Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao tiền lương, tiền công của người lao động trong thời kỳ quá độ lên cnxh ở việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.53 KB, 22 trang )

Bài tiểu luận Nhóm 3
ĐẠI HỌC HUẾ
ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: “Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao tiền lương, tiền công
của người lao động trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay”
Giáo viên hướng dẫn Nhóm sinh viên thực hiện:
1. Trần Đức Mạnh
2. Nguyễn Thị Yến Nga
3. Bùi Thị Ngân
4. Ngô Thị Tuyết Nhung
5. Phomvongsa Phetoudone
Lớp: K44KTCT
Huế, 10/2013
I. MỞ ĐẦU
1
Hồ Lê Phương Thảo
Bài tiểu luận Nhóm 3
Động lực của sự phát triển là con người. Một trong những yếu tố quyết định để khai
thác tiềm năng của con người phục vụ cho sự phát triển là lợi ích kinh tế, cụ thể là tiền
lương, tiền công và thu nhập. Vấn đề tiền lương luôn là vấn đề quan trọng của mọi thời
đại, tiền lương hay tiền công chính là giá cả của sức lao động vì vậy mà nó gắn liền với
mọi phương thức sản xuất và các hình thức kinh tế. Đặc biệt dưới chủ nghĩa tư bản
(CNTB) thì tiền lương là phương tiện, là cái để thể hiện rõ nhất bản chất bóc lột của
CNTB.
Xu thế hội nhập đã tạo nhiều thuận lợi để nước ta phát triển, nhưng bên cạnh
những thuận lợi ấy cũng không tránh khỏi nhiều khó khăn mà chúng ta gặp phải, như:
mức sống của người dân còn thấp, chỉ trên 1.540 USD/ người/ năm. So với thế giới, mức
thu nhập là thấp. Bên cạnh đó, tình trạng lạm phát vẫn còn tồn tại, mức sống và mức tiêu
dùng cũng như tiền lương, tiền công nhận được của người lao động còn rất thấp so với


mặt bằng giá cả thị trường hiện nay. Đó là điều bất lợi cho nền kinh tế, kìm hãm rất
nhiều cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Thêm vào đó, các công ty nước ngoài vào
đầu tư tại Việt Nam ngày càng nhiều. Để thu hút lao động có trình độ, họ không ngại đưa
ra chính sách tiền lương, tiền công hấp dẫn. Gây khó khăn không nhỏ cho chính sách
lao động của doanh nghiệp trong nước. Mức lương thấp cũng là một nguyên nhân gây
nên vấn đề chảy máu chất xám những năm qua, là vấn đề khá đau đầu với Đảng và Nhà
nước Việt Nam.
Trước tình hình ấy, để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước và tình
hình chung của thế giới, Đảng và Nhà nước đã không ngừng thay đổi và ban hành mới
các quy định về tiền lương, tiền công. Một chính sách tiền lương, tiền công hợp lý sẽ là
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước, cũng như tiến trình hội
nhập. Vì lý do đó, nhóm chúng tôi nghiên cứu vấn đề “Thực trạng và một số giải pháp
nhằm nâng cao tiền lương, tiền công của người lao động trong xã hội Việt Nam hiện
nay”.
II. NỘI DUNG
2
Bài tiểu luận Nhóm 3
1. LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN CỦA MÁC
1.1. Bản chất tiền lương, tiền công dưới chủ nghĩa tư bản
Công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nào đó, sản xuất ra một lượng
hàng hóa nào đó thì nhận được một số tiền công nhất định. Tiền trả công đó gọi là tiền
lương hay tiền công. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng tiền lương, tiền công là
giá cả sức lao động. Sự thật thì không phải là giá trị hay giá cả sức lao động. Vì lao động
không phải là hàng hóa và không thể là đối tượng mua bán, sở dĩ như vậy là vì:
- Thứ nhất, nếu lao động là hàng hóa thì nó phải có trước, phải được vật hóa trong hình
thức cụ thể nào đó. Tiền để cho lao động có thể vật hóa được là phải có tư liệu sản xuất.
Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất thì họ sẽ bán hàng hóa do mình sản xuất,
chứ không bán “lao động”. Người công nhân không thể bán cái mình không có.
- Thứ hai, việc thừa nhận lao động là hàng hóa dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về lý luận

sau đây: một là, nếu lao động là hàng hóa và được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bản
không thu được lợi nhuận (giá trị thặng dư) - điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của
quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Hai là, nếu “hàng hóa lao động” được
trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì sẽ phủ nhận quy luật
giá trị.
- Thứ ba, nếu lao động là hàng hóa thì hàng hóa đó cũng phải có giá trị. Nhưng thước đo
nội tại của giá trị là lao động. Như vậy, giá trị của lao động lại được đo bằng lao động.
Đó là một điều luẩn quẩn vô nghĩa.
Vì thế, lao động không phải là hàng hóa, cái mà công nhân bán cho nhà tư bản
chính là sức lao động. Do đó tiền lương, tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là
giá cả của sức lao động.
Vậy bản chất của tiền lương, tiền công dưới chủ nghĩa tư bản là giá trị hay giá
cả của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài thành giá trị hay giá cả của lao
động.
Sở dĩ biểu hiện bề ngoài của tiền lương, tiền công đã che dấu bản chất của nó là
do những nguyên nhân sau:
Một là, việc mua bán sức lao động là mua bán chịu. Hơn nữa, đặc điểm của hàng
hóa – sức lao động không bao giờ tách khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã
3
Bài tiểu luận Nhóm 3
cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, tức là lao động cho nhà tư bản, do đó nhìn bề
ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị cho lao động.
Hai là, đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có
tiền sinh sống, do đó, bản thân công nhân cũng tưởng rằng mình bán lao động. Còn đối
với nhà tư bản việc bỏ tiền ra để có lao động, nên cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao
động.
Ba là, do cách thức trả lương. Số lượng của tiền lương phụ thuộc vào thời gian
lao động hoặc sản phẩm sản xuất ra, điều đó khiến người ta lầm tưởng rằng tiền lương là
giá cả lao động.
Tiền lương che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian

lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao
động không được trả công, do đó tiền lương che đậy bản chất bóc lột của CNTB.
1.2. Các hình thức cơ bản của tiền lương, tiền công
Tiền lương, tiền công có hai hình thức cơ bản là tiền công tính theo thời gian và
tiền công tính theo sản phẩm.
1.2.1. Tiền lương, tiền công tính theo thời gian
Là hình thức tiền lương, tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều tùy theo thời
gian lao động của công nhân (giờ, ngày, tháng) dài hay ngắn.
Cần phân biệt tiền công giờ, tiền công ngày, tiền công tuần, tiền công tháng. Tiền
công ngày và tiền công tuần chưa nói rõ được mức tiền công đó cao hay thấp, vì nó còn
tùy theo ngày lao động dài hay ngắn. Do đó, muốn đánh giá chính xác mức tiền công
không chỉ căn cứ vào tiền công ngày và cường độ lao động. Giá cả của một giờ lao động
là thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian.
Thực hiện chế độ tiền lương, tiền công theo thời gian, nhà tư bản có thể không
thay đổi lương ngày, lương tuần, mà vẫn hạ thấp được giá cả lao động do kéo dài ngày
lao động hoặc tăng cường độ lao động. Trả lương kéo dài thời gian còn có lợi cho nhà tư
bản khi tình hình thị trường thuận lợi, hàng hóa tiêu thụ dễ dàng, thực hiện lối làm việc
thêm giờ, tức là làm việc ngoài số giờ quy định của ngày lao động. Còn khi thị trường
không thuận lợi buộc phải thu hẹp sản xuất, nhà tư bản sẽ rút ngắn ngày lao động và
thực hiện lối trả công theo giờ, do đó hạ thấp tiền công xuống rất nhiều. Như vậy, công
4
Bài tiểu luận Nhóm 3
nhân không những bị thiệt thòi khi ngày lao động bị kéo dài quá độ, mà còn bị thiệt hại
cả khi phải làm việc bớt giờ.
1.2.2. Tiền lương, tiền công tính theo sản phẩm
Là hình thức tiền lương, tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng
sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc
là số lượng công việc đã hoàn thành.
Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định. Đơn giá tiền công được
xác định bằng thương số giữa tiền công trung bình của công nhân trong một ngày với số

lượng sản phẩm trung bình mà một công nhân sản xuất ra trong một ngày, do đó về thực
chất, đơn giá tiền công là tiền công trả cho thời gian cần thiết sản xuất ra một sản phẩm.
Vì thế tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuyển hóa của tiền công tính theo thời
gian.
Thực hiện tiền lương, tiền công tính theo sản phẩm, một mặt, giúp cho nhà tư bản
trong việc quản lý, giám sát quá trình lao động của công nhân dễ dàng hơn; mặt khác,
kích thích công nhân lao động tích cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được
tiền công cao hơn.
Vì vậy, chế độ tiền lương, tiền công dưới CNTB thường dẫn đến tình trạng lao
động khẩn trương quá mức, làm kiệt sức người lao động. Về mặt lịch sử, tiền công tính
theo thời gian được áp dụng rộng rãi trong giai đoạn đầu phát triển của CNTB, còn giai
đoạn sau thì tiền công tính theo sản phẩm được áp dụng rộng rãi hơn. Hiện nay, hình
thức tiền công tính theo thời gian ngày càng được mở rộng.
1.3. Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế. Xu hướng vận động của tiền
công dưới CNTB
1.3.1. Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao
động của mình cho nhà tư bản. Nó là giá cả sức lao động. Nó có thể tăng lên hay giảm
xuống tùy theo sự biến động của quan hệ cung – cầu về hàng hóa sức lao động trên thị
trường. Đối với người công nhân, điều quan trọng không chỉ ở tổng số tiền nhận được
dưới hình thức tiền công mà còn ở chỗ có thể mua được gì bằng tiền công đó, điều đó
phụ thuộc vào giá cả vật phẩm tiêu dùng và dịch vụ. Tiền công được sử dụng để tái sản
5
Bài tiểu luận Nhóm 3
xuất sức lao động, nên tiền công danh nghĩa phải được chuyển hóa thành tiền công thực
tế.
Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tiêu dùng
và dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình. Rõ ràng nếu
điều kiện khác không thay đổi, tiền công thực tế phụ thuộc theo tỷ lệ thuận của đại lượng
tiền công danh nghĩa và phụ thuộc theo tỷ lệ nghịch với mức giá cả vật phẩm tiêu dùng

và dịch vụ.
1.3.2. Xu hướng vận động của tiền lương, tiền công dưới CNTB
Tiền lương, tiền công là giá cả của sức lao động, nên sự vận động của nó gắn liền
với sự biến đổi của giá trị sức lao động. Lượng giá trị sức lao động chịu ảnh hưởng của
các nhân tố tác động ngược chiều nhau. Nhân tố tác động làm tăng giá trị sức lao động
như sự nâng cao trình độ chuyên môn người lao động, sự tăng cường độ lao động, và sự
tăng lên nhu cầu cùng với sự phát triển của xã hội. Nhân tố tác động làm giảm giá trị sức
lao động, đó là sự tăng năng suất lao động làm cho giá cả tư liệu tiêu dùng rẻ đi. Sự tác
động qua lại của các nhân tố đó dẫn tới quá trình phức tập của sự biến đổi giá trị sức lao
động, do đó dẫn tới sự biến đổi phức tạp của tiền công thực tế.
Tuy nhiên, C.Mác đã vạch ra rằng, xu hướng chung của sản xuất TBCN không
phải là nâng cao mức tiền công trung bình mà là hạ thấp mức tiền công ấy. Bởi lẽ trong
quá trình phát triển của CNTB, tiền công danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức
tăng của nó nhiều khi không theo kịp mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịnh vụ; đồng
thời thất nghiệp là hiện tượng thường xuyên, khiến cho cung về lao động làm thuê vượt
quá cầu về lao động, điều đó cho phép nhà tư bản mua sức lao động dưới giá trị của nó,
vì vậy tiền công thực tế của giai cấp công nhân có xu hướng hạ thấp.
Nhưng sự hạ thấp của tiền công thực tế chỉ diễn ra như một xu hướng, vì có
những nhân tố chống lại sự hạ thấp tiền công. Một mặt, đó là cuộc đấu tranh giai cấp
công nhân đòi tiền công. Mặt khác, trong điều kiện của CNTB ngày nay, do sự tác động
của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ nên nhu cầu về sức lao động có chất lượng
cao ngày càng tăng đã buộc giai cấp tư sản phải cải tiến tổ chức lao động cũng như kích
thích người lao động bằng lợi ích vật chất. Đó cũng là một nhân tố cản trở xu hướng hạ
thấp tiền công.
6
Bài tiểu luận Nhóm 3
1.4. Các chức năng cơ bản của tiền lương, tiền công
1.4.1. Chức năng thước đo giá trị
Như trên đã nêu, tiền lương hay tiền công là sự thể hiện bằng tiền của giá trị sức
lao động, được biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của sức lao động. Vì vậy tiền lương

hay tiền công chính là thước đo giá trị sức lao động, được biểu hiện như giá trị lao động
cụ thể của việc làm được trả công. Nói cách khác, giá trị của việc làm được phản ánh
thông qua tiền lương, tiền công. Nếu việc làm có giá trị càng cao thì mức lương càng
lớn.
1.4.2. Duy trì và phát triển sức lao động
Theo Mác, tiền lương hay tiền công là biểu hiện giá trị sức lao động, đó là giá trị
của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao động,
theo điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ văn minh của mỗi nước. Giá trị sức lao động
bao hàm cả yếu tố lịch sử, vật chất và tinh thần. Ngoài ra, để duy trì và phát triển sức lao
động thì người lao động phải sinh con (như sức lao động tiềm tàng), phải nuôi dưỡng
con, cho nên những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất ra sức lao động phải gồm có
những tư liệu sinh hoạt cho con cái học. Theo họ, chức năng cơ bản của tiền lương, tiền
công còn là nhằm duy trì và phát triển được sức lao động.
Giá trị sức lao động là điểm xuất phát trong mọi bài tính của sản xuất xã hội nói
chung và của người sử dụng lao động nói riêng. Giá trị sức lao động mang tính khách
quan, được quy định và điều tiết theo ý muốn của một tác nhân nào, dù là người làm
công hay người sử dụng lao động. Nó là kết quả của sự mặc cả trên thị trường lao động
giữa người có sức lao động “bán” và người sử dụng sức lao động “mua”.
1.4.3. Kích thích lao động và phát triển nguồn nhân lực
Tiền lương, tiền công là bộ phận thu nhập chính đáng của người lao động nhằm
thỏa mãn phần lớn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của người lao động. Do vậy, các
mức tiền lương là các đòn bẩy kinh tế rất quan trọng để định hướng sự quan tâm và động
cơ trong lao động của người lao động. Khi độ lớn của tiền lương hay tiền công phụ
thuộc vào hiệu suất sản xuất của công ty nói chung và cá nhân người lao động nói riêng
thì họ sẽ quan tâm đến việc không ngừng nâng cao năng suất và chất lượng công việc.
1.4.4. Thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển
Nâng cao hiệu quả lao động, năng suất lao động suy cho cùng là nguồn gốc để
tăng thu nhập, tăng khả năng thỏa mãn các nhu cầu của người lao động.
7
Bài tiểu luận Nhóm 3

Khác với thị trường hàng hóa bình thường, cầu về lao động không phải là cầu cho
bản thân nó, mà là cầu dẫn xuất, tức là phụ thuộc vào khả năng tiêu thụ của sản phẩm do
lao động tạo ra và mức giá cả của hàng hóa này. Tổng mức tiền lương quyết định tổng
cầu về hàng hóa và dịch vụ cần thiết sản xuất cũng như giá cả của nó. Do vậy, tiền lương
hay tiền công phải dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động
luôn luôn dẫn đến sự tái phân bố lao động. Theo quy luật thị trường, lao động sẽ tái phân
bố vào các khu vực có năng suất cao hơn để nhận được các mức lương cao hơn.
1.4.5. Chức năng xã hội của tiền lương
Cùng với việc kích thích không ngừng nâng cao năng suất lao động, tiền lương
còn là yếu tố kích thích việc hoàn thiện các mối quan hệ lao động. Thực tế cho thấy, việc
duy trì các mức tiền lương cao và tăng không ngừng chỉ được thực hiện trên cơ sở hài
hòa các mối quan hệ lao động trong các doanh nghiệp. Việc gắn tiền lương với hiệu quả
của người lao động và đơn vị kinh tế sẽ thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn
nhau, nâng cao hiệu quả cạnh tranh của công ty. Bên cạnh đó, tạo tiền đề cho sự phát
triển toàn diện của con người và thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng dân chủ và văn
minh.
Tóm lại, tiền lương hay tiền công là một phạm trù kinh tế tổng hợp và là đòn bẩy
kinh tế rất quan trọng đến sản xuất, đời sống và các mặt khác của nền kinh tế xã hội, tiền
lương được trả đúng đắn có tác dụng: (1) đảm bảo tái sản xuất sức lao động và không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho người lao động; (2) là một yếu tố quan
trọng để nâng cao năng suất lao động; (3) tạo điều kiện để phân bố hợp lý sức lao động
giữa các ngành nghề, các vùng, các lĩnh vực trong cả nước: (4) thúc đẩy bản thân người
lao động và xã hội phát triển.
1.5. Ý nghĩa của tiền lương, tiền công
1.5.1. Đối với người lao động
- Tiền công, tiền lương là phần cơ bản nhất trong thu nhập của người lao động, giúp cho
họ và gia đình trang trải các chi tiêu, sinh hoạt, dịch vụ cần thiết.
- Tiền công, tiền lương kiếm được ảnh hưởng đến địa vị của người lao động trong gia
đình, địa vị của họ trong tương quan với các bạn đồng nghiệp cũng như giá trị tương đối
của họ đối với tổ chức và đối với xã hội.

8
Bài tiểu luận Nhóm 3
- Khả năng kiếm được tiền công cao hơn sẽ tạo ra động lực thúc đẩy người lao động ra
sức học tập để nâng cao giá trị của họ đối với tổ chức thông qua sự nâng cao trình độ và
sự đóng góp cho tổ chức.
1.5.2. Đối với tổ chức, doanh nghiệp
- Tiền lương là một khoản chi phí bắt buộc, do đó muốn nâng cao lợi nhuận và hạ giá
thành sản phẩm, các doanh nghiệp phải biết quản lý và tiết kiệm chi phí tiền lương.
- Tiền công, tiền lương là công cụ để duy trì, gìn giữ, thu hút những người lao động giỏi,
có khả năng phù hợp với công việc của doanh nghiệp.
- Tiền công, tiền lương cùng với các loại thù lao khác là công cụ để quản lý chiến lược
nguồn nhân lực và có ảnh hưởng đến các chức năng khác của quản lý nguồn nhân lực.
9
Bài tiểu luận Nhóm 3
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TIỀN CÔNG, TIỀN LƯƠNG Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
2.1 Chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về cải cách tiền lương và tiền công
trong giai đoạn hiện nay
Vấn đề cải cách tiền lương đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ rất sớm và luôn
được quán triệt tại các kỳ đại hội của Đảng từ các kỳ Đại hội cho đến nay. Báo cáo chính
trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI của
Đảng còn nêu rõ “Kiên quyết khắc phục những bất hợp lý về tiền lương, tiền công, trợ
cấp xã hội phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; gắn cải cách tiền lương
với sắp xếp, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống
chính trị. Gắn tiền lương của người lao động với hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp”.
Căn cứ vào những chủ trương nêu trên, trong những năm qua nhà nước ta đã đẩy
mạnh cải cách chính sách tiền lương, tiền công. Từ năm 1993, chính sách tiền lương đã
có sự thay đổi theo hướng tích cực, khắc phục những hạn chế cơ bản của thời kỳ trước,
tạo sự hài hòa hơn về lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, với 4 nội

dung cơ bản: mức lương tối thiểu; quan hệ tiền lương giữa các khu vực; các chế độ phụ
cấp tiền lương và cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập. Đã hình thành 4 bốn hệ thống
thang, bảng lương riêng cho 4 khu vực, gồm:
(1) Tiền lương của khu vực sản xuất, kinh doanh của Nhà nước căn cứ trên năng suất lao
động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh để định ra mức tiền lương, tiền thưởng tương đối
hợp lý.
(2) Tiền lương của lực lượng vũ trang được tiền tệ hóa.
(3) Tiền lương của khu vực hành chính, sự nghiệp được thiết kế theo ngạch công chức phù
hợp với chức danh và tiêu chuẩn chuyên môn, mỗi ngạch lại có nhiều bậc để khuyến
khích công chức phần đấu vươn lên.
(4) Tiền lương của khu vực dân cư và bầu cử đều thống nhất, mỗi chức vụ chỉ có một mức
lương, nếu được tái cử thì sẽ có phụ cấp thâm niên tái cử.
Nhằm tiếp tục cải cách chính sách tiền lương, Chính phủ đã ký quyết định số
1556/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai nghiên cứu cải cách tổng thể chính sách
tiền lương vào năm 2011. Theo đó, nhiệm vụ mà các cơ quan quản lý nhà nước liên quan
cần triển khai thực hiện trong năm 2010 gồm có: nghiên cứu xây dựng chế độ tiền lương
10
Bài tiểu luận Nhóm 3
mới trên cơ sở của quan hệ của mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa mới; trình cấp
có thẩm quyền và cơ chế tiền lương và khung dịch vụ đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập thuộc các ngành khoa học và công nghệ, văn hóa, thể thao và du lịch, lĩnh vực kinh
tế, trình các cơ quan có thẩm quyền về dự kiến xây dựng chế độ tiền lương mới đối với
cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các công ty
nhà nước; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về chế độ tiền lương mới thực hiện
từ năm 2011. Các nhiệm vụ về mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng,
bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2008 – 2012 đã được hội nghị
Trung ương VI khóa X thông qua, thực hiện theo phân công tại Quyết định số 282/QĐ-
TTg ngày 14/3/2008 của thủ tướng Chính phủ.
2.2 Thực trạng của vấn đề tiền lương, tiền công ở nước ta hiện nay
Chính sách tiền lương đang được thực hiện là kết quả của đợt cải cách tiền lương

năm 1993. Đây là một cuộc cải cách rất căn bản không những về lương mà còn là một
đợt sắp xếp lại hệ thống phân phối tiền lương từ ngân sách nhà nước, nhằm mục tiêu xoá
bỏ triệt để tình trạng bao cấp, khắc phục tính bình quân trong phân phối, sắp xếp lại hệ
thống thang bảng lương và tạo bước ngoặt về nhận thức quan điểm - coi tiền lương là giá
cả sức lao động, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và từng bước xây dựng
thể chế kinh tế thị trường.
Sau gần 20 năm áp dụng chính sách lương mới, chúng ta thấy có nhiều ưu điểm và
tiến bộ so với hệ thống tiền lương trong thời kỳ bao cấp nhưng thực tế thì vẫn còn đó
nhưng bất cập và nhiều điểm hạn chế. Cụ thể:
2.2.1 Những mặt đạt được
- Thứ nhất, quan điểm, chủ trương về cải cách chính sách tiền lương, tiền công của Đảng
từ năm 2003 đến nay là đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt quan điểm coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện
đầu tư cho phát triển, tạo động lực để phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng dịch vụ
công, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy
Nhà nước.
- Thứ hai, tách dần tiền lương, tiền công khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực hành
chính nhà nước và khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công; chính sách tiền lương, tiền
công với chính sách bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội. Đó là
11
Bài tiểu luận Nhóm 3
bước ngoặt rất quan trọng cải cách tiền lương, tiền công trong điều kiện mới theo định
hướng thị trường.
- Thứ ba, Tiền lương và thu nhập của người làm công ăn lương có xu hướng tăng, đảm
bảo ổn định đời sống và có phần được cải thiện.
Tính từ năm 2003 đến nay, chính phủ đã có 8 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu.
Tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2003 – 2008 là 13,24%/năm. Sau 5 năm thực hiện đề án
cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 2008 – 2012, Chính phủ đã 5 lần điều chỉnh
mức lương tối thiểu, từ 450.000đ năm 2008 lên 1.050.000đ năm 2012. Tốc độ phát triển
bình quân giai đoạn 2008 – 2012 đạt 18,09%/năm. Tốc độ phát triển bình quân toàn giai

đoạn 2003 – 2012 đạt 15,37%/năm. Tổng mức chi phí cải cách tiền lương trong năm
2011 khoảng 27.000 tỷ đồng; năm 2012 là 59.300 tỷ đồng.
- Thứ tư, từng bước đổi mới chính sách tiền lương, tiền công theo định hướng thị
trường, nhất là trong khu vực sản xuất kinh doanh; từng bước tính đúng, tính đủ tiền
lương theo nguyên tắc theo thị trường. Trong các loại hình doanh nghiệp, tiền lương
được coi là giá cả sức lao động, hình thành trên cơ sở mặt bằng tiền lương, tiền công
trên thị trường và bước đầu được xác định thông qua thoả thuận giữa ngươi lao động
và người sử dụng lao động để ký kết hợp đồng lao động cá nhân và thoả ước lao động
tập thể.
12
Bài tiểu luận Nhóm 3
- Thứ năm, đổi mới hơn cơ chế tiền lương, mở rộng và làm rõ trách nhiệm, quyền tự
chủ của đơn vị, doanh nghiệp trong việc xếp lương, trả lương gắn với năng suất lao
động, chất lượng và hiệu quả.
2.2.2 Những bất cập, hạn chế
Trong nhiều năm qua, nhà nước luôn cố gắng cải cách các chính sách tiền lương,
tiền công nhằm đáp ứng được nhu cầu của xã hội và phù hợp với nền kinh tế đang phát
triển nhanh. Tuy nhiên, ngoài những thành công đã đạt được vẫn còn những hạn chế và
bất cập:
- Thứ nhất, những quy định, chủ trương, chính sách tiền lương, tiền công của Đảng về
tiền lương tuy đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
nhưng việc đưa những quy định, chính sách đó vào thực tiễn cuộc sống còn chưa được
thực hiện tốt, dẫn đến tình trạng người lao động không nắm rõ được những quy định,
chính sách của Đảng, Nhà nước về tiền lương, tiền công.
- Thứ hai, theo Bộ Nội vụ, từ năm 2003 đến nay, mức lương tối thiểu chung cho người
lao động trong khu vực hành chính - sự nghiệp đã điều chỉnh 7 lần từ 210.000
đồng/tháng lên 830.000 đồng/tháng, với mức tăng gần 4 lần. Từ ngày 1/5/2012, mức
lương tối thiểu đã được quyết định tăng lên mức 1.050.000 nghìn đồng/tháng. Việc điều
chỉnh này được thực hiện trên cơ sở các mức đã dự kiến trong Đề án tiền lương giai
đoạn 2003 - 2007 và 2008 - 2012, có điều chỉnh linh hoạt theo mức tăng trưởng kinh tế,

chỉ số giá tiêu dùng và khả năng của Ngân sách nhà nước. Tuy nhiên căn cứ thực tế mức
sống hiện nay, mức lương tối thiểu này hoàn toàn là không đủ để người lao động có thể
sống được trong một tháng, nhất là ở những thành phố lớn như Hà Nội hay Tp. Hồ Chí
Minh. Khi lạm phát ngày càng đẩy giá cả tiêu dùng leo thang chóng mặt.
- Thứ ba, phân phối tiền lương và thu nhập trong khu vực hành chính nhà nước và khu
vực sự nghiệp sự nghiệp cung cấp dịch vụ công, cán bộ, công chức, viên chức còn nhiều
bất cập. Cụ thể:
+ Duy trì quá lâu một chính sách tiền lương thấp đối với cán bộ, công chức, viên
chức. Các lần cải cách vừa qua luôn bị chi phối tuyệt đối bởi khả năng của ngân sách
nhà nước (NSNN), nên đã thực hiện một chính sách tiền lương quá thấp đối với cán bộ,
công chức, viên chức và gắn chặt với tiền lương tối thiểu chung vốn rất thấp (chỉ đáp
ứng 65% - 70% nhu cầu mức sống tối thiểu của người lao động). Hơn nữa, chính sách
tiền lương thấp này đã lại ngày càng thấp xa so với khu vực sản xuất kinh doanh, chưa
13
Bài tiểu luận Nhóm 3
bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống chủ yếu bằng tiền lương. Đó là một bất
cập, nghịch lý và mâu thuẫn lớn. Theo kết quả điều tra của Công đoàn Viên chức Việt
Nam, tiền lương cứng của cán bộ, công chức, viên chức khá thấp, phần lớn là hưởng
lương ở mức cán sự và chuyên viên, chiếm khoảng 73% (cán sự chiếm 32% và chuyên
viên 41%), còn ở mức chuyên viên chính là 24% và chuyên viên cao cấp là 3%.
+ Trong khi tiền lương không đủ sống, thì thu nhập ngoài lương lại rất cao (phụ
thuộc vào vị trí, chức danh công việc, lĩnh vực quản lý, vùng, miền…) và không có giới
hạn, không minh bạch, cũng không kiểm soát được. Trong phần thu nhập ngoài lương
cho đến nay không ai có thể thống kê, đánh giá định lượng được, có thể có phần chính
đáng, song chủ yếu là không chính đáng do lợi dụng quyền lực để tham nhũng, tiêu cực
trong thi hành công vụ (từ biếu xén, cơ chế xin - cho, cơ chế ăn chia…). Mức lương tối
thiểu của công chức năm nay được nâng lên 1.050.000 đồng, song vẫn là mức quá thấp,
không đủ cho chi phí trong cuộc sống vốn ngày càng đắt đỏ do lạm phát. Chính điều này
đã tạo “đất sống” cho tham nhũng, tiêu cực ngày càng nhức nhối…
+ Tiền lương Nhà nước quy định trả cho cán bộ, công chức, viên chức mặc dù còn rất

thấp, nhưng tổng quỹ lương và trợ cấp do Ngân sách nhà nước bảo đảm lại chiếm tỷ lệ
khá cao trong tổng chi Ngân sách nhà nước, cho nên buộc phải “gọt chân cho vừa giày”.
Đó là một trong những nút thắt khó gỡ nhất trong cải cách chính sách tiền lương đối với
cán bộ, công chức, viên chức vừa qua. Theo Viện Chiến lược và Chính sách tài chính
(Bộ Tài chính), hiện nay mức độ đảm bảo từ Ngân sách nhà nước cho trả lương và các
khoản có tính chất lương là khá cao và liên tục tăng nhanh. Cụ thể, năm 2011, lương,
phụ cấp ước chiếm 51% chi thường xuyên của Ngân sách nhà nước, đạt gần 9,6% GDP.
Trong khi năm 2010, con số này chỉ là 6,7% GDP. Ngoài ra, 21 ngành được hưởng ở 16
loại phụ cấp ưu đãi khác nhau đang có xu hướng mở rộng hơn, khiến Ngân sách nhà
nước dành cho lương tối thiểu ngày càng bị mỏng đi.
- Thứ tư, Khi Việt Nam gia nhập WTO mang lại nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít
thách thức, điển hình như: các công ty nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam ngày càng
nhiều. Để thu hút lao động có trình độ, họ không ngại đưa ra chính sách tiền lương, tiền
công hấp dẫn. Ở khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhiều công ty đã trả mức lương
trung bình từ hơn 2 triệu đồng/ tháng thì mức này ở phương án tối thiểu của Bộ Lao
động và thương binh xã hội chỉ là 1.5 triệu đồng, điều này cũng gây ra nhiều thiệt thòi
14
Bài tiểu luận Nhóm 3
cho các lao động tại các công ty nước ngoài, khi mà phía nước ngoài sẽ không chấp
nhận trả quá cao so với mức lương tối thiểu mà nhà nước quy định. Các doanh nghiệp
đều cho rằng mức lương này là quá thấp, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn
tuyển dụng lao động. Mức lương tối thiểu cũng khiến cho nhiều doanh nghiệp gặp khó
khăn khi khách hàng tính giá thành cũng dựa vào nó. Hiện tại lương tối thiểu chung và
lương tối thiểu vùng đang áp dụng chung cho cả doanh nghiệp lẫn cả khối hành chính sự
nghiệp, cho nên nếu muốn tăng thì sẽ ảnh hưởng tới ngân sách nhà nước, điều này khiến
mức lương tối thiểu của doanh nghiệp cũng tăng rất chậm, không phù hợp thực tế.
- Thứ năm, hệ thống thang bảng lương năm 1993 chưa thực sự khuyến khích người lao
động phấn đấu về mặt chuyên môn, vô hình dung khuyến khích cán bộ, công chức chạy
đua theo chức vụ. Chẳng hạn, các kỳ lên lương vẫn nặng về thời gian, thâm niên công
tác, “đến hẹn lại lên”, không có chính sách lên lương vượt cấp, trước niên hạn (trừ một

số cấp bậc của cán bộ cao cấp do bầu cử hoặc đề bạt) cho dù thành tích đạt được về mặt
chuyên môn đến mức độ nào.Thi nâng bậc còn mang tính hình thức, kết quả thi chưa
thực sự gắn với chuyên môn công tác cụ thể, đối tượng “quá độ” còn nhiều, nên dễ bị áp
dụng tùy tiện. Hậu quả là chính sách tiền lương chưa thực sự khuyến khích người lao
động, chưa khuyến khích các tài năng, đặc biệt là tài năng trẻ.
- Thứ sáu, tình trạng bất hợp lý và không công bằng vẫn còn là vấn đề bức bách của
chính sách tiền lương hiện nay. Điều này thể hiện trên cả 2 khía cạnh:
+ Thứ nhất, tình trạng bình quân chủ nghĩa vẫn chưa được khắc phục. Bởi vì, khoảng
cách giữa các bậc lương quá ngắn, thấp nhất là 0,09 và cao nhất là 0,43; phấn đấu 2 năm
mới thêm được mỗi tháng 18,9 ngàn đồng, 3 năm tăng thêm 25,2 ngàn đồng thêm vào
đó thời gian phấn đấu để đạt được tới bậc lương cao nhất quá dài.
+ Thứ hai, tình trạng bất hợp lý do vẫn tồn tại nhiều ngành, nhiều cơ quan và khu vực
có sự chênh lệch quá mức về thu nhập, hình thành nhiều khoản thu và chia chác trong
các cơ quan mà Nhà nước không quản lý nổi như thu nhập ngoài lương lớn hơn lương
rất nhiều trong một bộ phận cán bộ, công chức; chênh lệch về thu nhập giữa các ngành,
các cơ quan, đơn vị rất lớn.
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Một số yêu cầu khi tiến hành cải cách
15
Bài tiểu luận Nhóm 3
- Thứ nhất, chế độ tiền lương phải phù hợp với thực tế khách quan của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, đảm bảo cho người công nhân duy trì được sức lao động ở
điều kiện bình thường.
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nên chế
độ tiền lương trong nền kinh tế này vừa mang tính chất thị trường, vừa mang tính chất
định hướng XHCN. Nghĩa là chế độ tiền lương vừa chịu sự chi phối bởi thị trường lao
động, vừa chịu sự chi phối bởi nguyên tắc phân phối theo lao động. Điều này cho thấy,
không nên cực đoan cho rằng, tiền lương chỉ là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa
sức lao động, hoặc ngược lại, tiền lương chỉ là kết quả của việc phân phối theo lao động.

Bởi lẽ, trong điều kiện hiện nay, năng suất lao động xã hội rất thấp, sự cạnh tranh gay
gắt, bộ máy quản lý cồng kềnh, các khoản khấu trừ quá lớn nên quỹ tiền lương sẽ thấp.
Trong điều kiện đó, nếu tiền lương chỉ là kết quả của phân phối theo lao động thì
sẽ thấp, thậm chí không đủ để duy trì cuộc sống cho bản thân người lao động. Nhưng
nếu tiền lương là giá cả của hàng hóa sức lao động, thì mục tiêu lợi nhuận mà chủ doanh
nghiệp luôn luôn muốn trả lương thấp. Thêm vào đó, do sức ép của cạnh tranh, của thất
nghiệp, làm cho người công nhân phải chấp nhận lương thấp tới mức chỉ tạm đủ cho bản
thân sống, miễn là có được việc làm.
Vì vậy, yêu cầu của cải cách chế độ tiền lương ở nước ta hiện nay là tiền lương
phải đảm bảo cho người lao động duy trì được năng lực lao động, nuôi con cái và chi phí
đào tạo cho bản thân người lao động ở điều kiện bình thường. Điều đó đòi hỏi, trong các
doanh nghiệp nhà nước, việc trả lương vừa tuân theo cơ chế thị trường là thuận mua vừa
bán sức lao động (tức là phải được thỏa thuận giữa người lao động với doanh nghiệp về
mức lương), vừa đảm bảo tính chất XHCN là phân phối theo lao động, nhưng mức
lương không được thấp hơn mức lương tối thiểu. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, tiền lương công nhân cũng không được thấp hơn lương tối thiều do Nhà nước
quy định. Như vậy, việc xác định lương tối thiểu là vấn đề quan trọng và cần thiết không
chỉ đối với các doanh nghiệp nhà nước mà cho cả các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
- Thứ hai, Xác định mức lương tối thiểu, khắc phục tình trạng bình quân
Thực ra, lương tối thiểu được xác định không căn cứ vào quỹ lương mà căn cứ vào
sự trao đổi ngang giá của hao phí sức lao động về cơ bắp, thần kinh, não,… của con
16
Bài tiểu luận Nhóm 3
người trong quá trình lao động, sự hao phí này phải đượ bù đắp lại bằng những tư liệu
sinh hoạt cần thiết cho cuộc sống của con người ở mức thấp nhất nhằm duy trì được
năng lực lao động và tiếp tục giống nòi của mình. Hao phí sức lao động càng nhiều thì
sự bù đắp lại càng lớn. Bản thân những nhu cầu tự nhiên về nhu cầu sinh hoạt như thức
ăn, nhà ở,… cũng khác nhau tùy theo khí hậu và những đặc điểm tự nhiên, trình độ văn
minh của mỗi nước. Mặt khác, người công nhân có thể bị chết đi, nên phải được thay thế

bằng sức lao động mới. Để có sức lao động thay thế, mỗi cá nhân người lao động phải
sinh con đẻ cái. Vì vậy, tổng số tư liệu cần cho sức lao động bao gồm cả những tư liệu
sinh hoạt cho những người thay thế đó, tức là con cái những người công nhân. Đồng
thời, để cho người công nhân có những kiến thức cần thiết cho lao động thì cần phải học
hành, muốn thế cần phải tốn một số chi phí đào tạo. Do đó, những chi phí đào tạo ấy
được gia nhập vào tổng số những chi phí cho sức lao động của mỗi người công nhân.
Như vậy, lương tối thiểu là giá trị những tư liệu sinh hoạt mà thiếu nó, người công
nhân sẽ không thể khôi phục lại quá trình sống của mình, nó sẽ rơi xuống thấp hơn giá
trị của nó, khi đó sự sống của người công nhân chỉ được duy trì và phát triển dưới một
trạng thái lay lắt mà thôi.
- Thứ ba, thực hiện trả lương theo lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, nhưng
không được thấp hơn mức lương tối thiểu.
3.2 Những giải pháp đặt ra
3.2.1 Đối với nhà nước
- Thứ nhất, phải đổi mới hơn nữa về tư duy trong cải cách chính sách tiền lương, tiền
công. Muốn có tư duy mới về cải cách tiền lương, tiền công đòi hỏi các nhà nghiên cứu,
các nhà hoạch định chính sách và người lãnh đạo, quản lý phải bắt đầu từ nhận thức về
sự cần thiết cải cách nền công vụ, đáp ứng những đòi hỏi trong thời kỳ đổi mới của nước
ta hiện nay. Tức là:
+ Phải hiểu tiền lương theo đúng nghĩa của nó, tiền lương phải được trả tương xứng
với giá trị sức lao động mà người cán bộ, công chức, người lao động đã bỏ ra để thực thi
công vụ. Tiền lương, tiền công không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị
- xã hội. Nó phản ánh sự ưu việt của bản chất chế độ, hay sự quan tâm của nhà nước đối
với người lao động hưởng lương, sự phát triển của xã hội và mối tương quan giữa các
tầng lớp trong xã hội.
17
Bài tiểu luận Nhóm 3
+ Tiếp tục thống nhất về nhận thức, coi chi tiền lương, tiền công cho cán bộ, công
chức và những người lao động làm công ăn lương chính là chi cho đầu tư phát triển;
đảm bảo cho tiền lương thực sự là động lực quan trọng thúc đẩy nâng cao năng lực để

thực thi công vụ có hiệu quả hơn. Bản chất tiền lương, tiền công cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường, tiền lương phải tiếp cận với giá trị sức lao động thị trường
+ Gạt bỏ những tư duy còn mang nặng tính bao cấp, cơ chế xin cho dễ nảy sinh tính
cửa quyền, độc đoán, tham nhũng làm suy thoái đạo đức công vụ của một nhóm người
có quyền lực, gây tổn thất kinh tế và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển nền kinh tế quốc
dân.
+ Xác định nhóm ngành, nghề để đưa ra từng vị trí việc làm của cơ quan, đơn vị; sắp
xếp lại bộ máy tổ chức phù hợp không bị chồng chéo, nhằm giảm bớt nhân lực dư thừa
trong bộ máy hành chính, góp phần tạo thêm nguồn tài chính để trả lương cho người lao
động tương xứng với giá trị sức lao động của họ.
- Thứ hai, Tăng cường năng lực cho các cơ quan hoạch định và nghiên cứu chính sách có
liên quan đến lao động và tiền lương, tiền công. Đồng thời tạo điều kiện pháp lý để các
đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội tham gia việc hoạch định và thực hiện chính sách
về lao động và tiền lương, tiền công.
- Thứ ba, tiến hành cải cách tiền lương, tiền công phải gắn với cải cách kinh tế, thiết lập
đồng bộ hệ thống thị trường lành mạnh. Hiện nay, tồn tại bất hợp lý giữa yêu cầu cải
cách tiền lương (xác định mức lương tối thiểu, lương trung bình,…) với yêu cầu đáp ứng
các nhu cầu tiêu dùng của người làm công ăn lương khi nhiều thị trường hoạt động
không bình thường, mang nặng tính đầu cơ, hoàn toàn thoát ly khỏi mặt bằng thu nhập
chung của xã hội (như thị trường bất động sản, thị trường ô tô, dịch vụ viễn thông, dịch
vụ khám chữa bệnh…). Rõ ràng, với giá cả đất đai, giá nhà chung cư như hiện nay,
không một chế độ tiền lương nào có thể đáp ứng được; tương tự như vậy, giá các loại
hàng hóa dịch vụ như ôtô, dịch vụ viễn thông,…thực sự đã thoát ly khỏi mặt bằng giá
chung trên thị trường và do đó cũng thoát ly khỏi khả năng đáp ứng của chính sách tiền
lương.
- Thứ tư, quy định những nguyên tắc chung nhất về việc xây dựng thang lương, bảng
lương cho các doanh nghiệp vận dụng. Theo đó, doanh nghiệp có trách nhiệm xây dựng
18
Bài tiểu luận Nhóm 3
hệ thống thang lương, bảng lương, phụ cấp lương phù hợp với quy mô, tổ chức sản xuất

và lao động, tự lựa chọn quyết định mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định; hình
thành các phương pháp trả lương và thu nhập gắn với năng suất, chất lượng, hiệu quả
sản xuất kinh doanh.
3.2.2 Đối với các Bộ, ngành liên quan
- Thứ nhất, thực hiện ngay việc cụ thể hóa và hướng dẫn các quy định của Nhà nước về
chính sách tiền lương, tiền công đến với khu vực sản xuất kinh doanh và đến trực tiếp
người lao động.
- Thứ hai, tổ chức bộ phận nghiên cứu hoạch định chính sách tiền lương, bộ phận kiểm
tra, giám sát thực hiện chính sách tiền lương phù hợp với yêu cầu quản lý mới. Kịp thời
phát hiện xử lý các vướng mắc phát sinh trong vấn đề tiền lương, thu nhập cũng như đề
xuất vời Nhà nước việc bổ sung, điều chỉnh, sửa đổi khi phát sinh bất hợp lý.
- Thứ ba, chuyển đổi cơ chế quản lý hành chính áp đặt tiền lương, tiền công trong khu
vực sản xuất kinh doanh hiện nay sang cơ chế quản lý mang tính chất hướng dẫn là chủ
yếu. Đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, bảo đảm việc thực hiện
chính sách tiền lương trong khu vực này đúng với quỹ đạo chung và bảo về quyền lợi
người lao động.
3.2.3 Đối với các doanh nghiệp
- Thứ nhất, trên cơ sở quyền chủ động về vấn đề tiền lương, thu nhập trong chế chính
sách, cần tổ chức bộ phận nghiên cứu quản lý cho phù hợp nhằm sử dụng có hiệu quả
đòn bẩy tiền lươn, tiền công trong việc khuyến khích nâng cao chất lượng, hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
- Thứ hai, đối với khu vực doanh nghiệp, tiền lương là một bộ phận của chi phí sản xuất,
nếu tiền lương tăng, thì lợi nhuận giảm và ngược lại. Giải pháp duy nhất để xử lý mâu
thuẫn này là tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất, khi đó sẽ tạo được
nguồn để vừa tăng lợi nhuận, vừa tăng được tiền lương. Vì vậy, cần tăng cường công tác
xây dựng kế hoạch lao động, định mức lao động, quỹ lương kế hoạch cũng như việc xác
định đơn giá tiền lương trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tốc độ tăng tiền lương bình quân
thấp hơn tốc độ tăng năng suất lao động bình quân, lợi nhuận bình quân đầu người
không thấp hơn năm liền kề. Coi đó là trách nhiệm quản lý tự thân của doanh nghiệp,
không phải là sự áp đặt hành chính của Nhà nước như trước.

19
Bài tiểu luận Nhóm 3
20
Bài tiểu luận Nhóm 3
III. KẾT LUẬN
Chính sách tiền lương, tiền công đối với cán bộ, công chức, người lao động là
một trong những chính sách kinh tế - xã hội hết sức cần thiết và cấp bách của quốc gia,
ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trên tầm vĩ mô, tác động
đến hàng triệu người lao động hưởng lương. Và việc cải cách chính sách tiền lương, tiền
công phải đạt đến cái đích là đảm bảo cho người làm công ăn lương sống được bằng
lương ở mức khá trong xã hội. Vì vậy, trong những năm qua luôn được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm hàng đầu trong việc cải cách chính sách tiền lương, ở đây không chỉ là
vấn đề tạo nguồn tài chính để tăng lương tối thiểu mà còn là việc cải cách cả hệ thống
bảng lương để khắc phục những hạn chế, bất cập xuất phát từ những đòi hỏi khách quan
của cuộc sống.
Từ đó chúng ta cần khẩn trương đưa quan điểm của Đảng tại Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương lần thứ 7 (khóa VIII) vào cuộc sống. Đó là: “tiền lương gắn liền với sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trả lương đúng cho người lao động chính là thực
hiện đầu tư cho sự phát triển; góp phần quan trọng làm lành mạnh đội ngũ cán bộ, nâng
cao tinh thần trách nhiệm và hiệu quả công tác”. Để từ đó phát huy hết tiềm năng của đất
nước vào phát triển đất nước, xây dựng một một đất nước giàu mạnh hơn ở hiện tại và cả
trong tương lai.
21
Bài tiểu luận Nhóm 3
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X
2. Giáo trình Kinh tế chính trị
3. Nghị định của Chính Phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức
và lực lượng vũ trang
4. Phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (GS.TS. Nguyễn

Công Nghiệp)
5. Quản trị nhân lực (Bùi Văn Chiêm)
6. Trung tâm thông tin – tư liệu Viện Nghiên cứu TW
22

×