Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

So sánh pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ở việt nam và hoa kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 104 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

THU THY

SO SáNH PHáP LUậT CHốNG CạNH TRANH KHÔNG LàNH MạNH
TRONG LĩNH VựC Sở HữU TRí TUệ ở VIệT NAM Và HOA Kỳ

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

THU THY

SO SáNH PHáP LUậT CHốNG CạNH TRANH KHÔNG LàNH MạNH
TRONG LĩNH VựC Sở HữU TRí TUệ ở VIệT NAM Và HOA Kỳ

Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN TH QU ANH

H NI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Đỗ Thu Thủy


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT CHỐNG
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH
VỰC SỞ HỮU TRÍ TUỆ ................................................................... 7
1.1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH ...................................................................................... 7

1.1.1. Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh ............................................... 7

1.1.2. Đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh ....................................... 12
1.2.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU TRÍ TUỆ ................ 16

1.2.1. Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ .... 16
1.2.2. Đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
trí tuệ ................................................................................................... 19
1.3.

PHÂN BIỆT GIỮA CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ XÂM PHẠM
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ .............................................................. 20

1.3.1. Sự khác nhau về phạm vi điều chỉnh .................................................. 22
1.3.2. Sự khác nhau về phạm vi áp dụng ...................................................... 23
1.3.3. Sự khác nhau về đối tƣợng xâm phạm ............................................... 23
1.3.4. Sự khác nhau về phƣơng thức xử lý ................................................... 24
1.4.

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT CHỐNG
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC S Ở
HỮU TRÍ TUỆ CỦA VIỆT NAM VÀ HOA KỲ ................................. 24


1.4.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ tại Việt Nam ........................ 24
1.4.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ tại Hoa Kỳ ........................... 29

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 .................................................................................. 34
Chƣơng 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VÀ PHÁP LUẬT HOA KỲ VỀ CHỐNG CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ
HỮU TRÍ TUỆ - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ SO SÁNH ......................... 36
2.1.

CÁC DẠNG HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU TRÍ TUỆ ............................. 36

2.1.1. Các dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam ................................................... 36
2.1.2. Các dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ theo pháp luật Hoa Kỳ ...................................................... 45
2.2.

CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU TRÍ TUỆ................. 51

2.2.1. Các biện pháp xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam ................................ 51
2.2.2. Các biện pháp xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ theo pháp luật Hoa Kỳ ................................... 58
2.3.

THẨM QUYỀN XỬ LÝ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU TRÍ TUỆ................. 64

2.3.1. Thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam ................................ 64

2.3.2. Thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ theo pháp luật Hoa Kỳ ................................... 68
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 .................................................................................. 73


Chƣơng 3: THỰC TIẾN VÀ PHƢƠNG HƢỚNG, KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỐNG CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ
HỮU TRÍ TUỆ TRÊN CƠ SỞ VẬN DỤNG MỘT SỐ KINH
NGHIỆM CỦA HOA KỲ ..........................................................................75
3.1.

THỰC TIỄN CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG
LĨNH VỰC SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI VIỆT NAM ............................. 75

3.2.

PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CHỐNG
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC
SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI VIỆT NAM ................................................. 82

3.3.

KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CHỐNG
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC
SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ LOẠI
HÀNH VI NÀY TẠI VIỆT NAM TRÊN CƠ SỞ VẬN DỤNG
KINH NGHIỆM CỦA HOA KỲ........................................................ 85

3.3.1. Giải pháp hoàn thiện về pháp luật ...................................................... 85

3.3.2. Giải pháp hoàn thiện về tổ chức ......................................................... 88
3.3.3. Giải pháp nâng cao ý thức của doanh nghiệp ..................................... 90
3.3.4. Giải pháp nâng cao hiểu biết của ngƣời tiêu dùng ............................. 91
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .................................................................................. 92
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, sở hữu trí tuệ là một công cụ đắc
lực đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Thực tiễn cho
thấy, nhiều công ty, doanh nghiệp trên thế giới đã rất thành công và trở nên
nổi tiếng nhờ khai thác có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ. Đối với các doanh
nghiệp nƣớc ta, quyền sở hữu trí tuệ cũng đóng vai trò ngày càng quan
trọng, đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đây là
loại tài sản “vô hình”, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng giá trị tài
sản của doanh nghiệp. Tài sản “vô hình” này giúp các doanh nghiệp tăng
cƣờng sức mạnh, nâng cao vị thế, uy tín và khả năng cạnh tranh để nâng
cao doanh thu và lợi nhuận.
Bắt nguồn từ vai trò to lớn của loại tài sản “vô hình” này, có nhiều doanh
nghiệp làm ăn không chính đáng luôn tìm cách trục lợi từ quyền sở hữu trí tuệ
của doanh nghiệp khác. Trƣớc đây, các doanh nghiệp này chủ yếu thực hiện
hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, việc kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa
giả mạo về sở hữu trí tuệ đã bị các lực lƣợng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tích
cực phát hiện và xử lý. Vì vậy, các doanh nghiệp này đang có xu hƣớng thực
hiện hành vi vi phạm một cách tinh vi hơn, chuyển sang sử dụng các chỉ dẫn
thƣơng mại gây nhầm lẫn cho ngƣời tiêu dùng, cạnh tranh không lành mạnh về
sở hữu trí tuệ với các doanh nghiệp khác trong cùng lĩnh vực hoạt động.

Đứng trƣớc đòi hỏi của thực tiễn vận hành kinh tế thị trƣờng ở Việt
Nam và thông lệ quốc tế, hành vi cạnh tranh không lành mạnh không chỉ
đƣợc đề cập trong Luật Cạnh tranh năm 2004 mà Luật Sở hữu trí tuệ năm
2005, đƣợc sửa đối, bổ sung năm 2009 cũng đƣa ra quy định về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, các quy định

1


hiện hành về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ vẫn
còn nhiều điểm chƣa rõ ràng, đồng bộ. Từ đó dẫn đến việc xử lý hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ gặp nhiều khó khăn. Tình
hình trên đã dẫn đến thực tế là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ ngày càng diễn ra phổ biến nhƣng số lƣợng vụ việc
đƣợc thụ lý và xử lý bởi các cơ quan có thẩm quyền còn rất hạn chế. Điều này
không chỉ ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích của doanh nghiệp mà còn xâm
phạm quyền lợi của ngƣời tiêu dùng. Nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm xây
dựng pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
trí tuệ của các nƣớc phát triển trên thế giới là một trong những hƣớng đi có ý
nghĩa trong quá trình hoàn thiện quy định pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Đặc biệt, Hoa Kỳ là một
trong các nƣớc đi tiên phong trong lĩnh vực pháp luật sở hữu trí tuệ và cạnh
tranh không lành mạnh với những kinh nghiệm, ƣu điểm đáng học hỏi trong
lĩnh vực này.
Với mong muốn tìm hiểu bản chất, đặc điểm của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, phân tích những nội dung cơ bản
của pháp luật Việt Nam về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ trong tƣơng quan so sánh với pháp luật Hoa Kỳ, từ đó vận dụng kinh
nghiệm của Hoa Kỳ nhằm hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài “So sánh

pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ở
Việt Nam và Hoa Kỳ” cho luận văn thạc sĩ, chuyên ngành luật kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói
chung và hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói riêng, ví dụ nhƣ “Tổng
quan về quyền sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam” của
Thạc sĩ Lê Hoài Dƣơng (năm 2003); “Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về

2


sở hữu trí tuệ ở Việt Nam” của Tiến sĩ Nguyễn Văn Luật (năm 2001); “Xâm
phạm sở hữu trí tuệ: thực trạng, nguyên nhân, giải pháp” của Thạc sĩ Lê Việt
Long (năm 2008); “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” của Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ
Trần Văn Nam; “Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và vấn đề truy tố
đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam” của Thạc sĩ
Trần Đại Thắng (năm 2006); “Cam kết WTO và trách nhiệm hình sự đối với
các hành vi xâm phạm quyền SHTT” của Tiến sĩ Trần Thị Quang Vinh (năm
2007). Và Luận án tiến sĩ “Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh ở
Việt Nam” của Lê Anh Tuấn (năm 2008), Luận văn thạc sĩ “Pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh về chỉ dẫn thương mại ở Việt Nam hiện nay” của
Nguyễn Thị Ngọc Diệp (năm 2010).
Các công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu tập trung vào phân tích,
bình luận luật cạnh tranh nói chung, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
đƣợc quy định trong luật cạnh tranh, hoặc các vấn đề chung của luật sở hữu trí
tuệ. Tuy nhiên, nghiên cứu về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ vẫn chƣa xuất hiện nhiều.
Luận văn sẽ tiếp cận pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ dƣới góc độ phân tích chuyên sâu, so sánh các
quy định pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở

hữu trí tuệ tại Việt Nam và Hoa Kỳ, từ đó tìm ra những điểm chƣa phù hợp
trong quy định pháp luật của Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chống cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm của Hoa Kỳ.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn sẽ làm sáng tỏ một cách có hệ thống về pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, đặc biệt khái niệm, đặc
điểm của cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, sự khác nhau

3


giữa cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, luận văn cũng phân tích, so sánh những nội
dung cơ bản của pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ về chống cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Qua đó, đƣa ra các nhận xét,
đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu gồm:
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh nói
chung và cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói riêng,
sự khác nhau giữa cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;
- Nghiên cứu, phân tích quá trình hình thành và phát triển của pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ tại Việt Nam
và Hoa Kỳ;
- Phân tích, so sánh những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam và
pháp luật Hoa Kỳ về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ;

- Đánh giá những điểm còn hạn chế trong pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ tại Việt Nam;
- Vận dụng kinh nghiệm lập pháp của Hoa Kỳ để đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.
3.3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, cụ thể là: khái niệm, đặc điểm của cạnh tranh
không lành mạnh; khái niệm, đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ; phân biệt giữa cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ với xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; sự hình thành và phát

4


triển pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí
tuệ tại Việt Nam và Hoa Kỳ.
Luận văn cũng nghiên cứu những nội dung cơ bản của pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ của Việt Nam và
Hoa Kỳ, cụ thể là: các dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ; các biện pháp xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ; thẩm quyền xử lý loại hành vi này.
3.4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh có nội dung rất rộng và
liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác, đặc biệt là pháp luật kinh tế.
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tập trung đi sâu tìm hiểu về pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ đƣợc quy định
ở Luật Cạnh tranh và Luật Sở hữu trí tuệ. Đồng thời, tác giả cũng tiến hành
nghiên cứu, so sánh với các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ, từ đó đánh giá về nội dung của pháp luật chống

cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ của Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về pháp luật.
Dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phƣơng pháp hệ thống, phân tích,
tổng hợp, diễn giải, quy nạp, so sánh pháp luật.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Thứ nhất, làm sáng tỏ về mặt lý luận khái niệm, đặc điểm của cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ; phân biệt giữa cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, phân tích, so sánh những nội dung cơ bản của pháp luật về
chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ của Việt Nam
với các quy định tƣơng ứng trong pháp luật Hoa Kỳ.

5


Thứ ba, nêu ra những điểm hạn chế của pháp luật Việt Nam về chống
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Thứ tư, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những phân tích, so sánh, đánh giá và kiến nghị trong luận văn có ý nghĩa
thiết thực về lý luận và thực tiễn nhằm chống cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ, góp phần làm cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Luận văn còn giúp cho các doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng Việt Nam
hiểu rõ hơn về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí
tuệ và các chế tài đối với hành vi này. Đặc biệt, luận văn có ý nghĩa thiết thực

đối với các doanh nghiệp Việt Nam có hoạt động kinh doanh tại Hoa Kỳ khi
giúp các doanh nghiệp tìm hiểu về pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ.
Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên
cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Chương 2. Những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam và pháp
luật Hoa Kỳ về chống cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ - nhìn từ góc độ so sánh.
Chương 3. Thực tiễn và phương hướng, kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về chống cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ trên cơ sở vận dụng một số
kinh nghiệm của Hoa Kỳ.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh trong kinh doanh là một quy luật tất yếu trong nền kinh tế
thị trƣờng. Ngày nay, khi quá trình toàn cầu hóa diễn ra sâu rộng trên tất cả
các lĩnh vực của nền kinh tế thì hoạt động cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa

các doanh nghiệp trong nƣớc mà còn với cả các doanh nghiệp nƣớc ngoài.
Trong quá trình cạnh tranh, doanh nghiệp luôn phải tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu
của khách hàng để đƣa ra các sản phẩm phù hợp với ngƣời tiêu dùng.
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất hàng hóa
và cung ứng dịch vụ, giúp cân bằng cung cầu trên thị trƣờng, tạo động lực
đổi mới và phát triển, cũng nhƣ bảo vệ quyền lợi cho ngƣời tiêu dùng. Tuy
nhiên, để đem lại những lợi ích nhƣ vậy, hoạt động cạnh tranh cần diễn ra
lành mạnh, đặc biệt cần tuân theo những nguyên tắc nhất định với sự can
thiệp của nhà nƣớc.
Mặc dù còn nhiều quan niệm, cách diễn đạt khác nhau về cạnh tranh,
song, điểm chung của các quan niệm về cạnh tranh là: i) có ít nhất từ hai chủ
thể trở lên; ii) các chủ thể này có chung mục đích; iii) các chủ thể đó cùng cố
gắng giành và vƣợt lên các đối thủ cạnh tranh; iv) đƣợc diễn ra trong môi
trƣờng pháp lý bình đẳng cho mọi chủ thể kinh doanh, nếu không có môi
trƣờng pháp lý đó, cạnh tranh có thể đƣa đến những hậu quả tiêu cực về xã
hội. Kết quả của quá trình cạnh tranh là, nếu doanh nghiệp nào đáp ứng đƣợc
yêu cầu trên thị trƣờng sẽ tồn tại và phát triển, nếu doanh nghiệp nào không

7


đáp ứng đƣợc yêu cầu đó sẽ bị loại ra khỏi thị trƣờng, và để không bị loại “ra
khỏi cuộc chơi”, các đối thủ cạnh tranh buộc phải tìm mọi cách, kể cả những
biện pháp không lành mạnh, không phù hợp với đạo đức kinh doanh, đạo đức
của thị trƣờng để dành phần thắng về phía mình [26].
Cạnh tranh không lành mạnh, ngƣợc lại, có thể hiểu đơn giản là một
thứ cạnh tranh quá mức và vì thế gây tác dụng ngƣợc. Nhà nghiên cứu ngƣời
Pháp Dominique Brault đã trích dẫn một so sánh mang tính hình tƣợng về
cạnh tranh không lành mạnh nhƣ sau: “Cạnh tranh là một thứ rượu, dùng
đúng liều nó là chất kích thích, dùng quá liều nó trở thành thuốc độc” [6].

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể hiểu là những hành vi cạnh
tranh của các chủ thể tham gia thị trƣờng vi phạm những chuẩn mực đạo đức
kinh doanh thông thƣờng, có thể gây thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho
các chủ thể kinh doanh khác và ngƣời tiêu dùng. Quan điểm khác lại cho
rằng, cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh đi ngƣợc lại
các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm phạm đến
lợi ích của chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của ngƣời tiêu dùng và lợi ích
chung của xã hội. Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể, đơn
phƣơng, vì mục đích cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh luôn thể hiện tính
không lành mạnh (chứ không chỉ là bất hợp pháp) mà mục đích của nó là gây
cho một hay một số đối thủ cạnh tranh cụ thể sự bất lợi hay gây thiệt hại trong
hoạt động kinh doanh [26].
Một trong những định nghĩa pháp lý phổ biến nhất và lâu đời nhất về
cạnh tranh không lành mạnh nằm tại Điều 10bis Công ƣớc Paris về Bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp. Điều khoản này đƣợc bổ sung vào Công ƣớc năm
1900 và đƣợc sửa đổi lần cuối theo Văn bản Stockholm năm 1967, theo đó:
“Bất cứ hành động nào trái với tập quán trung thực trong công nghiệp và
thương mại đều bị coi là hành động cạnh tranh không lành mạnh”. Có thể

8


nhận thấy Điều 10bis không đƣa ra một khái niệm trực tiếp về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh mà tiếp cận loại hành vi này từ góc độ gián tiếp. Theo
đó Điều 10bis quy định nguyên tắc xác định hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và một danh mục không đầy đủ các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Cụ thể, những hành động sau đây phải bị ngăn cấm:
(i) tất cả những hành động có khả năng gây nhầm lẫn dƣới
bất cứ hình thức nào đối với cơ sở, hàng hoá, hoặc hoạt động sản
xuất hoặc kinh doanh của ngƣời cạnh tranh;

(ii) những khẳng định sai lệch trong hoạt động thƣơng mại
có khả năng gây mất uy tín đối với cơ sở, hàng hoá, hoặc hoạt động
sản xuất hoặc kinh doanh của ngƣời cạnh tranh;
(iii) những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng
trong hoạt động thƣơng mại có thể lừa dối công chúng về bản chất,
quá trình sản xuất, đặc điểm, tính thích hợp để sử dụng hoặc số
lƣợng của hàng hoá.
Nhƣ vậy, theo định nghĩa tại Điều 10bis Công ƣớc Paris, có thể thấy
tiêu chí đánh giá quan trọng nhất về tính lành mạnh/không lành mạnh của
một hành vi cạnh tranh là “tập quán trung thực” không rõ ràng và ổn định, ở
mỗi quốc gia có thể có những khác biệt phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn
hoá, xã hội và lịch sử của quốc gia đó. Trên thực tế, Điều 10bis đã có ý bỏ
ngỏ khái niệm này cho pháp luật quốc gia của các nƣớc thành viên Công ƣớc
tự định đoạt.
Tại Hoa Kỳ, do thiếu định nghĩa trong các văn bản pháp luật, các toà án
đã xác định từ nguồn án lệ định nghĩa cạnh tranh lành mạnh là “các nguyên
tắc giải quyết trung thực và công bằng” hoặc “đạo đức thị trường”. Pháp luật
đã không đƣa ra đƣợc chuẩn mực để nhận diện các hành vi cạnh tranh lành
mạnh, đƣợc chấp nhận trong kinh doanh.

9


Theo pháp luật Hoa Kỳ, có 4 loại hành vi bị coi là hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, bao gồm: hành vi cản trở hoạt động kinh doanh thông
thƣờng (thuộc sự điều chỉnh của các luật của các bang khác nhau); hành vi
xâm phạm nhãn hiệu hoặc bản quyền (thuộc sự điều chỉnh của Đạo luật lu mờ
nhãn hiệu liên bang năm 1996 (Federal Trademark Dilution Act) và Đạo luật
Lanham năm 1946 (Lanham Act); hành vi quảng cáo so sánh gian dối hoặc
gây nhầm lẫn (thuộc sự điều chỉnh của Đạo luật Lanham năm 1946); và hành

vi thƣơng mại gian dối hoặc không lành mạnh (thuộc sự quản lý của Ủy ban
Thƣơng mại liên bang (Federal Trade Commission - FTC), theo Mục 5 của
Đạo luật về Ủy ban Thƣơng mại liên bang năm 1914 (FTC Act) [30].
Năm 1994, Đạo luật về Ủy ban Thƣơng mại liên bang sửa đổi định nghĩa
hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi “gây ra hoặc có thể gây ra những
thiệt hại đáng kể mà người tiêu dùng không thể tránh được một cách hợp lý và
thiệt hại gây ra này không bù lại được những lợi ích tương ứng do hành vi đó tạo
ra cho người tiêu dùng hoặc đối thủ cạnh tranh” [15, 15 U.S.C. Sec. 45(n)].
Tại Việt Nam, Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng đƣợc xây dựng dựa
trên cơ sở khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Công ƣớc
Paris, theo đó:
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh
của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn
mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp khác hoặc ngƣời tiêu dùng [9, Điều 3, khoản 4].
Nếu nhƣ Công ƣớc Paris dựa trên tiêu chí “trái với tập quán trung thực
trong công nghiệp và thương mại” thì Luật Cạnh tranh đã “Việt hóa” tiêu chí
này để trở thành hành vi “trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh”. Có thể nói, các tiêu chí trên đây đều có tính chất định tính và tƣơng đối.

10


Tiếp theo đó, Điều 39 Luật Cạnh tranh quy định rõ một số loại hành vi
đƣợc coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣ chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm
phạm bí mật kinh doanh, ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp
khác, gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác, quảng cáo và khuyến mại nhằm
cạnh tranh không lành mạnh, phân biệt đối xử của hiệp hội, bán hàng đa cấp bất
chính và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác do Chính phủ quy định

thỏa mãn các tiêu chí quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh.
Nhìn chung, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi đi
ngƣợc lại các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm
phạm lợi ích của những chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của ngƣời tiêu dùng
và lợi ích chung của xã hôi. Bản chất của cạnh tranh không lành mạnh là hành
vi bất chính nhằm vào những đối thủ cạnh tranh cụ thể nào đó, gây cản trở
hoạt động, gây thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến họ.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song pháp luật Việt Nam và pháp luật
quốc tế đều không thể đƣa ra khái niệm cạnh tranh không lành mạnh có thể
bao quát đƣợc mọi biểu hiện trên thực tế. Có thể nói, sự đua tranh gay gắt
của thị trƣờng và bản tính hám lợi của con ngƣời đã thúc đẩy các chủ thể
kinh doanh luôn sớm tìm ra những thủ đoạn mới để cạnh tranh bất chính.
Mà pháp luật, với tính ổn định tƣơng đối của nó, sẽ mau chóng trở nên lỗi
thời so với những diễn biến sinh động của thị trƣờng. Vì vậy, khái niệm về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, với cách tiếp cận từ mặt trái vấn đề,
nghĩa là quy định và cấm đoán các hành vi cạnh tranh trái với pháp luật và
truyền thống kinh doanh lành mạnh, đã xác định giới hạn của sự tự do
trong kinh doanh, xác định ranh giới mà các doanh nghiệp đƣợc quyền
sáng tạo trên tinh thần vì lợi ích của bản thân, tôn trọng quyền và lợi ích
của doanh nghiệp khác, của ngƣời tiêu dùng và bảo đảm trật tự kinh tế.
Theo đó, với mục đích đảm bảo tính lành mạnh và tự do của hoạt động

11


cạnh tranh, đối tƣợng mà pháp luật cạnh tranh hƣớng đến để điều chỉnh
chính là biểu hiện không lành mạnh của doanh nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh có đặc điểm là chỉ đƣa
ra một danh mục không đầy đủ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nói

cách khác là không giới hạn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Điều
này xuất phát từ nguyên nhân số lƣợng các quan hệ kinh tế rất nhiều và luôn
luôn vận động, phát triển. Số quan hệ kinh tế ngày càng nhiều cũng kéo theo
số lƣợng hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng đa dạng. Thêm vào
đó, nội dung của hoạt động cạnh tranh là ứng dụng các thủ pháp kinh doanh
và vì thế nó luôn đƣợc biến đổi theo năng lực sáng tạo vô tận của con ngƣời.
Bởi vậy, nếu chỉ giới hạn cứng một số hành vi nhất định sẽ không đầy đủ và
không theo kịp với sự phát triển của thực tiễn. Vì vậy, pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh đã tìm cách tiếp cận từ mặt trái của hành vi để từ đó
xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các hành vi trái với chuẩn
mực, đạo đức kinh doanh.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có những đặc điểm cơ bản
nhƣ sau:
- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trước hết là hành vi cạnh tranh
Đây là đặc điểm thể hiện phạm vi áp dụng của pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh. Trên thị trƣờng cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh
của một doanh nghiệp cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tƣơng quan với
các doanh nghiệp khác, do đó mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị
xem xét về tính chính đáng, phù hợp với thông lệ hay đạo đức kinh doanh và
pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh có thể can thiệp vào nhiều hoạt
động khác nhau của đời sống kinh tế. Đặc điểm này khiến cho pháp luật về

12


cạnh tranh không lành mạnh tại một số quốc gia có thể có phạm vi áp dụng rất
rộng và điều chỉnh những hành vi đa dạng.
- Hành vi cạnh tranh do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện
Đây là đặc điểm thể hiện đối tƣợng áp dụng của pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh. Chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành

mạnh bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hợp tác xã, hộ
kinh doanh cá thể, các hiệp hội ngành nghề, cá nhân có đăng ký kinh doanh.
Nói cách khác, khái niệm doanh nghiệp đƣợc hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm
mọi tổ chức hay cá nhân tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận một cách
thƣờng xuyên và chuyên nghiệp, hay sử dụng khái niệm của pháp luật thƣơng
mại là có tƣ cách thƣơng nhân trên thị trƣờng.
- Hành vi cạnh tranh trái với với các chuẩn mực thông thường về đạo
đức kinh doanh:
Đây là đặc điểm thể hiện bản chất không lành mạnh của hành vi cạnh
tranh. Đặc điểm này có thể đƣợc hiểu là hành vi cạnh tranh không lành mạnh
là hành vi cạnh tranh mang tính chất đối lập, đi ngƣợc lại các thông lệ tốt, các
nguyên tắc đạo đức kinh doanh, những quy tắc xử sự chung đã đƣợc thừa
nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh trên thị trƣờng.
Đặc điểm này phần nào thể hiện nguồn gốc tập quán pháp của pháp
luật về cạnh tranh không lành mạnh, các quy định về cạnh tranh không lành
mạnh đƣợc hình thành và hoàn thiện qua bề dày thực tiễn phát triển kinh tế
xã hội, không thể một sớm một chiều mà có đƣợc. Mặt khác, đặc điểm này
cũng đòi hỏi pháp luật cạnh tranh phải luôn đƣợc chỉnh lý, bổ sung cho phù
hợp với thực tiễn. Nhận thức về các dấu hiệu, biểu hiện không lành mạnh cụ
thể luôn thay đổi và có sự khác biệt theo từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể
vì quan niệm về tính không lành mạnh là kết quả của những ý thức xã hội

13


liên quan đến xã hội học, kinh tế học, đạo đức học của một xã hội nhất định
nên có thể dẫn đến hiện tƣợng là hành vi cạnh tranh bị coi là cạnh tranh
không lành mạnh ở nƣớc này, nhƣng đƣợc coi là lành mạnh ở nƣớc khác.
Ngoài ra, những hành vi cạnh tranh luôn đƣợc sáng tạo không ngừng về hình
thức thể hiện và phƣơng thức cạnh tranh, làm xuất hiện những thủ đoạn cạnh

tranh không lành mạnh mới và phát triển không ngừng. Vì vậy, phạm vi của
khái niệm cạnh tranh không lành mạnh cũng phải luôn đƣợc bổ sung bởi sự
nhận thức của con ngƣời.
- Hành vi gây thiệt hại, có thể gây thiệt hại đến lợi ích của doanh
nghiệp, người tiêu dùng và xã hội:
Đây là đặc điểm biểu hiện hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Đặc điểm này mang nhiều ý nghĩa về tố tụng. Câu hỏi đặt ra là liệu việc
chứng minh thiệt hại thực tế có đƣợc coi là bắt buộc để bắt đầu tiến trình xử lý
hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không? Tuỳ thuộc vào quy định của
từng quốc gia cũng nhƣ quan điểm của cơ quan xử lý, có các cách thức nhìn
nhận khác nhau về hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi
cạnh tranh không lành mạnh có thể trực tiếp đã gây ra hậu quả thiệt hại (vật
chất và tinh thần) cho các đối tƣợng đƣợc pháp luật bảo vệ. Hậu quả của hành
vi cạnh tranh không lành mạnh cũng có thể đƣợc xác định đƣợc thông qua một
số căn cứ có thể gây ra thiệt hại cho các chủ thể trên, có nghĩa là một thiệt hại
sẽ xảy ra trong tƣơng lai do hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Về đối tƣợng chịu thiệt hại, dễ thấy hành vi cạnh tranh không lành
mạnh có thể tác động đến nhiều đối tƣợng khác nhau tham gia thị trƣờng khác
nhau, trong đó hai nhóm cơ bản là các đối thủ cạnh tranh và ngƣời tiêu dùng.
Luật Cạnh tranh Việt Nam có đƣa thêm một đối tƣợng có thể bị xâm hại là
Nhà nƣớc, tuy nhiên đối tƣợng này không mang tính tiêu biểu, không phổ

14


biến trong quy định về cạnh tranh không lành mạnh của nhiều quốc gia, do
chỉ có thể đặt vấn đề bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc trƣớc hành vi cạnh tranh
không lành mạnh tại những nền kinh tế mà ở đó Nhà nƣớc tham gia sâu vào
hoạt động kinh doanh, và cạnh tranh trực tiếp với các thành phần kinh tế khác
trên thị trƣờng. Trong đa số trƣờng hợp khác, lợi ích của Nhà nƣớc đã đƣợc

thể hiện thông qua lợi ích của các nhóm chủ thể tham gia thị trƣờng là doanh
nghiệp và ngƣời tiêu dùng.
Dƣới góc độ lịch sử phát triển, những đặc điểm về hậu quả của hành vi
cạnh tranh không lành mạnh thay đổi theo thời gian phụ thuộc vào nhận thức
của con ngƣời về tính nguy hại và mức độ xâm hại của hành vi đó đối với lợi
ích mà pháp luật cần bảo vệ. Trƣớc đây, một số quốc gia có cách tiếp cận
cứng khi xác định một hành vi là cạnh tranh không lành mạnh ngay khi nó
gây thiệt hại cho các doanh nghiệp cạnh tranh trong ngành mà không cần xem
xét ảnh hƣởng đến các đối tƣợng khác, đặc biệt là ngƣời tiêu dùng. Hiện nay,
cách nhìn nhận về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trở nên cân bằng hơn,
cơ quan xử lý thƣờng phải đánh giá cả thiệt hại của ngƣời tiêu dùng và các
đối tƣợng khác để kết luận về vi phạm. Cần thấy rằng trong một phạm vi thị
trƣờng hữu hạn, doanh nghiệp thực hiện một hành vi cạnh tranh bất kỳ cũng
đều có khả năng gây thiệt hại cho các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp đó,
do vậy, nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại của các đối thủ cạnh tranh để xác định
một hành vi là không lành mạnh thì sẽ không đầy đủ. Trên thực tế, các hành
vi cạnh tranh gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh khác nhƣng đem lại lợi ích
thực tế cho ngƣời tiêu dùng sẽ không bị coi là cạnh tranh không lành mạnh.
Ví dụ điển hình là trƣờng hợp quảng cáo so sánh, trƣớc đây bị coi là một
trong những hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình, tuy nhiên từ sự
cân nhắc lợi ích nó đem lại cho ngƣời tiêu dùng (tiết kiệm thời gian tìm kiếm,

15


lựa chọn sản phẩm), mà hành vi này đến nay đã đƣợc chấp nhận tại nhiều
quốc gia với những điều kiện ràng buộc về tính chính xác, đầy đủ của thông
tin để tránh bị các doanh nghiệp lợi dụng công kích đối thủ cạnh tranh.
Tóm lại việc xác định hậu quả thiệt hại của hành vi cạnh tranh không
lành mạnh là không giống nhau giữa các thời điểm lịch sử khác nhau và giữa

các quốc gia khác nhau, tùy theo chính sách của mỗi nhà nƣớc trong việc
quản lý về kinh tế nói chung và trong hoạt động quản lý môi trƣờng cạnh
tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh doanh thƣơng mại.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.2.1. Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp hầu nhƣ hƣớng đến
mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận của chính mình. Để đạt đƣợc mục tiêu, họ có
thể sử dụng nhiều thủ thuật kinh doanh, thậm chí là bất hợp pháp. Giữa một
nền kinh tế thị trƣờng phong phú và đa dạng, sự lựa chọn của ngƣời tiêu dùng
bắt đầu bằng sự so sánh giữa hàng hóa của doanh nghiệp này với hàng hóa
cùng loại của doanh nghiệp khác. Hàng hóa nào rẻ nhất, tốt nhất thì sẽ đƣợc
ƣu tiên lựa chọn. Từ đó mà có cạnh tranh. Thông qua cạnh tranh, ngƣời tiêu
dùng và cả xã hội đƣợc hƣởng lợi, vì ai cũng cố gắng để sản xuất ra những
sản phẩm với giá cả rẻ nhất, chất lƣợng tốt nhất để có đƣợc lựa chọn của
ngƣời tiêu dùng. Mà một trong những nhân tố tốt nhất để tạo nên ƣu thế đó
cho doanh nghiệp chính là quyền sở hữu trí tuệ. Đây là loại tài sản chiếm tỷ
trọng ngày càng lớn trong khối tài sản của doanh nghiệp, nâng cao giá trị và
sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Điều này dẫn đến một hệ quả là có những
doanh nghiệp không muốn tự vƣơn lên bằng chính khả năng của mình mà lại
tìm cách đánh cắp thành quả lao động của ngƣời khác. Do đó, hành vi cạnh

16


tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ trở thành bức xúc của
những doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Để tìm hiểu khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ, ngoài việc nắm đƣợc khái niệm cạnh tranh không lành mạnh nhƣ

tác giả đã nêu ở trên, một khái niệm nữa cần đƣợc làm rõ là khái niệm về sở
hữu trí tuệ.
Mặc dù không có định nghĩa chính thống và trực tiếp thế nào là sở hữu
trí tuệ, ta có thể định nghĩa quyền sở hữu trí tuệ là tập hợp các quyền đối với
tài sản vô hình là thành quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của các
chủ thể, được pháp luật quy định bảo hộ [8, tr. 16-17].
Pháp luật Hoa Kỳ, pháp luật Việt Nam cũng nhƣ các nƣớc khác trên thế
giới không có định nghĩa trực tiếp nhƣ thế nào là sở hữu trí tuệ, mà chỉ có
định nghĩa gián tiếp thông qua phân loại sở hữu trí tuệ thành quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Quyền tác giả bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả và
chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật.
Quyền tác giả còn đƣợc gọi là tác quyền hay bản quyền.
Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền đối với sáng chế, giải pháp
hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý (bao gồm cả tên gọi
xuất xứ hàng hóa), tên thƣơng mại, bí mật kinh doanh và các quyền sở hữu
công nghiệp khác do pháp luật quy định. Quyền sở hữu công nghiệp bảo hộ
quyền sử dụng độc quyền vì mục đích kinh tế và quyền định đoạt của các chủ
sở hữu các đối tƣợng sở hữu công nghiệp.
Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại
thực vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống,
có thể nhận biết đƣợc bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc sự
phối hợp của các kiểu gen quy định và phân biệt đƣợc với bất kỳ quần thể cây

17


trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di
truyền đƣợc. Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối
với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc

đƣợc hƣởng quyền sở hữu.
Hiện nay vẫn chƣa có khái niệm cụ thể về cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ đƣợc tiếp cận từ góc độ gián tiếp, theo đó pháp luật liệt
kê các hành vi bị cấm.
Tại Hoa Kỳ, cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
đƣợc đề cập đến tại Điều 43(a) Đạo luật Nhãn hiệu liên bang, hay còn gọi là
Đạo luật Lanham (Lanham Act) (1946), mặc dù Đạo luật này có nội dung chủ
yếu là các quy định về việc xác lập, duy trì và bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu
hàng hóa và dịch vụ. Theo đó, bên bị hại có quyền khởi kiện đối với hành vi
cạnh tranh không lành mạnh theo Điều 43(a) Đạo luật Lanham - Lanham Act,
cụ thể nhƣ sau:
Bất kỳ ai liên quan đến việc kinh doanh hàng hóa hoặc dịch
vụ, hoặc bao bì hàng hóa, sử dụng từ ngữ, thuật ngữ, tên, biểu
tƣợng, hoặc hình vẽ, hoặc sự kết hợp của chúng, hay nguồn gốc
xuất xứ giả mạo, mô tả gian dối hoặc gây nhầm lẫn
(A) Có thể gây nhầm lẫn, hiểu sai hoặc lừa dối về sự liên hệ,
liên kết hoặc hợp tác giữa ngƣời này với một ngƣời khác, hoặc về
nguồn gốc, khả năng tài trợ hoặc sự chấp nhận hàng hóa, dịch vụ
hoặc hoạt dộng thƣơng mại của ngƣời này từ ngƣời khác đó, hoặc
(B) Trong quảng cáo hay khuyến mại mà diễn giải sai lệch bản
chất, đặc đỉểm, số lƣợng hoặc nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ
hay hành động thƣơng mại của ngƣời này hay ngƣời khác đó, sẽ phải
chịu trách nhiệm từ khởi kiện dân sự của bất kỳ ai cho rằng lợi ích của
họ bị thiệt hại hoặc có thể bị thiệt hại do hành vi nêu trên.

18


Tại Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm

2009 không có khái niệm cụ thể về cạnh tranh không lành mạnh nhƣng Luật đã
dành 01 điều (Điều 130) quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
sở hữu trí tuệ với một số điểm mới hơn và rõ hơn so với Luật cạnh tranh. Theo
đó, các hành vi sau đây bị coi là cạnh tranh không lành mạnh:
- Sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh,
hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thƣơng mại của hàng hoá, dịch vụ;
- Sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất,
tính năng, chất lƣợng, số lƣợng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về
điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ;
- Sử dụng nhãn hiệu đƣợc bảo hộ tại một nƣớc là thành viên của điều
ƣớc quốc tế có quy định cấm ngƣời đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn
hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là
thành viên, nếu ngƣời sử dụng là ngƣời đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu
nhãn hiệu và việc sử dụng đó không đƣợc sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu
và không có lý do chính đáng;
- Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc
tƣơng tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thƣơng mại đƣợc bảo hộ của ngƣời
khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích
chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của
nhãn hiệu, tên thƣơng mại, chỉ dẫn địa lý tƣơng ứng.
1.2.2. Đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ trƣớc
hết là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy, nó cũng có những đặc
điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣ đã nêu tại mục 1.1.2 và cả
đặc điểm riêng có của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ, cụ thể là:

19



×