lập và tuyển chọn được 30 chủng xạ khuẩn và
20 chủng vi khuẩn ưa nhiệt, có ưu điểm là có tác dụng phân hủy mạnh các chất
hữu cơ trong nước thải. Chế phẩm đã được sử dụng kết hợp với thực vật thủy
sinh (bèo Nhật Bản) để loại bỏ nitơ và photpho trong nước, phân hủy các chất
hữu cơ. Lê Thị Thúy Ái (2004) đã phân lập từ nhiều thủy vực ở Việt Nam được
31 chủng vi khuẩn quang hợp thuộc 10 thủy vực ở nước ta và phối trộn 5 chủng
có vai trò quan trọng trong xử lý nước thải. Các chủng vi khuẩn này có khả năng
hấp thụ ánh sáng ở mức độ thấp và thực hiện lên men trong môi trường yếm khí
hơi tối.
Nguyễn Việt Anh (2005) đã nghiên cứu xử lý nước thải sinh hoạt bằng bãi
lọc ngầm trồng cây. Kết quả cho thấy, với sơ đồ xử lý 1 bậc, chất lượng nước
đầu ra sau bể lọc trồng cây cho phép đạt được tiêu chuẩn cột B, đối với các chỉ
tiêu COD, SS, TP. Với sơ đồ xử lý 2 bậc nối tiếp, chất lượng nước đầu ra sau bể

lọc trồng cây đạt tiêu chuẩn cột A, TCVN 5945 – 1995.
Châu Minh Khôi (2011) đã nghiên cứu sử dụng 2 lồi thực vật thủy sinh
(là lục bình và cỏ vetiver) xử lý ô nhiễm đạm, lân hữu cơ hịa tan trong nước thải
ao ni cá tra cho thấy lục bình và cỏ vetiver có khả năng giúp giảm ô nhiễm
đạm, lân hữu cơ hòa tan trong nước ao nuôi thâm canh. Hàm lượng đạm, và lân
hữu cơ gần như giảm 100% sau 1 tháng trồng.
Viện Môi trường Nông nghiệp cũng đã nghiên cứu và xây dựng được mơ
hình xử lý nước mặt bị ô nhiễm hữu cơ bằng cơng nghệ sinh thái với dịng chảy
ngang và dịng chảy đứng. Hiệu quả xử lý BOD 5 , COD, TSS, tổng nitrogen,
NH4-N, từ 75-85%. Trong khi đó hiệu quả xử lý phosphor tổng và PO43- lại
thấp hơn từ 40 – 50%. Lê Văn Nhạ và CS (2010) cho biết trong giới hạn tích
ứng khác nhau, các lồi thực vật thủy sinh đều có khả năng xử lý nước bị ơ
nhiễm hữu cơ với các mức độ khác nhau, tùy theo loài, hiệu quả tăng theo thời
gian xử lý


Hiện nay nuôi tôm ở nước ta phát triển mạnh nhưng manh mún khơng có
quy hoạch, vì vậy việc xử lý môi trường ô nhiễm trong NTTS gặp rất nhiều khó
khăn. Các mơ hình xử lý ơ nhiễm đã áp dụng cho một số đối tượng ni, nhưng
khó triển khai trên diện rộng do quỹ đất ngày càng hẹp, hệ thống thủy lợi chồng
chéo, nhận thức của người dân về bảo vệ mơi trường cịn thấp....
Nguồn nước ni tơm hiện đang bị ơ nhiễm hóa chất, hữu cơ, độc tố.. ở
mức báo động. Nguồn nước cung cấp cho lĩnh vực NTTS được người dân lấy
trực tiếp từ các nguồn nước sông, hồ (tự nhiên) đưa vào kênh dẫn rồi vào các ao
ni.Các hóa chất, độc tố, vi sinh... khơng được xử lý dẫn đến môi trường nuôi
bị ô nhiễm, khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ bùng phát thành dịch bệnh.
+ Phương pháp sử dụng các vật liệu lọc, khoáng
Các vật liệu lọc, khoáng hiện được nghiên cứu nhiều trong xử lý nước thải.
Các vật liệu này có khả năng hấp phụ kim loại nặng, hữu cơ... Trong nước thải
nuôi tơm, ngồi chất ơ nhiễm hữu cơ, một số độc tố là kim loại nặng, hóa chất.. đã

sinh ra từ q trình xử lí bệnh trên thủy sản, vật liệu xử lí đáy ao ni, và các phụ
gia trong thức ăn…. Để xử lí các độc tố này, việc sử dụng các vật liệu hấp thu có
nguồn gốc khống và tự nhiên đã được nhiều tác giả nghiên cứu.
Các vật liệu khoáng như Bentonite, Zeolite cũng được nghiên cứu nhiều
trong xử lý nước thải nhờ đặc tính hấp phụ trao đổi ion lớn và thành phần ion
linh động,cấu trúc tinh thể xốp tổ ong.
Với lỗ rỗng chiếm tới 50%, zeolite có khả năng hấp thu ion kim loại nặng và
cố định KLN (trao đổi ion) có trong bùn thải cũng như chất hữu cơ độc hại, dùng
để loại NH3 trong nước thải, làm chất nuôi trồng thủy sản. Với hàm ẩm hỗn hợp
bùn – zeolite khoảng 85%, hiệu quả xử lý Crom có thể đạt tới hơn 61%. (Lê
Đức trung và cộng sự - 2006)
Bentonite được sử dụng như một chất mang trong vật liệu NC-F20, là một
vật liệu mới hứa hẹn năng lực cao trong xử lý Asen. Do Viện hóa học (Viện
Khoa học và Cơng nghệ Việt Nam) đã phát triển một kỹ thuật chế tạo vật liệu
gốm xốp tổ hợp nanocomposite bao gồm Fe 3O4 kích thước 10-12 nm trên chất


mang Bentonite (NC-F20). Vật liệu này có hiệu năng hấp thụ asen cao, có khả
năng hấp thụ hàng loạt các ion khác và rất thuận tiện trong sử dụng.
Hiệu suất hấp phụ Cu2+ trên bentonit chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố và
đạt 99,86% ở điều kiện tối ưu: thời gian khuấy 80 phút, nồng độ bentonit 0,5
g/100 ml dung dịch, nồng độ Cu2+ 150 mg/l, pH = 5,0, nhiệt độ 30 oC ( Lê Tự
Hải)
Than hoạt tính ở liều lượng 5 g/lít nước thải chứa 5 mg/lít Pb và Cd, than
hoạt tính có thể hấp thu được 99,82% Pb, 82,40% Cd.
Laterite hấp thu As tối đa đạt 909,09 mg As/ 1g laterite.
Nước thải trong nuôi trồng thủy sản chứa nhiều chất hữu cơ và nhiều dinh
dưỡng là nguyên nhân gây ra hiện tượng phú dưỡng hóa, làm suy giảm chất
lượng nước mặt. Sử dụng các vật liệu lọc truyền thống như cát, than gáo dừa, đá
sỏi… là một biện pháp nhiều triển vọng và được áp dụng ở nhiều quốc gia trên

thế giới trong đó có Việt Nam.
Xơ dừa có thành phần chủ yếu là celulo (khoảng 80%) và lignin (khoảng
18%), nên rất khó bị vi sinh vật phân hủy. Theo ước tính của các nhà nghiên
cứu, tuổi thọ của xơ dừa trong bể kỵ khí là khoảng 5 năm.
Theo Đỗ Thu Hà và cộng sự, xơ dừa có khả năng xử lý nước thải bị ô
nhiễm chât hữu cơ (BOD5 và COD giảm 51%; TSS giảm 57% và SS giảm 83%),
đồng thời xơ dừa hoạt hóa có thể hấp thu các kim loại nặng (Cu, Pb, Zn, Cd)
trong nước thải ơ nhiễm ở nồng độ 5 mg/lít với 80-99% đối với Cu, Pb; 61% Zn
và 77% Cd với liều lượng 5 g vật liệu/lít nước thải
Việc sử dụng xơ dừa để xử lý nước thải cho kết quả hấp thu tới 90% COD
và BOD5 (Nguyễn Ngọc Bích. Ngồi ra, có thể áp dụng cơng nghệ trên trong
việc xử lý các loại nước thải có chứa chất ơ nhiễm hữu cơ cao. Xơ dừa là một
vật liệu rẻ tiền và sẵn có ở nhiều vùng trong nước ta, đây có thể được coi như
một hướng phát triển các cơng nghệ xử lý nước thải đơn giản và rẻ tiền.
Tóm lại:Các cơng trình nghiên cứu trên đây đều cho thấy việc sử dụng các
động, thực vật xử lý nước thải, có rất nhiều triển vọng. Tuy nhiên mơi trường
ni tơm là mơi trường sản sinh ra nhiều hữu cơ, vì vậy cần kết hợp các giải


pháp có chọn lọc để xử lý nước thải ni tơm đảm bảo nước có thể tái sử dụng
cho NTTS hoặc các hoạt động khác. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên vẫn mới
dừng ở quy mơ diện hẹp. Để có được công nghệ áp dụng vào thực tiễn trên quy
mô rộng, hướng nghiên cứu này cần được đầu tư thoả đáng theo hướng sâu hơn,
hiệu quả hơn, phù hợp hơn với hệ thống sản xuất kinh tế xã hội của mỗi đối
tượng vùng.
4.3. Thực trạng các biện pháp ứng dụng trong xử lý nước cấp và nước thải
trong nuôi tôm vùng ven biển Bắc Bộ.
Hiện nay phong trào nuôi tôm đang phát triển mạnh trên hầu khắp các
tỉnh tiếp giáp với biển trên toàn quốc và mang lợi những lợi ích to lớn cho người
dân cũng như tăng cao năng lực xuất khẩu của thủy sản Việt Nam. Nhưng với

việc tăng diện tích ni trồng một cách nhanh chóng cộng với phương pháp nuôi
trồng thủy sản lạc hậu đã gây những hậu quả nghiêm trọng cho môi trường dẫn
đến việc tôm, cá chết hàng loạt tại các địa phương kéo theo đó là việc người dân
làm dụng các thuốc hóa học để trị bệnh cho tôm dẫn đến việc dư lượng kháng
sinh trong tôm, cá vượt quá mức cho phép làm ảnh hưởng đến việc xuất khẩu
sản phẩm cũng như sức khỏe người tiêu dùng.
+ Công nghệ ozone
Để khắc phục các nhược điểm trên rất nhiều nước trên thế giới đã ứng
dụng các công nghệ mới trong nuôi trồng thủy sản như cơng nghệ Vi Sinh, cơng
nghệ sử dụng khí Ozone… Việc sử dụng khí ozone trong ni trồng thủy sản
hầu như chưa được áp dụng tại Việt Nam nhưng đã được sử dụng hết sức phổ
biết tại Mỹ, Hàn Quốc và Ấn Độ.. nó đã mang lại nhưng lợi ích hết sức to lớn
cho người nông dân cũng như cải thiện mơi trường. Ozone là chất khí có cơng
thức hóa học là O3 nó có khả năng oxi hóa cao gấp 3100 lần so với Clo nhưng
lại không bền vững, phân hủy rất nhanh trong khơng khí và nước để tạo thành
Oxi phân tử. dó đó việc sử dụng ozone mang lại những lợi ích sau:
+ Cung cấp đủ khơng khí xuống đáy ao ni giúp giảm lượng khí
ammoniac, giảm lượng khí H2S dưới đáy ao và gia tăng lượng khí oxy hịa tan.
+ Cung cấp lượng ozone + khơng khí bơm thẳng xuống đáy hồ. Làm tiêu hủy vi


rút gây bệnh, phân hủy thức ăn thối rữa, giúp tôm hấp thụ lượng thức ăn để phát
triển, và gia tăng mật độ tôm nuôi.
+ Cung cấp ozone + không khí với dịng nước đối lưu, giúp giảm thiểu
lượng vi rút gây bệnh và cung cấp đủ lượng oxy cho tôm, cá sinh sống dưới đáy
ao nuôi, không cần sử dụng hóa chất hay các chế phẩm khác.
Hiệu quả việc sử dụng của công nghệ ozone trong nuôi tôm, Công ty
Greenhouses Việt Nam đơn vị đã nghiên cứu và chế tạo thành công các loại
ozone dùng cho nuôi công nghiệp Cơng ty đã triển khai mơ hình ni tơm càng
xanh thí điểm tại Giao Thủy – Nam Định theo hình thức đầu tư giống, thức ăn

và chuyển giao công nghệ cho bà con nơng dân.
Quy trình ni áp dụng như sau:
- Xủ lý đáy ao: Vét bớt bùn dưới đáy ao, phủ bạt, xử lý bằng vôi bột.
- Bơm nước vào ao trước khi thả 10 ngày với mực nước 80cm, dùng lưới chắn
cá tạp.
- Chạy máy ozone liên tục 03 ngày để xử lý nước nhằm phân huỷ các hoá
chất độc và diệt khuẩn. (Thời điểm này hàm lượng các chất hữu cơ trong nước
thấp do đó khả năng diệt khuẩn rất cao).
- Sau đó ngắt chế độ ozone chỉ chạy chế độ sục khí thả phân chuồng,
đạm… để gây mầu nước trong vòng 7 ngày.
- Trong vòng 1 tháng kể từ khi thả tôm giống, hệ thống máy chỉ chạy ở chế
độ sục khí trong vịng 1h vào buổi sáng sớm từ 5-6h.
- Sau tháng thứ nhất bắt đầu chạy ozone kết hợp với sục khí, chạy chế độ
ozone trong vịng 1 tiếng sau đó tiếp tục chạy chế độ sục khí trong vịng 1 tiếng
tiếp theo vào buổi sáng từ 4h-6h.
- Đến tháng thứ 3: Chạy chế độ ozone liên tục thời gian chạy máy từ 20h
tới 6h sáng.
- Theo dõi chế độ ăn của tôm để điều chỉnh lượng thức ăn cho tơm bằng
các vó thả ở các góc ao.


Cơng nghệ ozone ngồi được áp dụng thành cơng trong xử lý nước tại
Nam Định còn được áp dụng trong ni tơm tại Quảng Ninh. Mơ hình được thi
cơng và lắp đặt tại Trại tôm giống huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh.
+ Ni tơm theo quy trình GAP
Sử dụng chế phẩm sinh học thay thế thuốc kháng sinh và phòng trừ một số
bệnh thường gặp trong q trình ni, sử dụng máy ozone xử lý môi trường
nước; công nghệ nano… Trong đó, phương pháp ni tơm thẻ chân trắng tầng
mặt qua đơng theo quy trình GAP đã được áp dụng thành công tại xã Giao
Phong (Giao Thủy) và đang được nhân rộng tại các trang trại nuôi ở các huyện

Hải Hậu, Nghĩa Hưng.
Quy trình kỹ thuật ni tơm tầng mặt có nhiều điểm khác biệt so với cách
ni trước đây: Phần đáy ao nuôi được đổ cát dày từ 0,5-1,0m thay vì 0,15-0,3m
như cũ; lắp mái che mặt ao để kiểm sốt nhiệt độ ổn định, giúp tơm tăng trưởng
trong điều kiện nhiệt độ ngoài trời thay đổi; vệ sinh đáy ao theo phương pháp rút
nước, cày lật và đánh đống, phơi đáy đến khi khơ kiệt sau đó xử lý hóa chất,
bơm cát mới và dùng chế phẩm sinh học để tiêu diệt mầm bệnh còn lại trước khi
gây màu nước và xuống giống. Ưu điểm của phương pháp này giúp phần đáy ao
thống khí, thúc đẩy nhanh q trình oxy hóa loại bỏ khí độc và mầm bệnh do
tích tụ nhiều tạp chất từ vụ ni trước và ổn định nhiệt độ, tránh cho tôm bị
“sốc” do thay đổi thời tiết. Từ phương pháp nuôi mới, một số hộ dân ở xã Giao
Phong đã đổ cát đáy ao tối thiểu dày 0,5m, kè bờ bằng bê tông và xây bờ cao
hơn mặt đường 0,5m để hạn chế "địch hại" xâm nhập ao nuôi, làm mái che kết
hợp bố trí hợp lý điểm thốt nước mưa ở bờ, thốt nước mặt ở ao để ổn định
nhiệt độ và ngăn nước mưa chảy xuống ao ni. Ngồi ra, kỹ thuật này còn giúp
khâu thu hoạch nhanh, rút ngắn thời gian lưu bãi và vận chuyển khi đưa ra thị
trường.
+ Mô hình ni tơm ứng dụng chế phẩm vi sinh vật tại Quảng Ninh:
Mơ hình ứng dụng chế phấm sinh học mới trong nuôi tôm tại các xã Đầm
Hà và Tân Bình tỉnh Quảng Ninh. Các chế phẩm sinh học mới trong nuôi trồng
thủy sản tại Đầm Hà là sản phẩm của Công ty cổ phần công nghệ sinh học


Biotech nghiên cứu, đã được cấp phép, đưa vào sản xuất và bán trên thị trường.
Công nghệ sử dụng chế phẩm sinh học này bao gồm: các chế phẩm xử lý nước
(BTS, BTS1), chế phẩm xử lý đáy ao nuôi (BIOF) gây màu nước (BIOF1), giảm
khí độc, thuốc phịng và trị bệnh (ATV)...Công nghệ này đã được áp dụng thành
công tại một số địa phương như Thái bình, Nam Định... góp phần tăng năng suất
và tăng hiệu quả kinh tế.
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

5.1. Kết luận
1. Biện pháp kỹ thuật ứng dụng trong xử lý nước cấp và nước thải trong
nuôi tôm được áp dụng nhiều biện pháp khác nhau bao gồm: các biện pháp xử lý
cơ học; hóa học và biện pháp sinh học. Mỗi biện pháp áp dụng có những ưu và
nhược điểm khác nhau.
2. Mơ hình ứng dụng công nghệ ozon trong xử lý nước cấp và nước thải đã
thành công tại Nam Định và Quảng Ninh cho thấy giúp giảm lượng khí
ammoniac, giảm lượng khí H2S dưới đáy ao và gia tăng lượng khí oxy hịa tan;
khí ozone có tác dụng tiêu diệt các loại virut gây hại.
3. Mơ hình ni tơm theo quy trình GAP là vệ sinh đáy ao theo phương
pháp rút nước, cày lật và đánh đống, phơi đáy đến khi khô kiệt sau đó xử lý hóa
chất, bơm cát mới và dùng chế phẩm sinh học để tiêu diệt mầm bệnh còn lại
trước khi gây màu nước và xuống giống đã có hiệu quả trong xử lý nguồn nước
trong ni tơm.
4. Biện pháp sử dụng các chế phẩm sinh học như các chế phẩm xử lý nước
(BTS, BTS1), chế phẩm xử lý đáy ao ni (BIOF) gây màu nước (BIOF1), giảm
khí độc, thuốc phịng và trị bệnh (ATV)...Cơng nghệ này đã được áp dụng thành
công tại một số địa phương như Thái bình, Nam Định.
5. 2. Đề nghị
Trên cơ sở phân tích các kết quả nghiên cứu, đánh giá cần nghiên cứu
thêm và đưa ra được các mơ hình có hiệu quả nhất cho người dân nuôi tôm.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Minh Anh(1983). Đặc điểm sinh học và kỹ thuật nuôi tôm he, Nhà xuất
bản TPHCM.
2. Bộ thuỷ sản, Quy trình cơng nghệ ni thâm canh tôm Sú, tiêu chuẩn ngành
28 TCN 717: 2001
3. Công ty CP Việt Nam. Sổ tay nuôi tôm chân trắng.
4. Công ty Uni – president. Sổ tay nuôi tôm chân trắng.

5. Nguyễn Văn Hảo (2001). Một số vấn đề kỹ thuật trong nuôi tôm sú công
nghiệp.
6. Nguyễn Văn Kiệt (2000), Giáo trình kỹ thuật ni tơm cá nước lợ, Nhà xuất
bản nơng nghiệp.
7. Nguyễn Trọng Nho,(1994), Tình hình ni tơm trên thế giới và Việt Nam
8. Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp(2006), Quản lý chất
lượng nước trong nuôi trồng thuỷ sản. Nhà xuất bản nông nghiệp Tp. HCM
9. Vũ Thế Trụ(2003). Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam. Nhà xuất bản
Nơng Nghiệp.
10. Nguyễn Đình Trung(2004). Quản lý chất lượng nước trong nuôi trồng thuỷ
sản.
11. Nguyễn Thức Tuấn(2009). Kỹ thuật nuôi giáp xác. Khoa Nông Lâm Ngư,
Trường đại học Vinh.
12. Nguyễn Thị Thanh(2009), Bài giảng quản lý chất lượng nước, Trường đại
học Vinh
13. Trung tâm khuyến ngư huyện Yên Hưng, Quảng Ninh,(2008). Khí hậu và
lịch thời vụ sản xuất nông nghiệp.



×