Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề dân tộc và GIẢI QUYẾT vấn đề dân tộc TRONG CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.44 KB, 13 trang )

DÂN TỘC VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

3

1.1. Khái niệm dân tộc

3

1.2. Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc

4

2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

5

2.1. Vị trí của việc giải quyết vấn đề dân tộc trong chủ nghĩa xã hội

5

2.2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin

7



2.3. Phương hướng giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam

9

KẾT LUẬN

13


2

LỜI NÓI ĐẦU

Trong tất cả các quan hệ xã hội phong phú và phức tạp giữa người và
người, quan hệ giai cấp và quan hệ dân tộc có tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến
sự định hướng cuộc sống của mỗi con người ở mỗi thời đại. Nghiên cứu vấn
đề dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong
tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt vấn đề dân tộc tạo động
lực to lớn, thúc đẩy sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi
cuối cùng. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiều sự kiện về vấn đề dân
tộc trên thế giới và ở nước ta diễn ra phức tạp, các thế lực thù địch lợi dụng
vấn đề dân tộc, tôn giáo làm mũi nhọn để chống phá các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Vì vậy, nghiên cứu, giải
quyết vấn đề dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay là vấn đề có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn mang tính cấp thiết.
1. DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

1.1. Khái niệm dân tộc


Hiện nay, khái niệm dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa phổ biến
như sau:
Thứ nhất, dân tộc (tộc người) là một cộng đồng người có mối liên hệ
chặt chẽ và bền vững, có chung nguồn gốc, đặc điểm sinh hoạt kinh tế, có
ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, có ý thức tự giác tộc người. Ví
dụ: dân tộc Kinh (Việt), dân tộc Tày, dân tộc Thái ở Việt Nam…
Thứ hai, dân tộc (quốc gia dân tộc) là một cộng đồng người ổn định
được hình thành trong lịch sử; trên cơ sở cộng đồng về lãnh thổ, ngôn ngữ,
kinh tế, văn hoá, có chung ý thức về dân tộc và tên tự gọi của dân tộc mình.
Ví dụ: dân tộc Việt Nam (có 54 tộc người), dân tộc Trung Hoa, dân tộc Lào…
Dân tộc là cộng đồng người bao gồm nhiều thành phần, tộc người sinh
sống trong một quốc gia mang tính ổn định và có sự cấu kết bền vững. Tính
ổn định, bền vững đó được xác định trên các cơ sở: Cùng chung một lãnh thổ,
cùng nhau lao động sản xuất để phát triển. Dân tộc có chung một phương thức
sản xuất sinh hoạt kinh tế, cộng đồng về kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận,
các thành viên của dân tộc lại, tạo nền tảng vững chắc của dân tộc. Dân tộc có


3

ngôn ngữ chung làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên của cộng đồng
trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, tình cảm… Dân tộc có chung một
nền văn hoá, tinh thần, phản ánh sự ổn định, bản sắc văn hoá truyền thống của
mỗi dân tộc.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh rằng, không phải
ngay từ khi loài người xuất hiện là có dân tộc, mà dân tộc là sản phẩm của
quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử loài người, khi điều kiện kinh tế xã hội phát triển đến giai đoạn nhất định thì dân tộc mới hình thành. Trước
khi cộng đồng dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức
cộng đồng từ thấp đến cao như: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Theo V.I.Lênin, ở
các nước phương Tây chỉ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, cộng đồng bộ tộc

mới phát triển thành dân tộc. Bởi vì, chỉ có trên cơ sở phát triển của lực
lượng sản xuất, nền kinh tế sản xuất hàng hoá tiền tệ mới có thể ra đời và
làm xuất hiện thị trường dân tộc. Lúc đó, hàng rào ngăn cách giữa các
vùng, các bộ tộc lần lượt sụp đổ, tình trạng cát cứ địa phương bị phá vỡ và
dân tộc xuất hiện hoặc là trên cơ sở một bộ tộc, hoặc là do sự hợp nhất
nhiều bộ tộc. Loại hình dân tộc đó do giai cấp tư sản thống trị, nên được
gọi là dân tộc tư sản. Ở một số nước phương Đông, cộng đồng dân tộc xuất
hiện trước chủ nghĩa tư bản do có sự thúc đẩy của nhiều yếu tố cố kết tự
nhiên và xã hội trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Loại hình
dân tộc này được gọi là dân tộc tiền tư bản.
Trên con đường phát triển của lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội, loại hình dân tộc tư sản và dân tộc tiền tư bản sẽ trải qua sự cải biến
sâu sắc để trở thành dân tộc xã hội chủ nghĩa trong đó giai cấp công nhân
đóng vai trò lãnh đạo, nhân dân lao động trở thành chủ thể tích cực quyết định
mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh và sự tiến bộ của dân tộc.
Như vậy, dân tộc là một cộng đồng người ổn định hình thành nhân dân
một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý
thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế,
truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch
sử lâu dài.
1.2. Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc


4

Vấn đề dân tộc là vấn đề về mối quan hệ giữa các tộc người trong một
quốc gia và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội.
Giải quyết vấn đề dân tộc thực chất là xác lập mối quan hệ công bằng,
bình đẳng giữa các tộc người trong một quốc gia và giữa các quốc gia dân tộc

về các vấn đề: lãnh thổ, kinh tế, văn hoá, xã hội… Trong một quốc gia dân tộc
có nhiều thành phần dân tộc thì các thành phần dân tộc đều bình đẳng như
nhau, quyền bình đẳng đó phải được thể chế bằng pháp luật. Quan hệ giữa các
quốc gia dân tộc với nhau là quan hệ bình đẳng đôi bên cùng có lợi, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Tuy nhiên, vấn đề dân tộc luôn gắn
liền với vấn đề giai cấp, lợi ích của giai cấp, do đó, cách thức giải quyết vấn đề
dân tộc trong các phong trào dân tộc đều mang tính giai cấp sâu sắc.
Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm nảy sinh hai xu hướng
của phong trào dân tộc trong giải quyết vấn đề dân tộc. Xu hướng thứ nhất, khi
chủ nghĩa tư bản ra đời xoá bỏ chế độ cát cứ phong kiến, hình thành một quốc
gia dân tộc độc lập, thống nhất, có một chính phủ, một hiến pháp, thị trường
thống nhất phục vụ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, kích thích đời sống
dân tộc và các phong trào dân tộc theo hướng tư bản chủ nghĩa. Xu hướng thứ
hai, mở rộng tăng cường quan hệ kinh tế phá bỏ sự ngăn cách giữa các dân tộc
bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, trong đó có cả thủ đoạn vũ trang xâm lược thuộc
địa, đặt ách áp bức của chủ nghĩa thực dân cũ và mới lên các dân tộc thuộc địa
và phụ thuộc, chống lại các phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc, điều đó tất
yếu dẫn đến mâu thuẫn đối kháng giữa chủ nghĩa thực dân, đế quốc với các dân
tộc thuộc địa, phụ thuộc ngày càng gay gắt.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tình trạng bóc lột giai cấp dần dần được
thủ tiêu, tình trạng áp bức dân tộc cũng dần mất theo. Giai cấp công nhân, nông
dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp lao động khác thuộc các dân tộc trong một
quốc gia cùng làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội. Mối quan hệ giữa các dân tộc
trong chế độ xã hội chủ nghĩa là các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở tự
nguyện và bình đẳng tạo điều kiện giúp đỡ nhau phát triển.
Như vậy, vấn đề dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt với tất cả các quốc
gia trên thế giới, là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp. Giải quyết đúng hay


5


sai vấn đề dân tộc sẽ quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng,
tan rã của một quốc gia dân tộc. Chỉ có đứng vững trên lập trường giai cấp
công nhân mới có thể giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc.
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

2.1. Vị trí của việc giải quyết vấn đề dân tộc trong chủ nghĩa xã hội

Giải quyết vấn đề dân tộc là chiến lược lâu dài của cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Bởi vì: Đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang là đặc điểm
nổi bật của thời đại hiện nay. Giai cấp và dân tộc là hai phạm trù chính trị - xã
hội khác nhau nhưng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, không có một
dân tộc nào không gắn liền với giai cấp và mỗi giai cấp đều quan tâm đến vấn
đề dân tộc, lợi ích của giai cấp luôn gắn với lợi ích dân tộc.
Thực tiễn lịch sử cho thấy áp bức giai cấp là nguồn gốc của mọi áp bức
dân tộc, cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc, chống áp bức dân tộc
không tách rời cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ
rõ: “Hãy xoá bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc
khác cũng sẽ được xoá bỏ. Khi mà đối kháng giai cấp trong nội bộ dân tộc
không còn nữa thì đồng thời quan hệ thù địch giữa các dân tộc cũng mất
theo”1. Ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, giai cấp tư sản lợi dụng vấn đề
dân tộc để thực hiện quyền thống trị của mình. Ở các nước xã hội chủ nghĩa,
giai cấp công nhân là đại biểu cho lợi ích cơ bản của toàn dân tộc, và chỉ có
giai cấp công nhân là giai cấp giải quyết vấn đề dân tộc triệt để nhất. Bên
cạnh đó, giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là xoá bỏ chủ nghĩa tư bản,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi
toàn thế giới, nhằm mục tiêu hướng tới giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người. Mục đích của giai cấp vô sản không chỉ giải phóng
mình mà còn giải phóng dân tộc, nhân loại, cho nên giải quyết vấn đề dân
tộc vừa là mục tiêu trước mắt, vừa là vấn đề lâu dài, gắn với cuộc đấu

tranh của giai cấp công nhân trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử
của mình, muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công
nhân phải giải quyết tốt vấn đề dân tộc. Trong “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” Mác khẳng định: "Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải
1

C. Mác - Ph.Ăngghen: Tuyển tập, t.1, Nxb Sự thật, H.1980, tr.556.


6

giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự
mình trở thành dân tộc” 1. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và giai cấp công nhân toàn thế giới” 3.
Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, là sự nghiệp của toàn thể
nhân dân lao động do giai cấp công nhân lãnh đạo, nó diễn ra hết sức gay
go quyết liệt, phức tạp lâu dài, mang tính nhân dân, tính dân tộc và tính
quốc tế sâu sắc. Giải quyết tốt vấn đề dân tộc thì sẽ xây dựng được khối đại
đoàn kết toàn dân, kết hợp được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại,
tạo ra động lực to lớn bảo đảm cho cách mạng giành được thắng lợi. Ngược
lại, nếu vấn đề dân tộc không được giải quyết tốt thì sẽ tạo ra những mâu
thuẫn, thậm chí dẫn đến xung đột trong nội bộ dân tộc, gây ảnh hưởng lớn
trong quá trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực tế hiện nay,
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang lợi dụng vấn đề dân tộc làm
mũi nhọn để chống phá sự nghiệp cách mạng của các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm, vì vậy quá trình giải
quyết vấn đề dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân,
gắn lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp mới có đường lối chiến lược, sách
lược đúng đắn, phù hợp.

Vấn đề dân tộc là vấn đề phức tạp và nhạy cảm nên giải quyết vấn đề
dân tộc phải tiến hành trong suốt tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực
chất giải quyết vấn đề dân tộc là giải quyết vấn đề lợi ích, thực hiện công bằng
bình đẳng trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội; giải quyết những chênh lệch
về sự phát triển giữa các vùng miền cả kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; Từng
bước khắc phục những tàn dư lạc hậu, thói quen lối sống cũ ăn sâu, bám rễ
trong đời sống nhân dân ở từng thành phần dân tộc. Thực tế sau khi giành được
độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong xã hội xã hội chủ
nghĩa vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp: sự phân hoá giàu nghèo, chênh
lệch vùng miền, những tàn dư của phong tục tập quán lạc hậu…, chưa thể khắc
phục được ngay, do đó đòi hỏi phải có một quá trình cải tạo và xây dựng mang
tính chất lâu dài. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII xác định: “Đoàn kết, bình
1
3

C. Mác - Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự thật, H.1980, t.4, tr.623.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 9.


7

đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh
phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính
sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta…”1.
2.2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin

Giải quyết vấn đề dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng xã hội
chủ nghĩa, cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin nêu rõ: các dân tộc
hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc có quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả
các dân tộc lại.

Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng là quyền thiêng liêng của các dân tộc
trong mối quan hệ giữa các dân tộc và các quốc gia dân tộc với nhau, là nội
dung, nguyên tắc cơ bản trong giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng Cộng sản.
Bởi đây là quyền khách quan vốn có mà tạo hoá ban cho các dân tộc. Hiến
pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 có ghi: đã là một dân tộc sinh ra
ai cũng có quyền tự quyết, đây là quyền tạo hoá ban cho họ. Quyền bình đẳng
của các dân tộc là quyền bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, bình đẳng trong
giải quyết các mối quan hệ về: lãnh thổ, kinh tế, văn hoá, ngoại giao…, giải
quyết các vấn đề này các dân tộc dù lớn hay nhỏ, trình độ phát triển cao hay
thấp, dù có chế độ chính trị khác nhau đều có quyền bình đẳng ngang nhau.
Mặt khác, trong một quốc gia có nhiều thành phần dân tộc, quyền bình đẳng
phải được pháp luật bảo vệ, được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Trong đó, việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn
hoá do lịch sử để lại có ý nghĩa rất quan trọng. Thực hiện quyền bình đẳng
của các dân tộc cần phê phán tư tưởng nước lớn áp đặt nước bé, tư tưởng kỳ
thị dân tộc, dân tộc lớn có tư tưởng áp đặt các dân tộc thiểu số đi theo mình,
bắt họ từ bỏ lễ nghi phong tục tập quán.
Như vậy, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là phải thủ tiêu
tình trạng giai cấp này áp bức giai cấp khác để trên cơ sở đó xoá bỏ tình
trạng dân tộc này đặt ách nô dịch lên dân tộc khác. Đồng thời, từng bước
khắc phục tình trạng chênh lệch trong sự phát triển của các dân tộc, tạo
điều kiện thuận lợi để các dân tộc còn ở trình độ lạc hậu, bằng sự nỗ lực

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb ST, H.1991, tr.77.


8


của chính mình cùng với sự giúp đỡ của các dân tộc anh em phát triển
nhanh cùng với sự tiến bộ xã hội.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận
mệnh của dân tộc mình mà không một dân tộc nào có quyền can thiệp. Quyền
dân tộc tự quyết bao gồm: Quyền tự do lựa chọn chế độ kinh tế, lựa chọn chế
độ chính trị, tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập hoặc
quyền tự nguyện liên hiệp các dân tộc thành một quốc gia dân tộc trên cơ sở
bình đẳng, phù hợp với xu hướng phát triển của lịch sử và tiến bộ xã hội. Ở
nước ta, nội dung cao nhất của quyền tự quyết là các dân tộc đoàn kết đấu
tranh và giữ vững nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, xây dựng xã hội mới
xã hội chủ nghĩa, để các dân tộc đều được phát triển tự do, đầy đủ và được
hạnh phúc, ấm no.
Thực tế hiện nay kẻ thù đang lợi dụng vấn đề về quyền tự quyết dân tộc
để kích động đòi ly khai, nhằm gây mất ổn định chính trị, chống phá sự nghiệp
cách mạng của các dân tộc trên thế giới. Bằng chứng là chúng kích động xung
đột dân tộc, sắc tộc ở Côxôvô, Ápganixtan, khu vực Trung Đông… ở nước ta
chúng kêu gọi thành lập Nhà nước Đề Ga tự trị, vương quốc người Mông… Vì
vậy, khi xem xét quyền tự quyết của các dân tộc, phải đứng vững trên lập trường
của giai cấp công nhân, phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân
lao động, phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội, đồng thời phải kết hợp
thống nhất giữa lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản, là hạt nhân cốt
lõi của cương lĩnh dân tộc, phản ánh bản chất quốc tế của giai cấp công nhân,
thể hiện sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp, đồng thời là cơ sở, điều kiện để thực hiện quyền bình đẳng và quyền tự
quyết của các dân tộc. Thực hiện quyền bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc
là thành quả quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
chống mọi thế lực xâm lược, áp bức, đồng hoá dân tộc. Đồng thời, việc thực
hiện quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc cũng tuỳ thuộc vào sự đoàn kết,
thống nhất giai cấp công nhân các dân tộc trong từng quốc gia cũng như trên

toàn thế giới. Chỉ có đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân mới
thực hiện được quyền bình đẳng và tự quyết đúng đắn, khắc phục được thái


9

độ kỳ thị, lòng thù hận dân tộc, cũng từ đó mới đoàn kết được nhân dân lao
động các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội. Chính vì thế, nội dung đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc
được nêu trong Cương lĩnh không chỉ là lời kêu gọi mà còn là giải pháp hữu
hiệu bảo đảm việc thực hiện quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc. Nội dung
đó đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của Cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần yêu
nước mà thời đại ngày nay đã trở thành sức mạnh cực kỳ to lớn. Nội dung đó
phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang lên tiếng kêu gọi các dân tộc,
quốc gia xích lại gần nhau.
2.3. Phương hướng giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam

- Tình hình dân tộc ở Việt Nam.
Nước ta gồm 54 dân tộc. Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm
87% dân số, 53 dân tộc còn lại chiếm 13% dân số. 10 dân tộc có số dân từ
dưới 1 triệu đến 100 ngàn là: Tày, Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao,
Giarai, Bana, Êđê; 20 dân tộc có số dân dưới 100 ngàn, 16 dân tộc có số dân
từ dưới 10 ngàn đến 1000, 6 dân tộc có số dân dưới 1000 như: Cống, Si La,
Péo, Rơ Măm, Ơ Đu, Brâu.
Đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú trên địa bàn rộng lớn
chiếm ¾ diện tích đất nước, chủ yếu là miền núi, trên toàn tuyến biên giới,
một số ở đồng bằng và hải đảo. Ở nhiều tỉnh như Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà
Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu…, các dân tộc
thiểu số chiếm hơn 70% dân số, trong đó Cao Bằng khoảng 92%. Tình trạng

cư trú xen kẽ ngày càng tăng là một trong những nét nổi bật của tình hình dân
tộc ở nước ta trước kia cũng như hiện nay. Tình trạng đó ngày càng tăng. Do
đó, sự thống nhất hữu cơ giữa các dân tộc và quốc gia trên mọi mặt của đời
sống xã hội ngày càng được củng cố và phát triển.
Tuy gồm 54 dân tộc, nhưng yếu tố liên kết tạo nên tính cộng đồng
chung quốc gia đạt tới mức độ bền vững, tính cộng đồng đó được hình thành,
củng cố trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, hình thành nên
truyền thống anh hùng cách mạng, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.


10

Từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tính cộng đồng
dân tộc được củng cố phát triển lên một tầm cao mới: dân cư các dân tộc ý
thức rằng, sự nghiệp giành và giữ vững nền độc lập thống nhất Tổ quốc, công
cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới là sự nghiệp chung, quyền lợi
thiêng liêng của tất cả các dân tộc, vì vậy tinh thần đoàn kết toàn dân, đoàn
kết dân tộc ngày càng được củng cố phát triển.
- Thực trạng giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam.
“Quyền bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc ngày càng được củng cố;
nền kinh tế nhiều thành phần từng bước được hình thành và phát triển; các lĩnh
vực xã hội như giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa đạt được những kết quả quan
trọng; hệ thống chính trị ở các vùng dân tộc miền núi bước đầu được tăng
cường; an ninh quốc phòng được giữ vững. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số
hạn chế như: Kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc còn chậm phát triển, lúng túng
trong chuyển dịch cơ cấu, tập quán canh tác lạc hậu; chất lượng sản phẩm
thấp, tiêu thụ khó; tình trạng du canh, du cư, di dân tự do diễn biến phức tạp,
tình trạng thiếu đất canh tác khá trầm trọng; kết cấu hạ tầng thấp kém. Về xã
hội, giáo dục và văn hoá, tỷ lệ đói nghèo còn cao, 70% số hộ đói nghèo
thuộc khu vực miền núi; chênh lệch về mức sống giữa các vùng, các dân tộc

ngày càng gia tăng, Gia Lai gấp 4,29 lần, Kon Tum 1,95 lần, Hà Giang 2,1
lần; chất lượng hiệu quả giáo dục đào tạo còn thấp; chăm sóc sức khoẻ cho
đồng bào gặp nhiều khó khăn; một số tập tục lạc hậu đang có xu hướng phát
triển, bản sắc văn hoá đang bị mai một. Về chính trị: hệ thống chính trị cơ sở
vùng đồng bào dân tộc còn yếu; trình độ cán bộ thấp, 10 dân tộc chưa có cán
bộ trình độ đại học, 5 dân tộc chưa có cán bộ trung học, 40 dân tộc chưa có
cán bộ sau đại học; hoạt động của cấp uỷ, chính quyền và đoàn thể ở nhiều
nơi hiệu quả chưa cao; một số nơi tôn giáo phát triển không bình thường” 1.
- Phương hướng giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc, Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX của Đảng xác định 5 quan điểm
chính sách giải quyết vấn đề dân tộc.

1

Văn kiện Hội Nghị BCHTW lần thứ bảy khoá IX, Nxb CTQG, H. 2003.


11

Một là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược
cơ bản, lâu dài, đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng
Việt Nam.
Hai là, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu thủ
đoạn chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.
Ba là, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội và an ninh
– quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế

với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm
phát triển, bồi dưỡng nguồn lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số, giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống các
dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam thống nhất.
Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế – xã hội các vùng dân tộc miền
núi, khai thác có hiệu quả tiềm năng thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo
vệ bền vững môi trường, sinh thái, phát huy nội lực tinh thần tự lực, tự cường
của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự hỗ trợ của Trung ương và
sự tương trợ, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Năm là, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ
thống chính trị.
- Mục tiêu cụ thể của công tác dân tộc.
Về kinh tế, phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống
của đồng bào dân tộc.
Về văn hoá, giáo dục, y tế, nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức
khoẻ, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của đồng bào dân tộc.
Về đội ngũ cán bộ và hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất và năng lực; củng cố hệ thống chính trị ở
cơ sở trong sạch, vững mạnh.


12

Về an ninh, quốc phòng, giữ vững an ninh, quốc phòng ở vùng dân tộc
và miền núi; kết hợp kinh tế - xã hội với đảm bảo an ninh, quốc phòng ở các
địa bàn xung yếu, ngăn chặn việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để phá
hoại khối đại đoàn kết giữa các dân tộc, làm mất ổn định xã hội.
- Những nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách về công tác dân tộc trong thời

kỳ mới.
Trong lĩnh vực kinh tế, đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, nâng
cao mức sống của đồng bào thiểu số, trọng tâm là đồng bào vùng cao, vùng
sâu, vùng xa; giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở; xây dựng
và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, xã hội vùng biên giới, làm tốt
công tác định canh, định cư, xây dựng vùng kinh tế mới.
Trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế, thực hiện chương trình phủ
sóng phát thanh, truyền hình, phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tăng cường
cơ sở khám chữa bệnh, cán bộ y tế cho các xã, bản, thôn, ấp.
Trong lĩnh vực củng cố nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở các
vùng dân tộc thiểu số, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở; thực hiện
tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, luân chuyển
cán bộ, khắc phục tình trạng quan liêu xa dân của một số cán bộ, đẩy mạnh
phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc.
Trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân và an ninh nhân dân, tăng cường công tác đảm bảo an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, kết hợp kinh tế, quốc phòng ở vùng sâu, vùng xa,
biên giới, thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng và tôn giáo ở vùng dân tộc,
miền núi.
Trong lĩnh vực đổi mới về nội dung, phương thức công tác dân tộc
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, thực hiện tốt quy chế dân
chủ ở cơ sở, động viên đồng bào các dân tộc phát huy nội lực, ý chí tự lực tự
cường, tinh thần vươn lên trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với Quân đội, thực hiện tốt những quan điểm, nội dung về chính
sách dân tộc của Đảng, các chính sách đối với con em là dân tộc ít người,
tham gia đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đảm bảo chất lượng
đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng công tác cán bộ ở vùng sâu, vùng xa.
Khi học tập dã ngoại, đóng quân ở vùng đồng bào dân tộc ít người, giáo dục cho



13

mọi cán bộ, chiến sĩ tôn trọng tự do tín ngưỡng và những phong tục tập quán của
các dân tộc đồng thời tuyên truyền vận động, hướng dẫn đồng bào dân tộc thực
hiện tốt mọi đường lối, chính sách của Đảng và giúp đỡ đồng bào về mọi mặt,
kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
KẾT LUẬN

Dân tộc là một vấn đề lớn đối với mỗi quốc gia cũng như phạm vi quốc tế.
Việc giải quyết tốt hoặc không tốt ảnh hưởng đến sự ổn định hay tan rã của một
quốc gia dân tộc. Chính vì vậy đòi hỏi các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và
nước ta nói riêng cần phải quán triệt và thực hiện nhất quán cương lĩnh dân tộc
của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề ra chính sách dân tộc một cách đúng đắn, hiệu
quả góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi
cuối cùng.



×