Tải bản đầy đủ (.ppt) (33 trang)

Chuyên đề VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.22 KB, 33 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO ĐẠI LỘC

TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯƠNG HOÀNH

MÔN KHOA HỌC &TN-XH
Ở TIỂU HỌC


I. Đặt vấn đề:
Năm học 2016-2017, Trường Tiểu học Trương Hoành thực hiện thí điểm
dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột". Theo đó, nhà trường đã kịp
thời xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai và chỉ đạo thực hiện dạy học
môn TNXH 2,3 và Khoa học 4,5 trong phạm vi toàn trường. Bước đầu tiếp
cận và làm quen với PPDH mới, trên cơ sở vừa áp dụng dạy học vừa học
tập, tìm tòi nghiên cứu, cả thầy lẫn trò đã gặp không ít khó khăn trong quá
trình dạy và học. Tuy nhiên, qua gần một năm thực hiện, đến nay việc dạy
và học theo PP này đã đúc kết được không ít những kinh nghiệm nhất định,
đã góp phần vào việc đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng giáo dục trong
nhà trường. Trong quá trình dạy học nói trên, với vai trò là người tham gia
quản lí chuyên môn ở tổ CM cùng với nhiều thầy cô đã và đang phụ trách
môn học có áp dụng PP “Bàn tay nặn bột”, xin đúc kết và chia sẻ những
trải nghiệm qua thực tế dạy học theo PP này.
Trước tiên, phải khẳng định rằng, nếu giáo viên có đầu tư và thực hiện
tốt việc dạy học theo PP “Bàn tay nặn bột” và dạy đúng hướng thì không
chỉ giúp học sinh nắm chắc kiến thức khoa học của bài học mà còn giúp học
sinh hình thành năng lực nghiên cứu khoa học, rèn luyện kĩ năng diễn đạt
thông qua ngôn ngữ nói, viết, vẽ cho HS.


1. Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là gì ?
Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là phương pháp dạy học tích cực


dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho dạy các môn Khoa học tự
nhiên.
“Bàn tay nặn bột” chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh
bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả
lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí
nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra…
2. Đặc điểm cơ bản của phương pháp Bàn tay nặn bột ?
Đặc điểm cơ bản của phương pháp Bàn tay nặn bột là phương pháp
giảng dạy dựa trên sự tìm tòi - nghiên cứu. Cũng như các phương pháp
dạy học tích cực khác, học sinh đóng vai trò trung tâm trong quá trình
dạy – học, tích cực, chủ động lĩnh hội kiến thức. Giáo viên là người
hướng dẫn, cố vấn, giúp đỡ học sinh trong quá trình lĩnh hội kiến thức
thông qua các hoạt động. Phương pháp này ngoài việc giúp học sinh
lĩnh hội kiến thức còn rèn luyện các kĩ năng và phát triển ngôn
ngữ( nói và viết) cho học sinh.


3. Một số đặc điểm quan trọng để phân biệt Bàn tay nặn bột với các
phương pháp dạy học khác :
Phương pháp Bàn tay nặn bột chú trọng biểu tượng ban đầu của học
sinh trước khi tiếp cận kiến thức mới.
Sự tiếp thu kiến thức của học sinh thông qua việc giáo viên giúp học
sinh tự đi lại chính con đường mà các nhà khoa học đã tìm ra chân
lí(kiến thức)
Đó là: Đặt giả thuyết ( biểu tượng ban đầu), đặt câu hỏi khoa học, đề
xuất phương án nghiên cứu và làm thí nghiệm để kiểm chứng giả
thuyết, đưa ra kết luận.
Việc phát hiện kiến thức của học sinh thông qua quá trình tiến hành
thực nghiệm, hs sẽ phân tích, suy luận, thảo luận chung và tranh luận
với bạn với giáo viên về những ý tưởng hay kết quả thực nghiệm( tức là

bắt đầu từ đầu giống như các nhà khoa học đã đi )
Phương pháp Bàn tay nặn bột sử dụng vở thí nghiệm như là một
phương tiện để rèn luyện ngôn ngữ viết cho học sinh trong quá trình
học tập các kiến thức khoa học, tập làm quen với ghi chép một cách
khoa học các thông tin thu nhận được trong giờ học.


II. Hiệu quả của việc dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”:
1. Về học sinh:
HS đều tỏ ra hứng thú, say mê với bài học, từ đó nắm vững kiến
thức ngay trên lớp và biết vận dụng vào cuộc sống.
Phát triển được kĩ năng làm việc hợp tác theo nhóm, kĩ năng diễn
đạt qua ngôn ngữ nói và viết cũng mạch lạc hơn.
HS làm việc nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn và được trình bày quan
điểm. Qua đó các em dần hình thành và được rèn luyện phương pháp
tự học.
2. Về giáo viên:
Giáo viên cũng hứng thú hơn, không tốn nhiều thời gian để truyền
thụ những kiến thức khoa học dưới dạng thuyết trình, trình bày mà là
giúp HS xây dựng kiến thức bằng cách cùng hành động với HS.
GV hiểu rõ hơn cách thức mà HS tiếp thu kiến thức khoa học hay
hướng dẫn tự học và hướng dẫn cách nghiên cứu khoa học.


III. Những thuận lợi và khó khăn khi sử dụng PP BTNB:
1. Thuận lợi:
Được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của bộ phận chuyên môn PGD.
Đầu năm học 2016-2017, tổ nghiệp vụ của đã kiểm tra, dự giờ, góp ý
rút kinh nghiệm đối với giáo viên dạy thí điểm môn khoa học và TNXH
bằng PP BTNB.

Nhiều GV luôn đi đầu trong việc đổi mới PP giảng dạy nên đã tiếp
thu khá nhanh PP BTNB.
Nhiều GV đã tự nghiên cứu, tìm hiểu về PP này trước nên việc lĩnh
hội những điều cơ bản của PP BTNB không có gì khó khăn.
Mặt khác, theo Kế hoạch chuyên môn của nhà trường, GV dạy môn
Khoa học và TN-XH đã soạn giảng và áp dụng giảng dạy đối với tất cả
các bài có khả năng áp dụng PP BTNB. Định kì đã tổ chức thao giảng,
hội giảng, hội thảo tại trường để rút kinh nghiệm và chỉ đạo giáo viên
dạy thí điểm thực hiện tốt hơn.


2. Khó khăn:
- Về điều kiện, cơ sở vật chất:
Trong các lớp học hiện nay, bàn ghế được bố trí theo dãy, nối tiếp
nhau; số học sinh trên một lớp quá đông nên không thuận lợi cho việc
tổ chức học theo nhóm.
Phương pháp Bàn tay nặn bột đòi hỏi phải có nhiều thời gian đối
với mỗi tiết học chứ không chỉ với thời gian hạn chế 35 – 40 phút/tiết
học như quy định hiện nay.
Dụng cụ thí nghiệm chưa đồng bộ và thiếu chính xác.
Điều kiện cho HS tham quan, điều tra thực tế còn hạn chế.
- Về phía giáo viên:
Kiến thức chuyên sâu về khoa học của một số giáo viên còn hạn chế.
Nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc hình thành cho học sinh
phương pháp học tập, rèn kỹ năng và thói quen tự tìm tòi nghiên cứu
trước các sự vật, hiện tượng tự nhiên.


- Về phía HS:
Vốn kiến thức thực tế của HS chưa phong phú. Một bộ phận HS

chưa chủ động, sáng tạo trong học tập. Ngôn ngữ nói và viết khi giải
thích hiện tượng khoa học của HS còn khó khăn.
IV. Giải pháp khắc phục:
Sắp xếp bàn ghế trong lớp học hợp lí, chia nhóm từ 4-6 em, nghiên
cứu các bài có thí nghiệm để dạy liên tục theo chủ đề để khỏi mất thời
gian sắp xếp ghế.
Có chỗ dành riêng để vật liệu thí nghiệm.
Thường xuyên thực hiện tốt phong trào làm đồ dùng học tập của HS
và đồ dùng dạy học của giáo viên. GV tận dụng những nguyên vật liệu
rẻ tiền có sẵn ở địa phương để phục vụ cho việc giảng dạy.
Nâng cao công tác tự học, tự nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng về kiến
thức khoa học.
GV nắm vững các kĩ thuật dạy học khi sử dụng PP BTN. Cần sử
dụng phương pháp thường xuyên để rèn thói quen cho học sinh. Rèn
cho học sinh kĩ năng diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn để đảm bảo thời gian.
Sưu tầm tài liệu, sách, tranh ảnh …. phục vụ cho bài học.


Ban đầu, khi bắt đầu làm quen với phương pháp BNTB và làm việc
với vở thí nghiệm, học sinh sẽ chưa thể tự ghi chép một cách tự giác vì
vậy cần có sự hướng dẫn cụ thể của giáo viên. Dần dần học sinh sẽ tự
biết cách ghi chép và quen dần với phương pháp học tập với vở thí
nghiệm. Giáo viên nên chuẩn bị các mẫu sẵn để học sinh trình bày
theo, hoặc nếu có điều kiện giáo viên in sẵn các tờ rời với mẫu có sẵn
để học sinh điền vào, sau đó dán vào vở thí nghiệm của mình. Nên thực
hiện cách thức này đối với các học sinh nhỏ tuổi (lớp 2, 3) vì ở độ tuổi
này học sinh chưa đủ khả năng để trình bày vở thí nghiệm như yêu cầu
của giáo viên được.
V. Dạy học theo PP “Bàn tay nặn bột” phải tuân thủ và đảm bảo theo 10
nguyên tắc và 5 tiến trình dạy học:

1. 10 nguyên tắc: Trong đó, 6 nguyên tắc về tiến trình sư phạm và 4
nguyên tắc về những đối tượng tham gia


* Các nguyên tắc về tiến trình sư phạm:
1) Học sinh quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi
với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó.
2) Trong quá trình học tập, các em tự lập luận và đưa ra các lý lẽ, thảo luận những
ý nghĩ và các kết quả đạt được trên cơ sở xây dựng kiến thức cho mình. Một
hoạt động mà hoàn toàn chỉ dựa trên sách vở là không đủ.
3) Các hoạt động giáo viên đề ra cho học sinh được tổ chức trong các giờ học
nhằm đến một sự tiến bộ trong học tập. Các hoạt động này gắn với chương
trình và dành phần lớn quyền tự chủ cho học sinh.
4) Cần một lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự
liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong
suốt thời gian học tập.
5) Mỗi học sinh có một quyển vở ghi chép thí nghiệm và các em trình bày trong đó
bằng ngôn ngữ của riêng mình.
6) Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần của học sinh các khái niệm khoa học và
kĩ thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói.


* Các nguyên tắc về những đối tượng tham gia:
7) Phụ huynh HS và tất cả mọi người xung quanh cần được khuyến khích
hỗ trợ những điều mà HS, lớp cần để thực nghiệm.
8) Ở địa phương, các cơ sở khoa học giúp các hoạt động của lớp theo khả
năng của mình.
9) Ngành giáo dục, trường sư phạm giúp các giáo viên về kinh nghiệm và
phương pháp giảng dạy.
10) Giáo viên cần chủ động tự học, tự tìm hiểu tài liệu, kiến thức liên

quan; trao đổi với đồng nghiệp. Giáo viên có thể tìm thấy trên internet
các website có nội dung về những môđun kiến thức (bài học) đã được
thực hiện, những ý tưởng về các hoạt động, những giải pháp thắc mắc.
Giáo viên là người chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt
động của lớp mình phụ trách.
2. Tiến trình: Các bước của tiến trình dạy học:


Bước1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.

Bước 2: Quan niệm ban đầu của HS.
Bước 3: Dự đoán, giả thuyết và phương án thực
nghiệm.
Bước 4: Nghiên cứu: QS, TN, đọc tài liệu, mô
hình,tham quan, điều tra.
Bước 5: Kiến thức mới


* TIẾN TRÌNH CHUNG VỀ

DẠY HỌC THEO PHƯƠNG PHÁP BTNB.

“Bàn tay nặn bột” đề xuất một tiến trình ưu tiên xây dựng tri thức
bằng khai thác, thực nghiệm và thảo luận. Đó là sự thực hành khoa
học bằng hành động, hỏi đáp, tìm tòi, thực nghiệm, xây dựng tập thể
chứ không phải bằng phát biểu lại các kiến thức có sẵn xuất phát từ
sự ghi nhớ thuần tuý.


Các bước

Bước 1:
Tình huống xuất phát
và câu hỏi nêu vấn đề

Nhiệm vụ của HS
- Quan sát, suy nghĩ.

Nhiệm vụ của GV
- GV chủ động đưa ra
một tình huống mở có
liên quan đến vấn đề
khoa học đặt ra.
- Câu hỏi nêu vấn đề
đảm bảo ngắn gọn, gần
gũi, dễ hiểu, phù hợp
với trình độ, gây mâu
thuẫn nhận thức và
kích thích tính tò mò,
thích tìm tòi, nghiên
cứu…


Bước 2:
Bộc lộ quan niệm ban
đầu của học sinh

- Bộc lộ quan niệm ban
đầu nêu những suy
nghĩ từ đó hình thành
câu hỏi, giả thuyết.

…..bằng nhiều cách
nói, viết, vẽ.
Đây là bước quan
trọng đặc trưng của PP
BTNB

- GV cần: Khuyến
khích HS nêu những
suy nghĩ….bằng nhiều
cách nói, viết, vẽ.
- GV quan sát nhanh
để tìm các hình vẽ khác
biệt.
- GV không nhất thiết
phải chú ý tới các quan
niệm đúng, cần phải
chú trọng đến các quan
niệm sai.


Bước 3:
Đề xuất câu hỏi hay
giả thuyết và thiết kế
phương án thực nghiệm

a) Đề xuất câu hỏi
- Từ các khác biệt và
phong phú về biểu
tượng ban đầu, HS đề
xuất câu hỏi liên quan

đến nội dung bài học.

- GV giúp học sinh đề
xuất câu hỏi liên quan
đến nội dung bài học.Kiểm soát lời nói, cấu
trúc câu hỏi, chính xác
hoá từ vựng của học
sinh.


b) Đề xuất phương án
thực nghiệm
- Bắt đầu từ những vấn
đề khoa học được xác
định, HS xây dựng giả
thuyết.
- HS trình bày các ý
tưởng của mình, đối
chiếu nó với những bạn
khác.

- GV đặt câu hỏi đề nghị HS đề
xuất thực nghiệm tìm tòi nghiên
cứu để trả lời cho câu hỏi đó.
- GV ghi lại các cách đề xuất
của học sinh (không lặp lại).
- GV nhận xét chung và quyết
định tiến hành PP thí nghiệm
đã chuẩn bị sẵn.
(Nếu HS chưa đề xuất được

GV có thể gợi ý hay đề xuất
phương án cụ thể. Chú ý làm rõ
và quan tâm đến sự khác biệt
giữa các ý kiến).


Bước 4:
Tiến hành thí
nghiệm tìm tòi nghiên cứu

HS hình dung có thể
kiểm chứng các giả
thuyết bằng…
…thí nghiệm (Ưu tiên thí
nghiệm trực tiếp trên vật
thật).
…quan sát
…điều tra
…nghiên cứu tài liệu.
- HS sinh ghi chép lại vật
liệu thí nghiệm, cách bố
trí, và thực hiện thí
nghiệm (mô tả bằng lời
hay hình vẽ).

- Nêu rõ yêu cầu, mục đích thí
nghiệm sau đó mới phát các
dụng cụ và vật liệu thí nghiệm
- GV bao quát và nhắc nhở các
nhóm chưa thực hiện, hoặc

thực hiện sai…
- GV tổ chức việc đối chiếu các
ý kiến sau một thời gian tạm
đủ mà HS có thể suy nghĩ
- GV khẳng định lại các ý kiến
về phương pháp kiểm chứng
giả thuyết mà HS đề xuất.
- GV không chỉnh sửa cho học
sinh


- HS kiểm chứng các
giả thuyết của mình
bằng một hoặc các
phương pháp đã hình
dung ở trên (thí
nghiệm, quan sát, điều
tra, nghiên cứu tài
liệu).- Thu nhận các
kết quả và ghi chép lại
để trình bày

- GV tập hợp các điều
kiện thí nghiệm nhằm
kiểm chứng các ý
tưởng nghiên cứu được
đề xuất.- GV giúp HS
phương pháp trình bày
các kết quả.



Bước 5:
Kết luận và
hợp thức hoá
kiến thức

HS kiểm tra lại tính
hợp lý của các giả
thuyết mà mình đưa
ra.
* Nếu giả thuyết sai:
thì quay lại bước 3.
* Nếu giả thuyết
đúng:
Thì kết luận và ghi
nhận chúng.

- GV động viên HS và yêu cầu bắt
đầu lại tiến trình nghiên cứu.
- GV giúp HS lựa chọn các lý luận
và hình thành kết luận.
- Sau khi thực hiện nghiên cứu, các
câu hỏi dần dần được giải quyết, các
giả thuyết dần dần được kiểm
chứng tuy nhiên vẫn chưa có hệ
thống hoặc chưa chính xác một cách
khoa học.
- GV có trách nhiệm tóm tắt, kết
luận và hệ thống lại để học sinh ghi
vào vở coi như là kiến thức bài học.

- GV khắc sâu kiến thức bằng cách
đối chiếu biểu tượng ban đầu.


VI. Một số lưu ý khi áp dụng PP “Bàn tay nặn bột”:
- Trong quá trình HS thực hành, GV phải khéo léo theo dõi, quan sát học
sinh xem các em đang nghĩ gì về vấn đề mà mình đặt ra để nắm được tình hình.
Nếu có điều gì không khớp với dự định ban đầu thì cần phải có sự điều chỉnh
cho phù hợp.
- Các biểu tượng HS đưa ra có thể đúng, có thể sai nhưng giáo viên không
đánh giá và cũng không đưa ra câu trả lời. GV chỉ gợi ý hay đặt thêm những câu
hỏi dẫn dắt HS đi tìm câu trả lời cho câu hỏi của chính các em chứ không làm
thay. Ví dụ; “ Theo em, nó sẽ như thế nào”? “ Em nghĩ (làm) thử xem”? “Em
tìm cách làm nào đó để xem có đúng không”?..... Ví dụ khi các em lọc nước mà
kết quả vẫn đục GV chỉ gợi ý “ Các em thử xem thiết bị thí nghiệm có vấn đề gì
không”? “Xem lại các bước tiến hành lọc nước của các em”.....Trong trường hợp
thí nghiệm cần đến các điều kiện, GV phải giúp các em xác định được điều kiện
của thí nghiệm (Ví dụ: Về mặt thời gian, môi trường, nhiệt độ...). Điều này, bước
đầu HS có thể gặp khó khăn nhưng thực hiện nhiều lần các em sẽ quen dần
trong việc đặt điều kiện cho thí nghiệm để đảm bảo độ chính xác cao.


* Tình huống xuất phát từ câu hỏi phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Câu hỏi thường mang tính chất mở hoặc nửa mở phù hợp với mục tiêu bài
học và phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh sao cho các em có khả năng
giải quyết.
- Có tác dụng khêu gợi trí tò mò và ham hiểu biết khoa học, kích thích các em
suy nghĩ và tiến hành giải quyết để đem lại những hiểu biết.
- Câu hỏi phải gọn, rõ ràng, dễ hiểu, hạn chế những từ ngữ mang khái niệm
mà các em chưa biết. Nếu có, GV nên tìm những từ ngữ thay thế sao cho vừa đảm

bảo HS hiểu được vừa vẫn giữ nguyên được ý nghĩa của nó.
- Khi nêu câu hỏi phải đảm bảo cho tất cả học sinh nghe và biết được mình
cần phải làm gì.
- Việc chuẩn bị các vật liệu, đồ dùng dạy học có ý nghĩa quan trọng. Đối với
phương pháp Bàn tay nặn bột nếu không có đồ dùng dạy học thì không thể tiến
hành được.
- Đối với phương pháp Bàn tay nặn bột, trong đánh giá HS đánh giá về năng
lực quan sát, năng lực tư duy, khả năng suy luận và phán đoán, kỹ năng làm thí
nghiệm, cách sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt (kể cả trong khi nói và viết),


- Không chia nhóm HS quá đông, mỗi nhóm chỉ từ 2, 4 đến 6 em và từ hai
bàn ghép lại.
- Không nên cho HS biết trước kiến thức của bài học một cách tiêu cực mà
phải để cho các em tự khám phá ra chúng. Không để các em sử dụng sách giáo
khoa để trả lời câu hỏi mà giáo viên đưa ra vì như vậy sẽ làm cho HS có thói quen
ỷ lại không chịu suy nghĩ, tìm tòi trong học tập.
- Không nêu tên bài học trước khi học (với những bài thể hiện nội dung bài
học ở đề bài).
- Lựa chọn hoạt động phù hợp với phương pháp Bàn tay nặn bột để áp dụng,
không nhất thiết hoạt động nào cũng áp dụng phương pháp này.
- Giáo viên cần chuẩn bị trước các thí nghiệm dự kiến để có kết quả như
mong muốn.
- Sử dụng CNTT cho bài dạy áp dụng phương pháp BTNB đúng lúc, đúng
chỗ, hợp lí.
- Với một số thí nghiệm đơn giản, giáo viên có thể giao việc cho học sinh bằng
những phiếu giao việc, tự học sinh chuẩn bị các vật liệu cho nhóm của mình.
- Chú ý vấn đề an toàn trong quá trình các em làm thí nghiệm.



VII. Kết luận:
Qua thời gian thực nghiệm với phương pháp dạy học BTNB tại Trường
Tiểu học Trương Hoành cho thấy đây là một phương pháp dạy học rất hiệu quả
đối với môn học Khoa học tự nhiên (TN-XH lớp 2,3 và môn Khoa học lớp 4,5).
Cụ thể, phương pháp dạy học này đã thể hiện được nhiều ưu điểm so với các
phương pháp dạy học truyền thống khác:
- Giúp học sinh được thực nghiệm nhiều hơn trong tiết học.
- Giáo viên có thể khai thác những kiến thức trong đời sống thực tế của học sinh
từ đó giúp học sinh tự tìm hiểu và hình thành kiến thức mới của bài học.
- Tiết học tạo được sự hứng thú từ phía học sinh vì bản thân mình tự tìm tòi để
rút ra được tri thức.
- Phát huy được tối đa tinh thần làm việc theo nhóm của học sinh.
- Có sự chuẩn bị từ hai phía cho việc chiếm lĩnh kiến thức mới: Giáo viên - học
sinh.


Tuy nhiên, để thực hiện phương pháp này, người GV phải có kiến thức
khoa học tự nhiên vững vàng và khả năng linh hoạt để ứng phó với mọi tình
huống bất ngờ xảy ra trong tiết học. Hai điều này không phải GV tiểu học
nào cũng có thể làm được. Về phía HS, các em phải có vốn kiến thức thực tế
phong phú, phải chủ động học tập, phải năng động, sáng tạo.


×