HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ
BẢN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM
MỤC LỤC
Trang
2
LỜI NÓI ĐẦU
1. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ SỰ PHÂN KỲ HÌNH THÁI KINH TẾ -
3
XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA
1.1. Điều kiện ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
3
1.2. Sự phân kỳ của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
5
1.3. Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
8
12
2. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
11
2.1. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
11
2.2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
14
2.3. Vấn đề về cải tổ, đổi mới của chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay
16
KẾT LUẬN
19
2
LỜI NÓI ĐẦU
Học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận và
phương pháp luận khoa học của khoa học xã hội và nhân văn. Kết luận lôgic
của học thuyết đó thể hiện bước ngoặt cách mạng trong phương pháp nghiên
cứu xã hội, đồng thời thể hiện mục đích chính trị - thực tiễn của học thuyết là
kết luận về quy luật của sự phủ định biện chứng hình thái kinh tế - xã hội tư
bản chủ nghĩa. Để nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả các vấn đề
xã hội, cần nhận thức và vận dụng đúng đắn học thuyết Mác - Lênin về hình
thái kinh tế - xã hội nói chung, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa nói riêng.
Nghiên cứu sự ra đời, các giai đoạn phát triển và những đặc điểm của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm sự
định hướng xã hội chủ nghĩa cho công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
1. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ SỰ PHÂN KỲ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA
1.1. Điều kiện ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
- Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là phạm trù cơ bản của
chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở giai đoạn phát triển cao trong
lịch sử xã hội loài người, với một kiểu quan hệ sản xuất luôn phù hợp với
tính chất, trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất và một kiến trúc
thượng tầng tương ứng, thể hiện ý chí, nguyện vọng của giai cấp công nhân
và quần chúng nhân dân lao động.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một hình thái kinh tế xã hội cao nhất, tiến bộ nhất và là hình thái kinh tế - xã hội khác hoàn toàn
về chất so với tất cả các hình thái kinh tế - xã hội trước đó; hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, xã hội không có người áp bức bóc lột người mà ở đó con
người hoàn toàn được giải phóng và phát triển toàn diện; là một hình thái
kinh tế - xã hội luôn tạo sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, do chế độ kinh tế công hữu về tư
liệu sản xuất quy định.
3
- Điều kiện ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời từ kết quả sự vận
động và phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người.
Trên quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác - Ph.Ăngghen chỉ ra
rằng lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển tự nhiên thông qua sự thay
thế nhau (từ thấp đến cao) của các hình thái kinh tế - xã hội, nguyên nhân dẫn
đến sự thay thế đó là do vai trò của lực lượng sản xuất, yếu tố suy đến cùng
quyết định sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Theo C.Mác - Ph.Ăngghen, trong ba yếu tố hợp thành một hình thái
kinh tế - xã hội, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng
thì lực lượng sản xuất là yếu tố luôn vận động và phát triển không ngừng (do
có con người), sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất tới một trình
độ nhất định sẽ phá vỡ quan hệ sản xuất sinh ra nó, đến thời kỳ trói buộc nó,
thay vào đó là một quan hệ sản xuất mới và một hình thái kinh tế - xã hội
mới ra đời.
Và cứ như vậy, theo quy luật, lịch sử xã hội loài người đã vận động và
phát triển qua bốn hình thái kinh tế - xã hội: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, tất yếu lịch sử xã hội loài người sẽ vận
động và phát triển lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, đó là hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. C.Mác khẳng định: “… Tôi coi sự phát
triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”1.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời từ kết quả tất yếu
việc giải quyết những mâu thuẫn khách quan, vốn có trong lòng phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời là một nấc thang tiến bộ
của lịch sử xã hội loài người. Tuy nhiên, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa không xoá bỏ được những mâu thuẫn cơ bản của các xã hội cũ, mà
càng làm cho các mâu thuẫn đó phát triển gay gắt hơn; về kinh tế, mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất phát triển mang tính xã hội hoá ngày càng cao với
quan hệ sản xuất là quan hệ dựa trên chế ñoä chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất. Lực lượng sản xuất trong phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa phát triển tới một trình độ nhất định sẽ phá vỡ quan hệ sản
1
C.Mác- Ph.Ăngghen TT, t. 2, Nxb CTQG, H 1993, tr. 21.
4
xuất tư bản chủ nghĩa, thay vào đó là một quan hệ sản xuất mới và một hình
thái kinh tế - xã hội mới sẽ ra đời, đó là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa.
Biểu hiện của mâu thuẫn về kinh tế, về mặt xã hội, đó là mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, giai cấp vô sản là giai cấp làm ra mọi
của cải vật chất cho xã hội tư bản chủ nghĩa lại bị giai cấp tư sản áp bức, bóc
lột: việc giải quyết mâu thuẫn về mặt xã hội, tất yếu giai cấp vô sản sẽ lật đổ
giai cấp tư sản, xây dựng một xã hội mới và một hình thái kinh tế - xã hội mới
sẽ ra đời, đó là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời từ ước mơ, nguyện
vọng của đại đa số quần chúng nhân dân lao động.
Ngay từ khi chủ nghĩa tư bản vừa mới ra đời, mặc dù là một nấc thang
tiến bộ của lịch sử xã hội loài người nhưng quần chúng nhân dân lao động đã
không chấp nhận được chế độ xã hội đó mà họ ước mơ phải thay chế độ xã
hội tư bản chủ nghĩa bằng một chế độ xã hội nào đó mà ở đó con người không
bị áp bức, bóc lột, đó là chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời còn phụ thuộc vào
tính năng động cách mạng và sáng tạo của giai cấp công nhân, thông qua đội
tiền phong là Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới là thủ tiêu chủ nghĩa tư
bản, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Để thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân phải thông qua vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, đội tiền phong của giai cấp công nhân.
Như vậy, sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
tuân theo lôgíc tất yếu của sự phát triển xã hội, đồng thời còn chịu sự quy
định bởi những điều kiện lịch sử - cụ thể, làm cho quá trình hình thành, phát
triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mang tính phong phú,
đa dạng, với những nét đặc thù trong không gian và thời gian cụ thể.
Với những thuộc tính bản chất ưu việt, tiến bộ nhất trong quá trình phát
triển của xã hội từ trước đến nay, hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ
nghĩa không tự phát hình thành, phát triển mà là kết quả của quá trình đấu
tranh chủ động, tích cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, trên cơ sở nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy
luật khách quan của sự phát triển xã hội.
5
1.2. Sự phân kỳ của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
- Quan điểm phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa của
C.Mác - Ph.Ăngghen.
Sự hình thành, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa là một q trình biện chứng, trải qua các giai đoạn từ thấp lên cao, căn
cứ vào trình độ phát triển của các yếu tố cơ bản hợp thành xã hội, trong đó xét
đến cùng quyết định là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất của xã hội.
Trong các tác phẩm ban đầu, C.Mác - Ph.Ăngghen chưa đặt ra vấn đề
về sự khác nhau căn bản giữa các giai đoạn phát triển chủ yếu của hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, các ơng mới chỉ cố gắng bằng việc phê
phán thế giới cũ, để tìm ra thế giới mới. Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức (1846),
C.Mác - Ph.Ăngghen chỉ ra, q trình phát triển lịch sử đầy mâu thuẫn, khơng
thể quy về sơ đồ trừu tượng hay những trừu tượng lý luận mà xem nhẹ cơ sở
thực tiễn của nó. Đối lập với quan điểm duy tâm và khơng tưởng về chủ nghĩa
cộng sản, C.Mác - Ph.Ăngghen khẳng định chủ nghĩa cộng sản là một phong
trào hiện thực, nhằm thủ tiêu trạng thái hiện tồn, hơn nữa chủ nghĩa cộng sản
được C.Mác - Ph.Ăngghen xem là nấc thang cao nhất của phong trào cách
mạng, theo đuổi những mục tiêu tốt đẹp nhờ những phương tiện thực tiễn.
Dựa trên quan điểm khoa học đó, trong học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội, căn cứ vào sự phát triển cụ thể của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất cùng kiến trúc thượng tầng tương ứng, C.Mác - Ph.Ăngghen khơng chỉ
phân chia lịch sử lồi người thành các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau,
mà còn phân chia hình thái kinh tế - xã hội thành các giai đoạn phát triển nhất
định, mỗi giai đoạn ấy lại được chia thành các thời đoạn khác nhau.
Tư tưởng trên được C.Mác đề cập trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh
Gơta” (1875): Trên cơ sở đó, C.Mác - Ph.Ăngghen phân chia hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa vận động và phát triển qua các giai đoạn từ thấp
tới cao, từ giai đoạn xã hội chủ nghĩa lên giai đoạn cộng sản chủ nghĩa.
Ở giai đoạn xã hội chủ nghĩa, khi mà chế độ kinh tế và sự phát triển văn
hố mới đạt tới giới hạn bảo đảm cho xã hội thực hiện ngun tắc phân phối:
“Làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, đây là giai đoạn thấp của hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa hay còn gọi là chủ nghĩa xã hội.
6
Ở giai đoạn cộng sản chủ nghĩa, khi maø con người không bị lệ thuộc
vào sự lao động, còn lao động không chỉ là phương tiện sinh sống mà trở
thành nhu cầu bậc nhất của cuộc sống và đồng thời cùng sự phát triển phi
thường của lực lượng sản xuất tạo ra một năng suất lao động ngày càng tăng,
các nguồn của cải tăng dào dạt, sự bất bình đẳng xã hội, sự đối lập giữa nông
thôn và thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay không còn, xã hội
có đủ điều kiện vật chất và tinh thần để thực hiện nguyên tắc: “Làm theo năng
lực, hưởng theo nhu cầu” đây là giai đoạn phát triển cao của hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa hay còn gọi là giai đoạn chủ nghĩa cộng sản phát
triển trên cơ sở của chính nó.
Trong tác phẩm trên, C.Mác đã khẳng định về sự phân chia các giai đoạn
phát triển chủ yếu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa bằng phép
so sánh về sự khác nhau căn bản giữa hai hình thái kinh tế - xã hội và chỉ ra
con đường, biện pháp thực hiện sự cải biến ở giai đoạn thấp, giai đoạn chủ
nghĩa xã hội đó là: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa, là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích
ứng với thời kỳ ấy, là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy
không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô
sản”1.
- Quan điểm phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa của
V.I.Lênin.
Phát triển quan điểm phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa của C.Mác - Ph.Ăngghen, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển
lên giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lênin chỉ ra điều kiện chín muồi về sự ra
đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, đồng thời đưa ra quan
điểm về các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa bao gồm:
I – “những cơn đau đẻ kéo dài”.
II – “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”.
III – “giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa”2.
Trên cơ sở quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về cách phân chia các
giai đoạn phát triển chủ yếu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa,
1
2
V.I.Lênin: Toàn tập, t.33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976, tr.233.
V.I.Lênin: Toàn tập, t.33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976, tr.233
7
từ thực tế cách mạng vô sản chưa nổ ra ở các nước có chủ nghĩa tư bản phát
triển cao, V.I.Lênin khẳng định tính phức tạp, lâu dài của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và cho rằng đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản
phát triển, cần phải có một thời kỳ quá độ lâu dài. Tính phức tạp, lâu dài của nó
được quy định ở chỗ nó không phải làm cho những nhiệm vụ của thời kỳ quá
độ mà còn phải thực hiện một loạt nhiệm vụ mà đáng lẽ ra chủ nghĩa tư bản đã
phải làm từ trước khi cách mạng vô sản nổ ra, như xoá bỏ những tàn tích phong
kiến, kiến lập nền đại công nghiệp cơ khí hoá...
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa vận động và phát triển qua một thời kỳ (thời kỳ quá
độ) và hai giai đoạn (chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản).
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu khi chính quyền đã
thuộc về nhân dân lao động mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo và kết thúc khi
xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội, là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa, được bắt đầu khi đã hoàn thành về cơ bản các mục tiêu của thời
kỳ quá độ, kết thúc khi xây dựng về cơ bản cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản, là giai đoạn phát triển cao của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa, là giai đoạn phản ánh đầy đủ bản chất ưu việt của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và là giai đoạn chủ nghĩa cộng sản phát
triển trên cơ sở của chính nó.
1.3. Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Khái niệm:
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã
hội cũ sang xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, được bắt đầu khi giai cấp vô
sản giaønh chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản, kết thúc khi xây dựng
xong cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Đây là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện trên mọi lĩnh
vực, cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, là sự kết hợp chặt chẽ giữa cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới và là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai
8
cấp gay go, quyết liệt, phức tạp, lâu dài giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
xã hội (thực chất là cuộc đấu tranh nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa
chủ nghĩa xã hội mới ra đời còn non yếu với chủ nghĩa tư bản bị đánh đổ
nhưng vẫn còn tàn dư).
- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Các nhà kinh điển trình bày tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã chỉ ra, dù các nước có điểm xuất phát khác nhau, khi đi lên
chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua thời kỳ quá độ, đây là vấn đề tất yếu khách
quan. Theo tiến trình vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người là sự
thay thế từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội, sự chuyển biến từ
hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, phải trải qua
một thời kỳ quá độ. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa không có
trong lòng xã hội cũ, phải xây dựng từ gốc đến ngọn tất yếu cũng phải tuân
thủ theo tiến trình đó.
V.I.Lênin viết: Bây giờ vấn đề đặt ra có hơi khác, một xã hội tư bản
chủ nghĩa đang phát triển lên cộng sản chủ nghĩa, không thể nào chuyển lên
cộng sản chủ nghĩa được nếu không có một thời kỳ quá độ chính trị.
Bên cạnh đó, do nội dung, tính chất của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, là
cuộc đấu tranh gay go, phức tạp, quyết liệt, lâu dài, vừa xoá bỏ xã hội cũ, vừa
xây dựng xã hội mới, muốn hoàn thành đòi hỏi phải có thời gian.
Thực tiễn cho thấy, bất kỳ một hình thái kinh tế - xã hội mới ra đời thay
thế hình thái kinh tế - xã hội cũ cũng phải trải qua thời kỳ quá độ, ví dụ cuộc
cách mạng dân chủ tư sản Pháp (1789 - 1871) kéo dài 82 năm; cách mạng dân
chủ tư sản Đức (1848 - 1919) kéo dài 71 năm.
Tuy nhiên, sự phủ định cùng bản chất của chế độ xã hội thì thời gian
quá độ ngắn hơn, còn chủ nghĩa xã hội phủ định chủ nghĩa tư bản, đây là sự
phủ định giữa hai chế độ khác hoàn toàn về bản chất, do đó phải trải qua
thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp. Ví dụ, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba… hiện nay đang trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
9
Cùng sự phân chia các giai đoạn phát triển chủ yếu của hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, các nhà kinh điển đã luôn nhấn mạnh tất yếu
của thời kỳ quá độ, đồng thời chỉ ra những đặc điểm cơ bản của thời kỳ ấy:
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ là sự cùng tồn tại, vừa thống nhất
vừa đấu tranh với nhau của những yếu tố, những thuộc tính của cả xã hội cũ
và xã hội mới. “Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc
đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể
nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy
chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ
nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản
đang phát sinh nhưng vẫn còn non yếu”1.
Đặc điểm này chỉ rõ sự quá độ diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… trong đó cần đặc biệt chú ý
sự quá độ chính trị mà nhà nước chuyên chính vô sản phải được thiết lập,
không ngừng được củng cố và hoàn thiện để tổ chức và quản lý xã hội.
Đặc điểm cụ thể của thời kỳ quá độ: Về kinh tế, thời kỳ này còn tồn
tại những thành phần, những bộ phận của cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
xã hội. Các thành phần kinh tế cùng tồn tại đan xen vào nhau thâm nhập
lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Để bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế, cần tăng cường vai trò quản lý và điều tiết
của nhà nước xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế Nhà nước
và kinh tế tập thể để các thành phần kinh tế đó đủ sức cạnh tranh với các
thành phần kinh tế khác, ngày càng thực sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối
trong nền kinh tế quốc dân.
Về chính trị - xã hội: thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa
tư bản bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt tận gốc, chủ nghĩa xã hội đã phát
sinh nhưng còn non yếu. Do đó nhất thiết hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
mà bản chất là chuyên chính vô sản phải được thiết lập và ngày càng củng cố,
1
V.I.Lênin: Toàn tập, t.39, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976, tr. 309 - 310.
10
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng và ngày càng hoàn thiện để
đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân lao động.
Thiết lập, củng cố hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là vấn đề có ý
nghĩa quyết định đến quá trình cải biến cách mạng từ xã hội cũ sang xã hội
mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Quá trình cải biến cách mạng đó là quá trình
thống nhất biện chứng giữa cải tạo và xây dựng, là quá trình đấu tranh giai
cấp gay go, quyết liệt và phức tạp trên mọi mặt của đời sống xã hội trong
những điều kiện mới, với những hình thức mới. Thiết lập, củng cố hệ thống
chính trị nhằm từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực xã hội thuộc về nhân dân lao động. Trong quá trình đó phải nắm
vững vấn đề có tính nguyên tắc là thường xuyên củng cố và tăng cường vai
trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của nhà nước xã
hội chủ nghĩa đối với toàn bộ xã hội, thiếu điều đó sẽ không thể có nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
Sự biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là “Dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc
lột, bọn áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ đối với bọn chúng”1.
Về văn hóa tư tưởng: Hệ tư tưởng Mác - Lênin giữ vai trò chủ đạo. Tuy
nhiên còn tồn tại đan xen, đấu tranh giữa các hệ tư tưởng đối lập. Phong tục,
tập quán, văn hóa lạc hậu còn tồn tại.
Về xã hội: Còn sự khác biệt giữa các hoạt động lao động cụ thể, giữa
thành thị - nông thôn, miền núi - đồng bằng.
Những đặc điểm trên phản ánh tính chất gay go, quyết liệt, phức tạp
của thời kỳ quá độ, đồng thời chi phối đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
và diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trung thành và vận dụng sáng tạo nguyên lý của Mác – Lênin, đồng
thời tổng kết thực tiễn quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và
1
V.I.Lênin: Toàn tập, t.33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tr.109.
11
kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước anh em. Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra mô hình
xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta với những đặc trưng cơ bản là:
Một là, xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây
dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đây là đặc trưng cơ bản xuyên suốt sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, phù hợp với ước mơ, nguyện vọng của đại đa số nhân dân lao
động. Đồng thời phản ánh bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu
phấn đấu của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Hai là, do nhân dân làm chủ.
Đây là thuộc tính bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, xã hội vì con
người và do con người. Khác với tất cả các xã hội bóc lột, chỉ đem lại lợi ích
cho một nhóm người, còn chủ nghĩa xã hội, mục tiêu là giải phóng quần chúng
nhân dân lao động, đưa quần chúng nhân dân lao động lên làm chủ xã hội,
đồng thời tạo ra những điều kiện để nhân dân lao động phát huy mọi khả năng
để làm chủ xã hội. Sự phát triển mọi mặt của xã hội xã hội chủ nghĩa và tinh
thần làm chủ của nhân dân lao động quan hệ biện chứng với nhau thúc đẩy
nhau cùng phát triển.
Ba laø, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đây là đặc trưng về phương diện kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người, trình độ giải
phóng con người phụ thuộc vào trình độ phát triển của các điều kiện kinh tế xã hội, xét đến cùng do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
Bốn laø, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính ưu việt, sự ổn định và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa
không chỉ thể hiện ở lĩnh vực kinh tế, mà còn cả ở lĩnh vực văn hoá - tinh thần
của xã hội. Cùng sự phát triển của con người và xã hội, văn hoá ngày càng trở
thành động lực quan trọng của sự phát triển, là tiêu chí cơ bản của sự phát
triển của con người và xã hội.
Năm là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện.
12
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng vĩ đại, triệt để nhất
trong lịch sử nhân loại từ trước đến nay, trong đó con người là điểm xuất
phát và giải phóng con người là mục tiêu cao nhất của cuộc cách mạng đó.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sự hình thành và phát triển của chế độ dân
chủ, của phương thức sản xuất và nền văn hoá mới đặt ra những yêu cầu
khách quan, đồng thời tạo ra những điều kiện kinh tế - chính trị - văn hoá xã hội cần thiết đối với việc giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất
công, bảo đảm sự phát triển toàn diện của cá nhân trong sự thống nhất biện
chứng với cộng đồng xã hội.
Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Một mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội là xoá bỏ sự áp bức dân tộc,
phấn đấu cho quyền được sống trong hoà bình, tự do, hạnh phúc và bình đẳng
của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc và trong quan hệ quốc tế, xây
dựng quan hệ đoàn kết, hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc. Đồng thời thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội cũng phụ thuộc một phần rất quan trọng vào việc giải
quyết vấn đề dân tộc.
Bảy là, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, là đem lại quyền
lực chính trị - xã hội cho nhân dân lao động. Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp là để phát huy được quyền làm chủ thực sự
của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên
thế giới.
Quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới, là một
thuộc tính bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong môi trường quốc tế
hoà bình, hợp tác và hữu nghị, chủ nghĩa xã hội mới thực sự có những điều
kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển. Đồng thời thông qua mối quan hệ
đó, chủ nghĩa xã hội mở rộng được ảnh hưởng của mình, góp phần tích cực
13
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ ra con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm
nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”1.
2.2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đặc điểm chung khi nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa
phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm
chiến tranh, hậu quả để lại rất nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến
còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội
chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta. Đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc diễn ra gay go, phức tạp trên mọi bình diện của đời sống xã hội
nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
với xu hướng ngả theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Đặc điểm cụ thể:
Về kinh tế, còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở
hữu, với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường phát huy tác dụng, nhiều hình thức phân phối (phân phối theo lao động
và hiệu quả kinh tế là chủ yếu), các thành phần kinh tế tồn tại đan xen, tác
động ảnh hưởng lẫn nhau vừa đấu tranh vừa hợp tác.
Về chính trị - xã hội: Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa đang trong
quá trình đổi mới, từng bước hoàn thiện và phát triển, chế độ dân chủ xã hội
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006, tr.69.
14
chủ nghĩa từng bước được thiết lập, quyền làm chủ của nhân dân được phát
huy, khối liên minh công, nông và đội ngũ trí thức được củng cố, cơ cấu xã
hội - giai cấp còn khá phức tạp.
Về văn hoá tinh thần: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tinh thần xã hội, bên cạnh nền văn hoá mới, lối sống mới, con người
mới còn tồn tại tàn dư văn hoá lạc hậu, ảnh hưởng văn hoá phản động, đồi
truỵ, đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng còn phức tạp và gay gắt.
Thực chất quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá độ bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội (bỏ qua chủ nghĩa tư bản
với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội).
Đại hội IX xác định: “Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, bỏ qua chủ nghĩa tư bản
nhưng phải tôn trọng quy luật lịch sử tự nhiên, không nóng vội; không thể bỏ
qua các khâu trung gian của nền sản xuất hàng hoá, mà phải biết kế thừa tiếp
thu những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản đặc biệt
là về khoa học kỹ thuật và công nghệ; xây dựng lực lượng sản xuất mới
nhưng không lặp lại nguyên xi như lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản
mà phải rút ngắn quá trình ấy; từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản
xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa”1.
- Điều kiện và khả năng quá độ bỏ qua.
Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định, quy luật vận động và
phát triển của lịch sử xã hội loài người là sự thay thế nhau từ thấp đến cao của
các hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, không nhất thiết phải phát triển tuần
tự, mà có thể bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã hội để tiến lên một hình
thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Thực tế: Nga, Đức, Ba Lan bỏ qua
chế độ chiếm hữu nô lệ lên thẳng chế độ phong kiến; Mỹ bỏ qua chế độ phong
kiến, tiến thẳng lên chế độ tư bản chủ nghĩa. Sự bỏ qua đó không trái với tiến
trình lịch sử tự nhiên.
Từ thực tế đó, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến tiến hành
thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên xây dựng chủ nghĩa xã hội là nằm trong
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006, tr.75.
15
tiến trình lịch sử tự nhiên đó. Nước ta có đủ điều kiện và có khả năng bỏ qua
hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa với những điều kiện đó là: từ thực
tiễn của lịch sử xã hội loài người, sau thắng lợi vĩ đại của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa đã trở thành hiện thực trên thế giới, và sau 1945, chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản phát triển thành một hệ thống thế giới đã tạo ra những
điều kiện cho các nước chưa phát triển qua chủ nghĩa tư bản thực hiện sự
chuyển biến quá độ, bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến thẳng lên chủ nghã xã hội
và chủ nghĩa cộng sản. Bên cạnh đó, đối với nước ta, sự nghiệp cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân sớm có Đảng Cộng sản lãnh đạo, giai cấp công
nhân Việt Nam trưởng thành lớn mạnh về mọi mặt, đủ sức lãnh đạo toàn dân
tộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Ngày nay, trong
xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá, bên cạnh những thách thức đã và đang đặt
ra, cơ hội đối với vận mệnh của đất nước là vô cùng to lớn. Với sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam chắc chắn sẽ chèo lái con thuyền cách mạng
Việt Nam nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi công cuộc
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Như vậy, qua nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là cơ sở khoa học để
xây dựng niềm tin vào sự tất thắng về chủ nghĩa xã hội. Từ đó xác định rõ thái
độ, trách nhiệm trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đồng thời kiên quyết đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch.
2.3. Vấn đề về cải tổ, đổi mới của chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn
hiện nay
- Sự cần thiết phải cải tổ, đổi mới chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu
to lớn không thể phủ nhận được, các Ñảng Cộng sản mà đặc biệt ở Liên Xô Đông Âu vấp phải không ít những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng chậm
được sửa chữa, khắc phục như: nhận thức cứng nhắc lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học, trong tổ chức xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, lại áp đặt, rập
16
khuôn máy móc mô hình, bên cạnh đó, chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù
địch điên cuồng chống phá, hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế
giới. Chính từ những vấn đề đó, đã làm cho các nước xã hội chủ nghĩa lâm
vào khủng hoảng trầm trọng. Để đảm bảo cho chủ nghĩa xã hội không những
đứng vững mà còn có bước phát triển mới, các Đảng Cộng sản đi vào cải tổ,
cải cách và đổi mới là tất yếu khách quan. Mục đích cải tổ, đổi mới là nhận
thức lại chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội đứng vững và phát triển.
- Quan điểm đổi mới chủ nghĩa xã hội của Đảng ta.
Quan điểm đổi mới chủ nghĩa xã hội ở nước ta được Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng thông qua với tư tưởng là tiến hành đổi mới
một cách toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước
hết, đổi mới tư duy, cả tư duy lý luận và tư duy kinh tế. Đại hội VII, từ thực
trạng của tình hình thế giới và tình hình đất nước đã đưa ra quan điểm đổi mới
chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phải tập trung sức đổi mới kinh tế đáp ứng nhu
cầu cấp bách, thiết yếu nhất của nhân dân về đời sống, việc làm; đồng thời đổi
mới kinh tế là đổi mới chính trị, đổi mới chứ không đổi màu; không chấp
nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Đại hội VIII: Thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội IX: Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước… Đại hội X: Đổi mới hệ thống chính
trị đồng bộ với đổi mới kinh tế.
- Những bài học rút ra trong quá trình đổi mới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tổng kết những thành công, những thất bại của công cuộc cải tổ, cải
cách chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Trung Quốc, và từ thực tiễn sự nghiệp đổi
mới chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra năm bài học kinh nghiệm trong quá trình
đổi mới chủ nghĩa xã hội ở nước ta đó là:
Thứ nhất, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đổi mới không có nghĩa là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm
cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu
quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo
17
và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền
tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
Thứ hai, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức
và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực
tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ
thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời
sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp;
bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế
là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh
thần của xã hội.
Thứ ba, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát
huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén
với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân
dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan
trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân,
xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố
mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khoá của thành công.
Thứ tư, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Phát
huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi
trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế,
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực nhanh hơn, nhằm tạo ra
sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ
vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết
của xã hội; Nhà nước thể chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền
18
công dân, quyền con người. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của
khối đại đoàn kết dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Qua tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ
giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), đồng thời cũng thấy rõ thêm
những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp
tục nghiên cứu bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư
tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình
đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội.
19
KẾT LUẬN
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách
quan, phù hợp với quy luật vận động và phát triển của chính lịch sử xã hội
loài người, phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại, và đáp ứng với
nguyện vọng thiết tha của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Việt
Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng quy luật vận động và phát triển tất yếu
của lịch sử xã hội loài người, phù hợp với xu thế chung của thời đại, đồng
thời phù hợp với nguyện vọng thiết tha của tuyệt đại đa số quần chúng nhân
dân lao động, phù hợp với điều kiện lịch sử cách mạng Việt Nam. Mỗi cán
bộ, đảng viên trên cơ sở kiên định mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn cần phải thấy rõ đặc điểm thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta để tu dưỡng, rèn luyện bản chất giai cấp
công nhân, tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của công cuộc đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, tin tưởng vào thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở nước ta.