Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

PHÂN TÍCH GIÁ BÓNG TƯƠNG ĐỐI VỐN XÃ HỘI TẠI CÁC ĐƠN VỊ TÁI CHẾ GIẤY CẤP ĐỘ HỘ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.68 KB, 6 trang )

Nhóm 3 - Lớp Kinh tế phát triển Đêm

PHÂN TÍCH GIÁ BÓNG TƯƠNG ĐỐI VỐN XÃ HỘI
TẠI CÁC ĐƠN VỊ TÁI CHẾ GIẤY CẤP ĐỘ HỘ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM

1.

ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Đặt vấn đề

Khái niệm vốn xã hội là đầu vào của hàm sản xuất của hộ gia đình hoặc quốc gia
(Grootaert, 1999), một tài sản được tích lũy và đem lại lợi ích (Grootaert và Van Bastelaer,
2001) làm cho việc phân tích hoạt động kinh tế rộng hơn. Trong những năm gần đây, nhiều
nghiên cứu thực nghiệm nghiên cứu tác động của vốn xã hội cho thấy vốn xã hội có tác động
tích cực đến lợi ích hộ gia đình. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này giới hạn các phân tích
đối với hoạt động đoàn thể như là một cách đo lường vốn xã hội chứ chưa chỉ ra được tác động
của các khía cạnh khác nhau của vốn xã hội tới kết quả kinh tế.
Hiện nay, vốn xã hội được thừa nhận là một yếu tố sản xuất ngang tầm với các yếu tố
đầu vào khác như vốn vật thể, vốn nhân lực và lao động. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào
kiểm tra cái cách mà vốn xã hội tác động đến hiệu năng sản xuất và giá bóng của một số đầu ra
nhất định trừ nghiên cứu của Ha và cộng sự (2004b) kết hợp vốn xã hội như là một yếu tố sản
xuất và phân tích hiệu năng sản lượng cũng như giá bóng của các tác động tới môi trường tại
các đơn vị tái chế giấy mức độ hộ gia đình của Việt Nam.
Vốn xã hội không được mua bán trên thị trường nên giá của chúng không tồn tại từ các
thông tin thị trường. Hiện cũng chưa có nỗ lực nào trong việc tạo ra một cơ chế để xác định giá
cả của vốn xã hội. Ngoài ra, hầu hết các nghiên cứu trước cũng cho thấy tác động của vốn xã
hội vào sản lượng của hộ gia đình là khác nhau giữa các nhóm có thu nhập khách nhau nên giá
của chúng cũng khác nhau giữa các nhóm này.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Thứ nhất, tính toán giá bóng tương đối của vốn xã hội và xác định phạm vi vốn xã
hội đóng góp vào hiệu năng sản xuất của các đơn vị tái chế giấy về mặt giá trị.


- Thứ hai, cùng với đánh giá đóng góp của chỉ số vốn xã hội tổng hợp tới hiệu năng sản
xuất của các nhà máy, nghiên cứu cũng kiểm tra giá bóng tương đối và sự đóng góp của bốn bộ
phận của vốn xã hội – hoạt động đoàn thể, các quan hệ xã hội (chia sẻ thông tin), sự tín nhiệm
và sự giúp đỡ lẫn nhau đối với hiệu năng sản xuất về mặt giá trị.
- Cuối cùng, đánh giá và so sánh giá bóng tương đối và sự đóng góp của bốn bộ phận
vốn xã hội tới hiệu năng sản xuất thông qua năm mức độ thu nhập.
1.3 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là ở Dương Ô, làng tái chế giấy của tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam, cách
Hà Nội khoảng 32km về phía Đông Bắc. Theo thống kê của Ủy Ban Nhân Dân xã Phong Khê
làng này hiện có 3.950 người với 700 hộ. Hơn thập kỷ qua, làng này đã tự chuyển đổi thành
cộng đồng tái chế giấy. Từ 6 xưởng với 6 đơn vị sản xuất năm 1992 nay làng đã có 71 đơn vị
tái chế giấy. Hầu hết sử dụng giấy thải là nguyên vật liệu đầu vào, làng đã sản xuất được
khoảng 200 tấn giấy thành phẩm mỗi ngày và thuê khoảng 1.900 công nhân. Làng còn tạo ra

Page 1 of 6


Nhóm 3 - Lớp Kinh tế phát triển Đêm

hàng ngàn việc làm cho dân cư vùng khác khi họ tham gia vào quá trình thu gom, mua bán, vận
chuyển và phân loại giấy thải.
2.

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Nghiên cứu thực nghiệm liên quan

Vào thời gian trước, đặc tính của vốn xã hội phần lớn dựa vào định nghĩa trừu tượng và
bị chi phối bởi các nhà xã hội học và khoa học chính trị. Năm 1995, Fukuyama kết hợp vốn xã
hội vào khung kinh tế để giải thích sự phát triển kinh tế. Sau đó, vài nghiên cứu mở rộng sự
đóng góp của vốn xã hội vào quá trình sản xuất và phát triển kinh tế. Narayan và Pritchett

(1999) sử dụng vốn xã hội như là một yếu tố sản xuất và nhận ra rằng ở nông thôn Tanzania,
mức độ và đặc tính của hoạt động đoàn thể được đo lường bằng thành viên trong nhóm, đặc
tính của những nhóm này, giá trị và thái độ của thành viên đối với nhóm có tác động tích cực
và mạnh mẽ tới chi phí hộ gia đình. Grootaert (1999), Grootaert và cộng sự (2002), Grootaert
và Narayan (2004) lập lại các đặc tính của phương pháp được sử dụng bởi Grootaert và
Narayan (2004) và mở rộng phân tích đến Indonesia, Bolivia và Burkina Faso. Họ dựa vào
định nghĩa vốn xã hội của họ về thành viên của các hộ gia đình tham gia các đoàn thể địa
phương thông qua sáu biến: mật độ của đoàn thể, tính không đồng nhất trong nội bộ đoàn thể,
tần số tham dự họp mặt, sự tham gia có hiệu quả của các thành viên trong việc đưa ra quyết
định, phí tham gia, định hướng chung của đoàn thể. Kết hợp các biến này lại tạo thành chỉ số
vốn xã hội và nó có tác động tích cực đến phúc lợi của hộ gia đình – được đo lường bởi chi phí
trên đầu người. Nghiên cứu khác của Maluccio và cộng sự (2000) ở Nam Phi, Ruben và Van
Strien (2001) ở Nicaragua cũng cho thấy vốn xã hội có tác động tích cực đến thu nhập hộ gia
đình. Tuy nhiên, tất cả các nghiên cứu này chỉ tập trung vào hoạt động nông nghiệp trong khi
các hình thức khác của sản xuất hộ gia đình chưa được nghiên cứu. Tương tự, phân tích sản
xuất trong các nghiên cứu này bị giới hạn bởi khía cạnh đoàn thể của vốn xã hội trong khi có ít
nhất ba khía cạnh của vốn xã hội được xem là nhân tố của quá trình sản xuất (Hean và cộng sự,
2003), bao gồm quan hệ xã hội, sự tín nhiệm và sự giúp đỡ lẫn nhau.
Thông tin chia sẻ tạo thuận lợi cho luồng thông tin giữa các đơn vị sản xuất giúp giảm
chi phí giao dịch, tránh được chủ nghĩa cơ hội và thất bại thị trường vì thông tin không hoàn
hảo (Fafchamp và Minten, 2002). Sự tín nhiệm cao đạt được thông qua tương tác giữa các chủ
thể kinh tế sẽ khuyến khích sự hợp tác và giảm chi phí sản xuất (Pargal và cộng sự, 2002) vì
vậy giúp tiết kiệm nguồn lực và thúc đẩy thực hiện giao kết (Pretty và Ward, 2001). Sự giúp đỡ
lẫn nhau thúc đẩy sự trao đổi mang lại lợi ích cho nhau (Maluccio và cộng sự, 2000) và vì vậy
nó đóng góp vào sự phát triển nghĩa vụ lâu dài giữa các chủ thể, là nhân tố quan trọng để đạt
được kết quả tốt (Pretty và Ward, 2001).
Nghiên cứu định nghĩa vốn xã hội là những nguồn lực được bao gồm trong các mối
quan hệ giữa các hộ gia đình mà chúng tạo điều kiện thuận lợi cho khả năng sản xuất của hộ
gia đình. Nghiên cứu sử dụng khái niệm này cho việc nhấn mạnh vào bốn khía cạnh khác nhau
của các mối quan hệ: hoạt động đoàn thể, chia sẻ thông tin (quan hệ xã hội), sự tín nhiệm và sự

giúp đỡ lẫn nhau. Bài viết nhấn mạnh vào những yếu tố đầu vào thực sự, là những hình thức
của các khía cạnh khác nhau trong định nghĩa vốn xã hội đến quá trình sản xuất của hộ gia
đình. Kết quả là trong các nghiên cứu gần đây, vốn xã hội được xem là ngang hàng với các
nhân tố sản xuất thông thường khác như vốn vật thể, vốn nhân lực và lao động. Tuy nhiên
Page 2 of 6


Nhóm 3 - Lớp Kinh tế phát triển Đêm

không như các nhân tố sản xuất khác, vốn xã hội không được mua bán trên thị trường và vì thế
nghiên cứu dùng hàm khoảng cách để xác định giá bóng của nó.
3.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Mô hình nghiên cứu
Lý thuyết nền tảng của hàm khoảng cách đầu vào và giá bóng tương đối của vốn

xã hội
Nền tảng lý thuyết của hàm khoảng cách đầu vào được thảo luận bởi Fare và Primont
(1995), Kumbhakar và Lovell (2000). Giả sử công nghệ sản xuất của các đơn vị tái chế giấy sử
dụng tập hợp đầu vào L(u) tương ứng với vecto đầu vào Nx1, x=R N+ để tạo ra vecto đầu ra ký
hiệu là u = RM+. Nghĩa là:
L(u) = {x = RN+ : x có thể sản xuất ra u}
Giả định rằng công nghệ này thỏa mản các tiên đề được đề cập trong Fare và Primont
(1995). Hàm khoảng cách đầu vào DI(x,u) được định nghĩa dựa vào tập hợp đầu vào L(u) là:
DI(x,u) = max { λ : (x/λ) є L(u)} (1)
(1) đưa ra số lượng tối đa mà vecto yếu tố đầu vào của đơn vị tái chế giấy có thể được
sử dụng triệt để và vẫn có thể tạo ra vecto đầu ra mục tiêu. Giá trị của hàm khoảng cách là giá
trị cực đại DI(x,u) khi (x/λ) є L(u).
Theo Kumbhakar và Lovell (2000), hàm khoảng cách đầu vào thì không giảm, thuần

nhất bậc 1và lõm tại x, không tăng và không giảm trong u. Giá trị của nó không tăng, lớn hơn
hoặc bằng 1 nếu vecto đầu vào x là một tập hợp đầu vào có thể sản xuất ra L(u). Hàm khoảng
cách đầu vào có một giá trị đồng nhất nếu x nằm trên đường giới hạn bên trong của tập hợp các
đầu vào.

Hình 1: Hàm khoảng cách đầu vào và tập hợp đầu vào

Hình 1 là một hàm khoảng cách đầu vào, trong đó, x 1 và x2, được sử dụng để sản xuất
đầu ra u. Đường cong biểu diễn các khả năng đầu vào, SS’, là đường giới hạn bên trong của tập
hợp các đầu vào, phản ánh những kết hợp đầu vào tối thiểu có thể sử dụng để sản xuất ra một

Page 3 of 6


Nhóm 3 - Lớp Kinh tế phát triển Đêm

vecto đầu ra. Trong hình, đầu vào x có thể cho đầu ra u, nhưng u có thể sản xuất tại mức đầu
vào nhỏ hơn là (x/λ*). Do đó:
DI(x,u) = λ* = OA/OB > 1
Có rất nhiều thuận tiện trong việc sử dụng phương pháp hàm khoảng cách đầu vào
trong trường hợp này. Thứ nhất, không như hàm chi phí và lợi nhuận, nó không đòi hỏi thông
tin giá đầu vào và đầu ra (Fare và Primont, 1995) và chúng ta không có giá của vốn xã hội và
của các tác động không mong muốn. Thứ hai, ngược với hàm chi phí và lợi nhuận, nó không
đòi hỏi phải duy trì giả thiết hành vi tối thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi nhuận (Kumbhakar
và Lovell, 2000). Thứ ba, hàm khoảng cách chỉ nhận ra giới hạn công nghệ và đưa ra khoảng
cách tới giới hạn đó cho mỗi quan sát, kết quả là những cách đo lường hiệu quả kinh tế khác
nhau (như tác động thay thế) thì không phụ thuộc vào giả thiết hành vi. Cuối cùng, tính đối
ngẫu giữa hàm khoảng cách đầu vào và hàm chi phí cho phép chúng ta tìm ra được giá bóng
của vốn xã hội.
3.2 Nguồn và cách thức thu thập dữ liệu

Nghiên cứu chọn ra 71 đơn vị tái chế giấy thải cấp độ hộ gia đình để thu thập dữ liệu.
Tuy nhiên có 8 hộ không thể tiếp cận vì nhiều lý do như nghỉ lễ hoặc từ chối. Dữ liệu gồm 6
yếu tố đầu vào (vốn, lao động, năng lượng, nguyên vật liệu chính (giấy thải), nguyên vật liệu
khác và vốn xã hội) và một sản lượng (sản xuất giấy) được thu thập thông qua câu hỏi điều tra
(phỏng vấn trực diện các chủ hộ có sự chứng kiến của các thành viên khác trong gia đình từ
tháng 6 đến hết tháng 7 năm 2003). Câu hỏi về vốn, lao động, năng lượng, giấy thải, nguyên
vật liệu khác và sản lượng được tiêu chuẩn hóa. Các câu hỏi về vốn xã hội bao gồm bốn khía
cạnh của vốn xã hội: hoạt động đoàn thể, chia sẻ thông tin (quan hệ xã hội), sự tín nhiệm và sự
giúp đỡ lẫn nhau. Nghiên cứu đo lường hoạt động đoàn thể bằng số nhóm và hội viên tham gia
đoàn thể theo đầu người trong hộ. Để đo lường các khía cạnh này nghiên cứu dùng một số câu
hỏi trong bản câu hỏi của Ngân hàng thế giới do Grootaert và cộng sự (2003) thiết kế và tự
phát triển một số câu hỏi riêng phù hợp với tình huống nghiên cứu này.
Tên biến

Ký hiệu

Đơn vị

Phương pháp thu nhập

Vốn vật thể

X1

Triệu đồng

Lao động

X2


100 giờ lao động

Năng lượng

X3

Triệu đồng

Phỏng vấn trực diện chủ hộ với sự
có mặt của các thành viên khác trong
gia đình. Các câu hỏi từ x 1 đến u1 được
chuẩn hóa. Các câu hỏi vốn xã hội áp
dụng từ World Bank và một số được
tác giả đưa ra

Nguyên vật liệu chính

X4

Triệu đồng

Nguyên vật liệu khác

X5

Triệu đồng

Giấy thành phẩm

U1


Kg/năm

Page 4 of 6


Nhóm 3 - Lớp Kinh tế phát triển Đêm
Sự tín nhiệm

X6

%

Sự giúp đỡ qua lại

X7

%

Hoạt động đoàn thể

X8

%

Chia sẻ thông tin

X9

%


Chỉ số vốn xã hội

X10

%

Tổng hợp bằng trung bình số học các
biến từ x6-x9

BOD

U2

Kg/năm

COD

U3

Kg/năm

Trung tâm khoa học và công nghệ
môi trường của viện khoa học Hà Nội
(CEST)

SS

U4


Kg/năm

4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Giá bóng tương đối của vốn xã hội tổng hợp đối với vốn vật thể và lao động
Mối quan hệ này là tác động tích cực: thể hiện sự đóng góp tích cực tới hiệu quả sản
xuất tại các đơn vị này. Tuy nhiên, một đơn vị thay đổi của vốn xã hội tổng hợp thì hiệu quả
hơn một đơn vị thay đổi của vốn vật thể nhưng lại ít hơn một đơn vị lao động. Ở mức độ biên,
một đơn vị lao động thì hiệu quả hơn 5.919 lần một đơn vị vốn vật thể. Vì vậy, để nâng cao
hiệu quả sản xuất, gia tăng số lượng lao động thì tốt hơn gia tăng vốn vật thể. Nhưng hầu hết
các chủ hộ khi được khảo sát thì cho rằng vốn vật thể có vai trò quan trọng hơn và nó cho năng
suất cao hơn lao động nên họ cố gắng gia tăng vốn vật thể và ít quan tâm tới lao động.
4.2 Giá bóng tương đối của vốn xã hội phi tổng hợp đối với vốn vật thể và lao động
Kết quả chỉ ra một số khía cạnh. Thứ nhất, giá bóng tương đối của vốn xã hội phi tổng
hợp phản ánh sự đóng góp tích cực vào hiệu quả sản xuất. Thứ hai, sự tín nhiệm và số lượng
hội viên là bộ phận quan trọng nhất trong bốn yếu tố vốn xã hội. Thứ ba, mỗi đơn vị của từng
khía cạnh của vốn xã hội đều kém hiệu quả hơn mỗi đơn vị lao động. Cuối cùng, vai trò của
vốn xã hội là khác nhau giữa các khía cạnh khác nhau của vốn xã hội; vì thế việc sử dụng chỉ
số đo lường tổng hợp hay chỉ một khía cạnh của vốn xã hội có thể thu được những kết quả
khác nhau và kèm theo là những chính sách có thể không cụ thể và do đó không hữu ích.
4.3 Giá tương đối của vốn xã hội cho các nhóm thu nhập khác nhau
Thứ nhất, sự gia tăng một đơn vị tín nhiệm và số hội viên có hiệu quả cao hơn nhiều so
với vốn vật thể. Vì vậy, tất cả các nhóm có thu nhập khác nhau nên đầu tư thời gian và nguồn
lực để trở thành hội viên của các đoàn thể và gia tăng sự tín nhiệm trong các mối quan hệ xã

Page 5 of 6


Nhóm 3 - Lớp Kinh tế phát triển Đêm

hội. Thứ hai, các nhóm có thu nhập thấp hơn tham gia vào các nhóm xã hội sẽ ích lợi hơn

nhóm thu nhập cao vì nhóm thu nhập thấp hơn có thể học nhiều hơn từ nhóm thu nhập cao hơn.
Thứ ba, giá tương đối của sự tín nhiệm và chia sẻ thông tin đối với vốn vật thể là cao nhất đối
với nhóm có thu nhập cao nhất. Điều này được giải thích là do nhóm thu nhập cao hơn có
phạm vi hoạt động sản xuất cao hơn nên một sự thay đổi nhỏ về sự tín nhiệm và chia sẻ thông
tin cũng gây ra tác động lớn hơn đến chi phí giao dịch và chi phí sản xuất. Mặt khác, nhóm thu
nhập cao hơn nắm giữ vị trí quan trọng hơn trong ngành và trong mạng lưới phân phối nên họ
có sự kết hợp với các cá nhân có ảnh hưởng nhiều hơn. Cuối cùng, giá bóng tương đối của chỉ
số vốn xã hội với vốn vật thể là cao nhất với nhóm nghèo nhất và chỉ số này giảm khi thu nhập
tăng lên. Điều đó có nghĩa là bất kỳ chính sách nào làm gia tăng mức độ vốn xã hội tổng hợp sẽ
mang lại nhiều ích lợi hơn cho nhóm thu nhập thấp hơn.
5. KẾT LUẬN
Đây là nghiên cứu đầu tiên áp dụng hàm khoảng cách đầu vào để xác định tham số cho
việc tính toán giá bóng tương đối của vốn xã hội đối với vốn vật thể và lao động. Khám phá
chính của nghiên cứu:

Thứ nhất, hiệu quả tích cực của vốn xã hội tới hiệu quả sản xuất của các xưởng tái chế
giấy. Điều này cũng tương tự như vai trò của vốn vật thể và lao động. Tuy nhiên tác động của
một đơn vị vốn xã hội thì lớn hơn 1 đơn vị vốn vật thể và ít hơn 1 đơn vị lao động. Vì vậy,
nghiên cứu đề nghị các đơn vị này nên quan tâm đến lao động và vốn xã hội hơn là đầu tư vốn
vật thể.

Thứ hai, sự tín nhiệm và hội viên có hiệu quả mạnh nhất. Vì vậy, nghiên cứu đề nghị
các đơn vị nên ưu tiên gia tăng sự tín nhiệm và số lượng hội viên tham gia đoàn thể xã hội.

Thứ ba, tác động của chỉ số vốn xã hội tổng hợp và không tổng hợp là khác nhau giữa
các nhóm có thu nhập khác nhau. Điều này ngụ ý rằng các chính sách làm gia tăng vốn xã hội
sẽ mang lại lợi ích nhiều hơn cho nhóm thu nhập thấp hơn hay việc thiết kế chính sách sẽ là
khác nhau cho các nhóm có thu nhập không giống nhau.

Thứ tư, nghiên cứu chỉ kiểm tra vai trò của vốn xã hội tới hiệu quả sản xuất ở mức độ

hộ gia đình và không chú trọng đến vốn xã hội chung cho cả làng. Mục đích của bài nghiên
cứu là đưa ra phương pháp, mô tả cách sử dụng có bao gồm vốn xã hội là một nhân tố sản xuất
trong việc phân tích hiệu quả sản xuất và tính toán giá bóng. Kết quả của bài nghiên cứu là dựa
vào một trường hợp đơn lẻ không thể tổng quát hóa thành nhiều trường hợp khác nhau vì điều
đó đòi hỏi nhiều nghiên cứu hơn.

Cuối cùng nghiên cứu muốn cảnh giác về đơn vị đo lường vốn xã hội vì chúng ta chưa
có đơn vị đo lường tiêu chuẩn nên bài nghiên cứu đo lường bằng phần trăm ngụ ý một phần
trăm như là một đơn vị vốn xã hội. Nhưng điều đó không có nghĩa là kết quả của nghiên cứu bị
lãng quên chỉ vì đơn vị đo chưa được chuẩn hóa.

Page 6 of 6



×