Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG CỦA MỸ TỪ NĂM 2011 ĐẾN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.83 KB, 22 trang )

BÀI TẬP LỚN:
CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG CỦA MỸ TỪ
NĂM 2011 ĐẾN NAY


MỤC LỤC

I, Cơ sở lý thuyết
1, FED
2, Chính sách lãi suất
3, Các loại lãi suất điều hành của FED
4, Các công cụ tác động
5, Cơ chế tác động
II, Thực trạng
1, Bối cảnh kinh tế
2, Thực trạng thực hiện các công cụ
3, Tác động đến các lãi suất trên thị trường
III, Phân tích tác động, đánh giá và giải pháp kiến nghị


I.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT :

1. FED :
FED được viết tắt của từ Federal Reserve System, có nghĩa là Cục dự trữ liên bang hay

Ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ là NHTW của Hoa Kỳ.
Lịch sử thành lập:
• 1791-1811: Ngân hàng thứ nhất của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ The First Bank of
the United States được thành lập và đi vào hoạt động sau khi tổng thống




Washington đặt bút ký trao quyền thành lập với thời gian có hiệu lực 20 năm.
1816-1836: Ngân hàng thứ hai của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ The Second Bank of
the United States được thành lập và đi vào hoạt động sau khi tổng thống Madison

đặt bút ký trao quyền thành lập với thời gian có hiệu lực 20 năm.
• 23/12/1913: Tổng thống Wilson ký dự luật Cục Dự trũ Liên bang Mỹ. Trong suốt
thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nền kinh tế Mỹ chịu nhiều đe dọa từ những yếu kém
của hệ thống tài chính, dẫn đến những thất bại trong hệ thống ngân hàng và hàng
loạt doanh nghiệp phải phá sản. Và một khi hệ thống ngân hàng đã không thể hoạt
động đúng với vai trò của mình càng khiến cho nền kinh tế càng trở nên dễ bị tổn
thương hơn. Các khoản tín dụng ngắn hạn giờ đây là là nguồn vốn quan trọng có
tính thanh khoản cao. Trước tháng 10 năm 1907, khoảng một nửa các khoản tiền
gửi ngân hàng ở New York đều bị các công ty đầu tư ủy thác gán nợ với lãi suất
cao để đầu tư vào thị trường cổ phiếu và trái phiếu có đổ rủi ro cao, thị trường tài
chính rơi vào trạng thái đầu cơ tột độ. Khi công ty Kinkerbocker Trust công ty ủy
thác lớn thứ ba nước Mỹ lúc bấy giờ có tin đồn phá sản thì khủng hoảng niềm tin
lan rộng và cuộc chạy đua rút tiền gửi và bán tháo cổ phiếu xảy ra. Cuộc khủng
hoảng nghiêm trọng 1907 xảy ra đã thôi thúc quốc hội Mỹ phải thành lập ngay
một Ủy ban tiền tệ quốc gia, đồng thời đã đưa ra những đề nghị thiết lập một thể
chế có thể giúp ngăn ngừa và chống đỡ được những rủi ro trong lĩnh vực tài chính.
Sau các cuộc thảo luận kỹ lưỡng, Quốc hội Mỹ đã thông qua Hiệp ước Dự trữ liên
bang nhằm "tạo cơ sở cho sự ra đời của các ngân hàng dự trữ liên bang, cung cấp
các phương tiện đủ khả năng để tái chiết khấu các chứng từ thương mại, thiết lập
một cơ chế giám sát ngân hàng có hiệu quả hơn ở Mỹ, và vì nhiều mục đích khác


nữa". Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson đã ký thông qua hiệp ước thành luật vào
23/12/1913, chính thức thành lập Cục dự trữ liên bang Mỹ.

Tính đến nay , FED là ngân hàng của chính phủ, bao gồm hội đồng thống đốc đóng tại
thủ đô Washington được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ, Uỷ ban thị trường, 12 ngân
hàng dự trữ liên bang khu vực và các ngân hàng thành viên có sở hữu một phần ở các
ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Chủ tịch hội đồng thống đốc ngay nay của FED là
Janet Yellen.
2. Chính sách lãi suất:
Chính sách lãi suất theo một định nghĩa rộng được hiểu là tất cả những hành động, biện

pháp của NHTW để điều chỉnh lãi suất đến một mức mong muốn của họ.
3. Các loại lãi suất điều hành của FED
a) Lãi suất chiết khấu (discount rate)

Lãi suất chiết khấu là lãi suất do FED ấn định dành cho khoản vay của các NHTM và các
trung gian tiền gửi với mục đích bù đắp thanh khoản và an toàn chi trả. Ban giám đốc của
các ngân hàng dữ trữ liên bang địa phương sẽ đặt lại lãi suất này sau mỗi 14 ngày. Thông
thường, để bù đắp thiếu hụt, các trung gian tiền gửi thường vay trên thị trường liên ngân
hàng. Tuy nhiên, khi các trung gian tiền gửi gặp khó khăn trong việc huy động trên thị
trường liên ngân hàng, lãi suất chiết khấu được coi như là cánh cửa cuối cùng. Họ có thể
tìm sự giúp đỡ ở các “cửa sổ chiết khấu”(discount window) của các ngân hàng dự trữ liên
bang ở từng địa phương.
Có ba hình thức cho vay từ cửa sổ chiết khấu: Tín dụng chính (Primary Credit), tín dụng
mở rộng (Secondary Credit), tín dụng thời vụ (Seasonal Credit).
Mỗi hình thức khác nhau lại có mức lãi suất khác nhau:
• Tín dụng chính: Mục tiêu giúp đỡ các định chế TGTC bù đắp dự trữ bắt buộc, các
vấn đề thanh khoản để tiếp tục cho vay ra thị trường. Các khoản vay theo hình
thức này rất ngắn hạng (thường là qua đêm).
• Tín dụng mở rộng: Mục tiêu giúp đỡ các định chế TGTC đã bị lún sâu vào rủi ro
thanh khoản và thiếu hụt dự trữ bắt buộc trong một thời gian kéo dài, không có
khả năng tự phục hồi. Các trung gian tiền gửi này do không đáp ứng đủ điều kiện
của Tín dụng chính nên phải tìm đến Tín dụng mở rộng.





Tín dụng thời vụ: Mục tiêu cho phép các định chế TGTC hoạt động trên các lĩnh
vực đặc biệt (ví dụ: ngân hàng nông nghiệp, …) không phải giải quyết thiếu hụt
bằng con đường vay trên thị trường tiền tệ .

(Nguồn: The Discount rate, 2014)
b) Lãi suất quỹ dự trự liên bang - FFR (Federal Fund Rate)
FFR là lãi suất ngắn hạn mà các tổ chức nhận tiền gửi cho nhau vay phần dự trữ
dư thừa, theo yêu cầu đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ chức nhận tiền gửi ở cục
dự trữ liên bang Mỹ FED (có thể gọi là lãi suất qua đêm liên ngân hàng), được điều tiết
thông qua nghiệp vụ thị trường mở. FFR là công cụ FED bắt đầu sử dụng từ năm 1920,
muộn hơn so với công cụ lãi suất chiết khấu (được sử dụng ngay khi FED thành lập).
Định kỳ, FED công bố FFR mục tiêu (Fed Funds target Rate) trong mỗi thời kỳ, làm cơ
sở cho việc thiết lập FFR và các mức lãi suất khác trên thị trường, thông qua đó FED
thực hiện điều hành chính sách tiền tệ. Fed Funds target Rate được xác lập bởi Hội đồng
thành viên Uỷ ban Thị Trường mở Liên bang FOMC định kỳ 8 lần trong một năm (7
tuần/lần) và các cuộc họp bất thường trong trường hợp cần thiết.
* Điểm khác nhau cơ bản giữa lãi suất chiết khấu và FFR:
Là trong khi lãi suất chiết khấu do FED ấn định thì FFR do qui luật kinh tế tự nhiên xác
định. FED không ấn định FFR, FED chỉ công bố lãi suất quỹ liên bang mục tiêu trong
mỗi thời kỳ làm cơ sở cho việc thiết lập các mức lãi suất khác trên thị trường, thông qua
đó FED thực hiện điều hành chính sách tiền tệ. FED dùng các công cụ thị trường mở tác
động tới việc cung tiền để hướng lãi suất quỹ liên bang theo lãi suất mục tiêu đã được
công bố đảm bảo sự phù hợp với tỷ lệ tăng trưởng GDP ổn định ở một mức lạm phát kỳ
vọng.
4. Các công cụ tác động
a) Nghiệp vụ thị trường mở.


Nghiệp vụ thị trường mở là việc FED mua và bán các chứng khoán chính phủ
ngắn hạn trên thị trường tài chính. Các chứng khoán được mua, bán ở đây là các chứng
khoán đang được giao dịch trên thị trường thứ cấp. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ
được sử dụng thường xuyên nhất của chính sách lãi suất.
b) Gói nới lỏng định lượng QE (Quantitative Easing):

Đối với nền kinh tế Mỹ, gói nới lỏng định lượng (Quantitative Easing - QE) là
việc FED mua lại số lượng lớn tín phiếu kho bạc (U.S.Treasury Notes) và các loại chứng


khoán thế chấp bất động sản (MBS) từ các Ngân hàng thành viên. Qua đó, thực hiện
chính sách tiền tệ mở rộng, làm hạ lãi suất và kích thích nền kinh tế phát triển.
Theo định nghĩa, các gói QE này có thể dễ gây nhầm lẫn với nghiệp vụ thị trường mở
OMOs mà FED thường sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở
FED thường sử dụng được thể hiện qua việc mua bán các chứng khoán chính phủ ngắn
hạn, qua đó điều tiết lãi suất FFR theo đúng mục tiêu, can thiệp lên các loại lãi suất ngắn
hạn khác trên thị trường. Còn đối với các gói QE, FED chủ yếu mua bán một lượng nhất
định các loại tài sản tài chính dài hạn với mục tiêu chính là tăng lượng tiền cung ứng ra
nền kinh tế và tác động lên các loại lãi suất dài hạn ví dụ như lãi suất cho vay thế chấp
bất động sản.
c) Lãi suất chiết khấu.

FED thiết lập lãi suất chiết khấu với các khoản vay ngắn hạn của các tổ chức nhận
tiền gửi với ngân hàng dự trữ liên bang. Lãi suất chiết khấu rất quan trọng vì nó là một
thông báo rõ ràng tới các NHTM về sự thay đổi trong chính sách lãi suất của FED và gửi
đến phần còn lại của thị trường cái nhìn sâu sắc về chính sách của FED.
d) Dự trữ bắt buộc.
FED áp đặt tỉ lệ DTBB đối với các NHTM. DTBB là khối lượng tiền mà các
NHTM buộc phải duy trì trên một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại ngân hàng dự

trữ liên bang. Nó sẽ xác định các khoản tín dụng mà NHTM cung cấp ra nền kinh tế hay
những khoản đầu tư của họ.
(Theo Investopedia, 1969)
5. Cơ chế tác động
a) Nghiệp vụ thị trường mở

FED sử dụng nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu để điều tiết FFR theo đúng mục
tiêu đặt ra. Trong trường hợp muốn giảm FFR, FED bơm tiền vào hệ thống NHTM bằng
cách mua chứng khoán. Những NHTM đang dư thừa dự trữ được tăng một lượng cung
tiền càng muốn cho vay ra nhiều hơn. Ngược lại, các NHTM đang trong tình trạng thiếu
hụt dự trữ sẽ giảm nhu cầu đi vay sau khi được bù đắp một lượng tiền nhất định từ FED.
Quan hệ cùng cầu sẽ xác định một mức lãi suất mới thấp hơn mức lãi suất ban đầu.
Tương tự như vậy, trong trường hợp muốn tăng FFR, FED sẽ bán ra lượng trái phiếu
đang nắm giữ cho hệ thống NHTM.


Mặt khác, hoạt động của thị trường mở còn ảnh hưởng đến cung cầu các chứng
khoán thuộc phạm vi can thiệp, chủ yếu là tín phiếu kho bạc. Trong trường hợp NHTW
bán chứng khoán, lượng cung chứng khoán tăng lên trong khi cầu không đổi làm cho giá
chứng khoán giảm xuống, mức sinh lời của chúng tăng lên, lãi suất của các chứng khoán
mới phát hành cũng bị kích thích tương ứng.
Có thể nói đây là công cụ điều tiết hiệu quả nhất vì nó linh hoạt và chủ động.
(Theo Tô Kim Ngọc, 2012, trang 347)
b) QE

Khi FED thực hiện QE tức là mua vào một lượng lớn các tài sản tài chính dài hạn, đẩy
lượng cầu của các loại tải sản đó lên cao dẫn đến tăng giá đồng thời kéo lợi suất của
chúng giảm mạnh. Cùng với đó là lãi suất cho vay dài hạn trên thị trường cũng giảm theo.
Điều này triệt tiêu động lực tiết kiệm, kích thích hành vi chi tiêu hiện tại, đồng thời tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn dài hạn tái đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất với

chi phi thấp.
Bên cạnh đó, khi lợi suất các loại trái phiếu chính phủ giảm, nhà đầu tư sẽ tìm đến kênh
tiết kiệm hấp dẫn hơn như là trái phiếu công ty làm cầu của chúng tăng, lợi suất trái phiếu
công ty giảm (nhưng vẫn lớn hơn lợi suất của trái phiếu chính phủ). Chính điều này đã
tạo ra thêm một kênh vốn giá rẻ cho các doanh nghiệp. Một khi các doanh nghiệp được
“sạc đầy”lượng vốn cần thiết mở rộng sản xuất sẽ tác động tích cực đến tỉ lệ thất nghiệp,
tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, kích thích chi tiêu. Điểm cuối cùng của dãy
domino này mà chính phủ hướng tới đó là khi người dân mở rộng hầu bao sẵn sang cho
việc chi tiêu hơn sẽ có thể đẩy giá bất động sản lên cao, đánh thức thị trường nhà đất ngủ
yên trong suốt thời gian dài.
c) Dự trữ bắt buộc

Việc thay đổi tỉ lệ DTBB có thể ảnh hưởng đến lãi suất theo hai cách sau:
+ Giả sử khi FED quyết định tăng tỉ lệ DTBB, điều này làm cho một phần bộ phận
dự trữ dư thừa trước kia giờ trở thành DTBB. Nó làm cho lượng tiền hay mức tín dụng
mà các ngân hàng thương mại có thể bơm ra nền kinh tế giảm xuống, kết quả cuối cùng
dẫn đến tăng lãi suất thị trường. Quyết định giảm tỉ lệ DTBB buộc đem đến ảnh hưởng
ngược lại


+ Tỉ lệ DTBB tăng lên dẫn đến giảm mức cung ứng vốn trên thị trường liên ngân
hàng. Trong điều kiện cầu vốn khả dụng không thay đổi, sự giảm sút này làm tăng lãi
suất liên ngân hàng (FFR), từ đó làm tăng lãi suất dài hạn trên thị trường.
(Theo Tô Kim Ngọc, 2012, trang 342)
d) Lãi suất chiết khấu

Lãi suất chiết khấu mà FED sử dụng là để ám chỉ lãi suất Tín dụng chính. Nó thường
được đặt cao hơn mức lãi suất ngắn hạn trên thị thường. Lãi suất Tín dụng mở rộng được
đặt cao hơn lãi suất tín dụng chính. Lãi suất thời vụ là trung bình một số loại lãi suất được
lựa chọn trên thị trường.

Lãi suất chiết khấu thay đổi trước hết sẽ tác động vào giá đầu vào của các NHTM. Cụ
thể, khi lãi suất chiết khấu tăng (giảm)m các NHTM dần dần tăng (hoặc giảm) lãi suất
cho vay, làm giảm (hoặc tăng) cầu tín dụng trên thị trường. Bên cạnh đó, khi lãi suất chiết
khấu tăng lên, NHTM sẽ cảm thấy khó khăn hơn khi tiếp cận với nguồn vốn từ FED. Các
NHTM sẽ cắt giảm lượng tiền cung ứng ra thị trường, qua số nhân tiền tệ của hệ thống
ngân hàng, suy giảm trực tiếp đến mức cung tiền MS.
e) FFR
Một FFR cao trong nền kinh tế gửi đi tín hiệu rằng các NHTM sẽ gặp nhiều khó khăn

hơn trong việc tiếp cận các nguồn tín dụng để bù đắp dự trữ bắt buộc. Có nghĩa là, các
NHTM đó sẽ điều chỉnh lượng vốn cung ứng ra thị trường, cho vay ít hơn, và tăng lãi
suất các khoản cho vay. Điều này rất dễ hiểu khi bản thân họ đang phải đối mặt với mức
lãi suất cao khi đi vay để bù đắp thiếu hụt dự trữ, tức chi phí đầu vào cao hơn, tất nhiên
lãi suất cho vay cũng phải cao hơn. Bên cạnh đó, thị trường bất động sản dần nguội lạnh
bởi người mua không thể chi trả những nguồn vốn lãi suất cao trong tình trạng thu nhập
ngày càng hạn hẹp. Giá bất động sản tụt giảm khiến cho những người đang sở hữu nhà bị
thất thoát một khoản lớn so với vốn bỏ ra ban đầu, họ sẽ cảm thấy “nghèo”hơn. Toàn bộ
nền kinh tế trở nên ngưng trệ, ì ạch. Vậy nên, khi can thiệp làm tăng FFR, FED đồng
nghĩa với việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt.
Khi FED can thiệp đẩy FFR thấp xuống, mọi việc diễn ra theo chiều hướng ngược lại.
Các NHTM tiếp cận các khoản vay bù đắp thâm hụt dễ dàng hơn, do đó lãi suất cho vay
ra cũng thấp hơn. Chính sách tiền tệ nới lỏng được thực thi. Doanh nghiệp nâng cao sản


xuất, tạo công ăn việc làm mới, tăng thu nhập cho nền kinh tế. Người dân sẽ chi tiêu và
đầu tư nhiều hơn, hâm nóng thị trường nhà đất. Nền kinh tế được kích thích mạnh mẽ.
FFR ảnh hưởng trực tiếp đến các loại lãi suất ngắn hạn khác trên thị trường. FFR thay đổi
ngảy lập tức tác động đến LIBOR (lãi suất ngân hàng cho các khoản vay trong thời hạn
một tháng, ba tháng, sáu tháng và một năm), lãi suất cơ bản Prime Rate (lãi suất ngân
hàng dành cho những khách hàng tốt nhất). Bằng cách này, FFR cũng gây ảnh hưởng đến

lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay, lãi suất thẻ tín dụng và lãi suất cho vay thế chấp bất
động sản có thể hiểu chỉnh (adjustable – rate mortgages).
Những loại lãi suất kì hạn dài chịu ảnh hưởng gián tiếp.
II.

THỰC TRẠNG
1. Bối cảnh kinh tế

Kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, nền kinh tế thế giới nói chung cũng như
nước Mỹ nói riêng rơi vào tình trạng suy thoái. Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng GDP toàn
cầu đã chạm đáy -0.4% vào năm 2009
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu thực tế giai đoạn trước năm 2011
GDP toàn cầu thực tế
2005

2006

2007

2008

2009

2010

3.9

5.0

4.9


2.4

-0.4

5.0

(Nguồn: World Gross Domestic Products, 2014)

Tại Mỹ, hệ lụy mà cuộc khủng hoảng gây ra là rất trầm trọng. Đó là sự sụp đổ của
nhiều công ty, mà lớn nhất phải kể đến là Lehman Brother và Merry Lynch, đó là tỷ lệ
thất nghiệp tăng cao cũng như tốc độ tăng trưởng GDP thấp, có nhiều lúc đã dưới mức
0%. Có thể thấy trên đồ thị, chỉ trong vòng hơn nữa năm từ tháng 7 năm 2008 đến tháng
5 năm 2009, tỉ lệ thất nghiệp đã tăng chóng mặt từ gần 5% lên đến 10% và duy trì cho
đến tận tháng 1 năm 2011. Đáng chú ý không kém, tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ từ
năm 2008 đến năm 2009 luôn ở mức dưới 0%, đặc biệt, đạt đỉnh tại mức -8.2% vào đầu


năm 2009. Và chỉ số này chỉ tăng trở lại kể từ năm 2010, mặc dù tốc độ tăng đã lớn hơn
0% nhưng vẫn cho thấy sự thất thường.

Đồ thị 1: Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ trước năm 2011

Đồ thị 2: Tăng trưởng GDP của Mỹ trước năm 2011

Khi mà nền kinh tế đã có những dấu hiệu phục hồi thì năm 2010, Mỹ lại phải đối
mặt với cuộc khủng hoảng khác, đó là khủng hoảng nợ công.


2. Thực trạng thực hiện các công cụ.

a) Lãi suất chiết khấu:

Suốt từ năm 2011 đến nay, lãi suất của tín dụng chính luôn được giữ ổn định ở mức
0.75%, và đã tăng lên 0.25% từ đầu năm 2016 khi FED quyết định tăng lãi suất từ 0.25%
lên 0.5%.
Bảng 2: Lãi suất chiết khấu từ năm 2011 đến nay

Federal Discount
Rate

This
week

Month
ago

Year
ago

1.00

1.00

0.75

(Nguồn: />
Cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu năm 2007 là thời kì căng thẳng nhất của nền tài
chính toàn cầu kể từ cuộc đại suy thoái, đã dẫn đến những hệ lụy kéo dài. FED đã có
những hành động đặc biệt để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế cũng như giúp ổn



định nền kinh tế Mỹ và hệ thống tài chính. Nổi bật nhất là việc FED giảm các lãi suất
ngắn hạn xuống mức thấp nhất có thể (FFR gần bằng 0%, lãi suất chiết khấu 0,75% ).
Ngoài ra, để giảm lãi suất trong dài hạn, FED đã mua một lượng lớn trái phiếu kho bạc
dài hạn và các chứng khoán dài hạn khác được phát hành hay bảo đảm bởi chính phủ hay
các cơ quan chính phủ. Lãi suất thấp đã giúp các hộ gia đình và các doanh nghiệp dễ
dàng tiếp cận được nguồn vốn, từ đó chi trả cho các khoản chi tiêu của mình. Lãi suất
thấp cũng hỗ trợ và mức giá cả cho những tài sản khác, như chứng khoản và nhà ở. Cho
đến đầu năm 2016, sau khi cân nhắc sự phục hồi kinh tế của Mỹ, Fed đã quyết định tăng
mức lãi suất thêm 0.25% nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
b) Nghiệp vụ thị trường mở và các gói QE

Từ cuối năm 2008 đến nay, khi các loại lãi suất ngắn hạn xuống gần đến mức 0%
(0.25%), không thể hạ thêm được nữa, nền kinh tế Mỹ vẫn không có thêm một tín hiệu
khả quan nào và tiếp tục chìm sâu trong khủng hoảng. Các chính sách tiền tệ truyền
thống đã không còn hiệu quả. Và như chưa hề có tiền lệ trong lịch sử, FED liên tiếp tung
ra các gói QE được coi như chiếc phao cứu sinh cuối cùng với mục đích bơm thêm tiền
cho nền kinh tế và làm giảm các lãi suất trong dài hạn. FED đã thực thi và kết thúc ba gói
QE. Gói QE1 (11/2008 – 06/2010), gói QE2 (10/2010 – 06/2011), gói QE3 (9/2012 –
10/2013). Tuy nhiên trong giới hạn bài tiều luận từ 2011 - 2016, nhóm chỉ xin đề cập đến
thực trạng của gói QE3:
- FED đang có kế hoạch mua thêm 40 tỷ USD MBS từ ngân hàng dự trữ liên bang. Tiếp
tục chương trình Operation Twist được bắt đầu từ tháng 9/2011: FED bán trái phiếu ngắn
hạn và sử dụng tiền để mua trái phiếu dài hạn.
- FED công bố sẽ mua 85 tỷ đô MBS và trái phiếu kho bạc mỗi tháng, đến khi tỷ lệ thất
nghiệp xuống dưới ngưỡng 6.5 %. Khoảng thời gian trong đó Fed sẽ giữ lãi suất gần bằng
như bằng không (đã được
triển khai từ cuối năm 2014 đến giữa năm 2015.)
c) Dự trữ bắt buộc


Ở Mỹ, một tổ chức nhận tiền gửi có thể đáp ứng yêu cầu DTBB của mình bằng cách
hoặc là giữ tiền mặt, hoặc là các khoản tiền gửi dự trữ. Một tổ chức là thành viên của


FED phải giữ tiền gửi dữ trữ tại ngân hàng liên bang. Các tổ chức không phải thành viên
có thể chọn cách giữ khoản tiền gửi dự trữ tại một tổ chức thành viên. Tỉ lệ DTBB của
các tổ chức nhận tiền gửi sẽ tùy theo số tiền có trong tài khoản
thanh toán ròng mà họ đang giữ. Kể từ ngày 29-12-2011, con số này được quy định như
sau:
+ Dưới 12.4 triệu đô la: tỉ lệ DTBB buộc là 0%
+ Từ 12.4 triệu đô đến 79.5 triệu đô la: tỉ lệ DTBB là 3%
+ Trên 79.5 triệu đô là: tỉ lệ DTBB là 10%
(Nguồn: Wikipedia, Reserve requirement)
Tuy nhiên, tỉ lệ DTBB đã được FED thay đổi trong năm 2016, cụ thể như sau
Bảng 9: Tỷ lệ DTBB của FED năm 2016

(Nguồn: Required Reserves of Depository Institutions, 2014)


d) FFR

Trước đó, năm 2008 khi cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra, FED đã can thiệp bằng cách
hạ lãi suất FFR xuống gần như bằng 0% để cứu vớt nền kinh tế.Và những năm hậu khủng
hoảng giai đoạn 2011 đến nay thì mức lãi suất FFR chưa có dấu hiệu nhích lên khỏi mức
đặc biêt thấp này. Với kì vọng ban đầu là duy trì mức lãi suất thấp này để khôi phục long
tin vơi các nhà đầu tư, giảm bớt chi phí vay bao gồm các khoản vay doanh nghiệp và cho
vay tiêu dùng.từ đó giúp các doanh nghiệp khôi phục và mở rộng kinh doanh kích tích
tiêu dung nội địa làm đòn bẩy thúc đẩy kinh tế.Và với tuyên bố như ban đầu khi mà tỉ lệ
thất nghiệp vẫn ở mưc cao như trên thì FED vẫn kiên trì với mức lãi suất đó với hi vọng
các nhà đầu tư sẽ măn mà hơn với thị trường mỹ để kích thích đầu tư giảm thất nghiệp,

tăng GDP… Mặt khác, trong giai đoạn đầy khó khăn này, FED cũng khó lòng tăng mức
lãi suất này lên được khi mà nền kinh tế chưa thực sự phục hồi và gặp rất nhiều khó khăn.
Theo đó, ngày 10/8/2010 trong thông báo được đưa ra sau cuộc họp ủy ban thị trường mở
liên bang (FOMC), FED cho biết sẽ tiếp tục duy trì tỉ lệ lãi suất thấp kỉ lục thêm một thời
gian nữa, đồng thời kéo dài các khoản đầu tư thời kì hậu khủng hoảng và bơm tiền vào
nền kinh tế.
Đồ thị 5: Sự biến động lãi suất FFR trong giai đoạn 2006 – 2016

Từ khi Mỹ bắt đầu lâm vào khủng hoảng lãi suất FFR giảm mang từ mức khoảng 5%
xuống mức 0% vào cuối năm 2008.Và hầu như duy trì cho các năm tiếp theo với mức đặc
biệt thấp. Cùng với nền kinh tế bắt đầu dấu hiệu phục hồi vào 2016, lãi suất FFR đã tăng
lên nhưng chưa đáng kể


3. Tác động đến các lãi suất trên thị trường:
a) Prime rate:

Đồ thị 6: Lãi suất cho vay cơ bản của Mỹ (trung bình theo tháng) (2011 – 2016)

Với việc duy trì ổn định FFR ở mức 0.25% thì lãi suất cho vay những khách hàng tốt
nhất Prime Rate cũng được giữ vững ở mức ổn định 3.25%. Nhưng cũng đã tăng lên
3.5% theo sự điểu chỉnh lãi suất (tăng 0.25%) vào cuối năm 2015 – đầu năm 2016.
b) Lãi suất LIBOR:

Lãi suất sẽ do hai bên thỏa thuận và lãi suất trung bình trên thị trường này hàng ngày
sẽ được 18 NHTM lớn báo cáo cho BBA (British Bankers Association) để tổ chức này
tính lãi suất liên ngân hàng trung bình cho ngày hôm đó rồi công bố trên thị trường tài
chính.
Đồ thị 7: Lãi suất LIBOR từ năm 2011 đến 2016



Nhìn chung, lãi suất LIBOR trong giai đoạn này bao gồm cả 2 xu hướng: giảm và
tăng.Cụ thể, từ năm 2011 đến gần cuối năm 2015, lãi suất cho vay 3 tháng đã giảm từ
0,3% xuống gần 0.22% mặc dù đã có lúc tăng đến đỉnh điểm đến mức gần 0.6% vào cuối
năm 2011. Nhưng từ cuối năm 2015 đến nay, cùng với dấu hiệu sự phục hồi kinh tế, lãi
suất đã tăng rất mạnh, lên đến 0.85% ở tháng 9/2016.
c) Mortgage rate (lãi suất cho vay thế chấp):
Dựa trên đồ thị, ta thấy lãi suất cho vay thế chấp cố định FRM (fix rate mortgage) trong

giai đoạn 2011 - 2013 đã giảm xuống đáng kể nhờ việc đưa vào các gói QE của FED. Cụ
thể, lãi suất cho vay thế chấp thời hạn 15 năm và 30 năm đã giảm từ 4, 1% và 4,8%
xuống 3, 2% và 4, 1%. Tuy nhiên, vào khoảng tháng 7 năm 2013, lãi suất này có tăng trở
lại là do FED tuyên bố giảm gói QE3. Sau đó, lãi suất có xu hướng giảm từ đầu năm
2014 đến nay và đạt trung bình 3.66% trong tháng 9/2016
Đồ thị 8: Lãi cho vay thế chấp giai đoạn 2011 – 2016


III.

PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG, ĐÁNH GIÁ VÀ GIẢI PHÁP KHUYẾN
NGHỊ
1. Phân tích tác động.

Động thái giảm lãi suất như là một sự hỗ trợ đặc biệt từ FED tới những nhà đầu tư minh
chứng cho họ thấy FED vẫn còn có thể điều tiết được nền kinh tế sau khủng hoảng.
FED cũng khẳng định sẽ không nâng mức lãi suất lên khi tỷ lệ thất nghiệp chưa giảm
xuống mức 6, 5%, điều đó cho thấy họ đang kì vọng vào một tương lai cho người lao
động.Và hơn nữa vấn đề việc làm đang được đặt lên hàng đầu trong công cuộc khôi phục
nền kinh tế, và cho đến nay nó vẫn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của chính phủ
Mỹ.Tuy nhiên trên thực tế, khi thực hiện mức lãi suất thấp này cái phục hồi lơn nhất lại

không phải là tỷ lệ thất nghiệp mà là các yếu tố khác như GDP, lạm phát…
a) Tác động đến lạm phát

Mục tiêu của Mỹ đó là kiểm soát lạm phát ở mức 2%. Tuy nhiên, có thể thấy, tỉ lệ lạm
phát trong năm 2011 đã không được như ý muốn khi nó đã vượt lên quá cao (thậm chí có
lúc chạm mức 4% vào tháng 7). Tuy nhiên, điều này đã được cải thiện đáng kể ở thời
gian sao khi tỉ lệ lạm phát đã dao động quanh mức từ 1% đến 2% và thậm chí hiện nay nó
duy trì ở mức 1.5%, đáng chú ý hơn là nó thấp hơn mục tiêu dài hạn của FOMC là 2%..
Có thể nói đây là tín hiệu khá lạc quan với các chính sách tiền tệ đã được áp dụng.


Đồ thị 9: Tỷ lệ lạm phát của Mỹ (2011 – 2014)

(Nguồn: Inflation rate in US, 2014)
b) Tác động đến tỉ lệ thất nghiệp

Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ trong giai đoạn này cũng đã giảm đáng kể từ 9% năm 2011 đến
dưới 6% đầu năm 2014 mặc dù quá trình giảm không được liền mạch khi đôi khi vẫn
tăng lên thêm 1 tỉ lệ nhỏ. Đây là tín hiệu tich cực khi mà các doanh nghiệp đã dễ dàng
tiếp cận được nguồn vốn hơn nhờ việc lãi suất thấp được điều tiết bởi FED. Khi các
doanh nghiệp đã có vốn cho việc đầu tư thì công ăn việc làm sẽ được tạo ra ngày càng


nhiều.
Cụ thể, tại báo cáo thường niên gần nhất, thị trường lao động tiếp tục cải thiện trong nửa
cuối năm 2013 và vào đầu năm 2014 khi kinh tế phục hồi mạnh, và tỷ lệ thất nghiệp đã
giảm từ 7, 5% trong tháng sáu đến 6, 6% trong tháng Giêng . Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm 11.5% kể từ tháng Tám năm 2012- tháng trước khi Ủy ban thị trường mở liên bang
(FOMC) bắt đầu chương trình mua tài sản hiện tại của nó. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp
vẫn còn cao hơn mức mà các thành viên của FOMC phán đoán để nền kinh tế bền vững
trong dài hạn

Đồ thị 10: Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ (2011 – 2014)

(Nguồn: United States Unemployment Rate, 2014)

c) Tác động đến tốc độ tăng trưởng GDP

Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ trong giai đoạn 2011-2014 là yếu tố
đáng lo ngại nhất, cho thấy một sự không ổn định. Các chính sách tiền tệ mà cụ thể là


chính sách lãi suất đã phát huy hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ thất nghiệp và phần nào
bình ổn lạm phát, nhưng có lẽ để đạt được những điều trên thì FED đã phải đánh đổi bằng
tốc độ tăng trưởng GDP. Các số liệu cho thấy tốc độ tăng trưởng dao động trong một
khoảng rộng, không được ổn định khi mà có những lúc nó xuống dưới mức 0%, mà cụ
thể là gần -2% vào đầu năm 2011 và đầu năm 2014. Dưới cái nhìn lạc quan thì hầu hết
thời gian trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng đạt trên mức 0%, đặc biệt là vào thời kì
cuối các năm 2012, 2013, 2014 khi mà con số này đạt mức trên 4%.
Đồ thị 11: Tăng trưởng GDP của Mỹ (2011 – 2014)

(Nguồn: United States GDP Growth Rate, 2014)
2. Đánh giá
Việc áp dụng một chính sách lãi suất thấp vào thời điểm 2011 đến nay của Fed cho thấy

một sự thay đổi tuy không nhanh chóng và tạo ra bước ngoăt lịch sử để đưa kinh tế Mỹ từ
vực sâu quay lại thời kì hưng thịnh một cách thần tốc nhưng phải khẳng đinh là là sự can
thiệp đúng đắn và kịp thời.Tuy nhiên nó cũng thể hiện 2 mặt của vấn đề.
a) Mặt tích cực:
• Chính sách dễ thực hiện áp dụng nhanh, được đưa ra kịp thời, đúng liều lượng.



Thực tế cho thấy rằng việc can thiệp bằng chính sách lãi suất tạo cho các doanh



nghiệp một cơ hội lớn, bớt khó khăn về vốn, giảm gánh nặng chi phí trong thời
buổi khó khăn chồng chất.
Chính sách có ảnh hưởng lớn với các biến số vĩ mô trrong nền kinh tế nên tác



động nhanh và mạnh đến các yếu tố của nền kinh tế kì vọng nhanh phục hồi hơn.
b) Mặt tiêu cực:
• Dễ tạo ra các bong bong đầu cơ bất động sản: các chủ đầu tư có thể lợi dụng mức
lãi suất đó để vay nhiều với những mục đích khác ngoài đầu tư để trục lợi.
• Duy trì lâu dài một chính sách lãi suất thấp khi mà nền kinh tế đã đi vào ổn định
dễ gây những tác động ngược lại với mục đích ban đầu đề ra

3.

Giải pháp kiến nghị
Nhìn chung, chúng ta không thể phủ nhận được vai trò to lớn của FED trong việc

điều hành chính sách lãi suất, qua đó vực dậy nền kinh tế Mỹ một cách thần kì sau cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới 2008. Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ hơn 9% vào đầu năm 2011
xuống dưới 6% vào giữa năm 2014. Tỷ lệ lạm phát duy trì ở mức ổn định lý tưởng dưới
2% từ đầu năm 2014. Tuy nhiên, tổng sản phẩm quốc nội GDP vẫn còn biến động bất ổn
từ đầu năm 2011 đến nay, điển hình là quý I/2014 tốc độ tăng trưởng GDP chạm đáy
-2.1%, và trong ngay quý sau đó, tốc độ tăng trưởng GDP chạm mốc 4.6%. Điều này cho
ta một cái nhìn khách quan rằng, chính sách lãi suất của FED nhìn chung đã đạt được
nhiều thành quả đáng kể, Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế phát triển nhanh chóng,

nhiều biến động thì việc duy trì một chính sách lãi suất vô cùng thấp trong một thời gian
dài hẳn cũng có những mặt tiêu cực tác động xấu đến sự phát triển của nền kinh tế đang
khao khát trở lại ngôi vị bá chủ.Vậy FED phải có những giải pháp gì cho hướng đi trong
những năm tiếp theo và dài hạn?

+ Đầu tiên, nếu FED vẫn kiên trì theo đuổi mức lãi suất thấp 0% để thu hút
được các nhà đầu tư với mức lãi suất vay không như thế thì cũng cần phải có các


chính sách đi kèm để tận dụng được hết các khoản đầu tư đổ về cũng như là đù đắp
phần thiệt hại cho nền kinh tế khi áp mức lãi suất thấp như vậy.
 Trước hết, FED có thể tăng tính thanh khoản tiền tệ của Hoa Kỳ cũng như hệ thống tài

chính thế giới bằng việc hoán đổi tiền tệ của mình với các ngân hàng Trung Ương lớn
như Anh Nhật và các ngân hàng TW châu âu, khi đó FED sẽ tăng khả năng cũng cấp cho
các công ty tại Mỹ nguồn ngoại tệ khi thực hiện các danh mục đầu tư liên kết với các
nước ngoài.Động thái này sẽ góp phần hỗ trợ FED mở rộng hợp tác các hoạt động tín
dụng cũng như các hoạt động cho vay để phục hồi kinh tế, phục hồi niềm tin của thi
trường, tăng tính bền vững cho thị trường tài chính thế giới.
+ FED đã rất nhanh nhạy trong việc giữ nguyên mức lãi suất ngắn hạn 0.25%
hậu khủng hoảng kinh tế để tạo niềm tin nơi nhà đầu tư, kích thích các chủ thể trong
nền kinh tế tiếp cận với nguồn tài chính chi phí rẻ. Tuy nhiên, có một điều mà FED
không thể can thiệp được, đó chính là khối lượng tiền cho vay ra nền kinh tế của
hệ thống ngân hàng thương mại. Cuộc khủng hoảng tài chính đồng thời kéo theo sự
sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng thương mại lớn. Nhưng ngân hàng còn sót lại gần
như cũng trong tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc “. Do đó, các ngân hàng này có xu
hướng sử dụng khoản tiền còn lại để thanh lý các danh mục nợ xấu hay tăng tỷ lệ vốn,
hơn là việc mạo hiểm cho vay ra nền kinh tế bất ổn.
 FED nên đưa ra thêm những chính sách khuyến khích các Ngân hàng thương


mại tích cực cho vay ra thị trường như nới lỏng các điều kiện cho vay, ...
+ Cuối cùng, FED nên nâng dần FFR và lãi chiết chiết khấu theo một tiến
độ nhất định trong tương lai. Đối với nền kinh tế Mỹ giai đoạn khủng hoảng và hậu
khủng hoảng, việc duy trì FFR ở mức thấp giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận được
nguồn vốn giá rẻ để duy trì sản xuất kinh doanh,kiềm chế tỉ lệ thất nghiệp gia tăng. Dân
chúng giảm tiết kiệm,chi tiêu nhiều hơn trong hiện tại,qua đó kích thích ngược trở lại
tới doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi nền kinh tế đã phục hồi tới một mức nhất định, việc
duy trì một lãi suất thấp dễ dẫn đến lạm phát trong dài hạn. Không những vậy,nó còn
dẫn đến việc đầu tư vốn thái quá vào các tài sản tài chính ngắn hạn không bền vững lâu
dài và tình trạng bong bóng bất động sản.



×