Tải bản đầy đủ (.doc) (223 trang)

Đổi mới tổ chức và hoạt động của ban tuyên giáo đảng ủy cấp xã ở nước ta hiên nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 223 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong Luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các trích dẫn chỉ rõ nguồn tài liệu của tác giả.
Tác giả Luận án

Phạm văn Hiến


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BDV
BKG
BTG
BTV
CNXH
CNMLN
CNH, HĐH
CNCS
CTKG
CTTG
CTTT
ĐUCX
ĐTNCS
HCCB
HĐND
HND
HPN
MTTQ


TCCSĐ
TTTT
UBND
XHCN

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

Ban dân vận
Ban khoa giáo

Ban tuyên giáo
Ban tuyên vận
Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa Mác - Lênin
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chủ nghĩa cộng sản
Công tác khoa giáo
Công tác tuyên giáo
Công tác tư tưởng
Đảng ủy cấp xã
Đoàn thanh niên cộng sản
Hội cựu chiến binh
Hội đồng nhân dân
Hội nông dân
Hội phụ nữ
Mặt trận Tổ quốc
Tổ chức cơ sở đảng
Thông tin truyền thông
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Sự cấn thiết thành lập BTG ĐUCX .........................................83
Biểu đồ 2.2: Về số lượng cán bộ BTG ĐUCX hiện nay...............................85
Biểu đồ 2.3: Thành phần trưởng ban BTG ĐUCX hiện nay.........................86
Biểu đồ 2.4: Thành phần phó trưởng ban BTG ĐUCX hiện nay..................86
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu trưởng BTG ĐUCX......................................................87
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu phó trưởng BTG ĐUCX...............................................87
Biểu đồ 2.7: Cơ cấu các thành viên khác BTG ĐUCX.................................87

Biểu đồ 2.8: Các thành phần khác là cán bộ ban BTG ĐUCX hiện nay......88
Biểu đồ 2.9: Đánh giá số lượng cán bộ ban BTG ĐUCX hiện nay đã hợp lý
hay chưa........................................................................................................89
Biểu đồ 2.10: Đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của BTG ĐUCX thời
gian qua.........................................................................................................102
Biểu đồ 2.11: So sánh hiệu quả hoạt động của BTG ĐUCX với các ban xây
dựng Đảng khác ở cơ sở................................................................................102
Biểu đồ 2.12: Đánh giá về chế độ chính sách, phụ cấp đãi ngộ dành cho cán
bộ của BTG ĐUCX.......................................................................................110
Biểu đồ 2.13: Đánh giá về những hạn chế, yếu kém trong hoạt động của BTG
ĐUCX hiện nay.............................................................................................114
Biểu đồ 2.14: Đánh giá nguyên nhân những hạn chế, yếu kém trong hoạt động
của BTG ĐUCX trong thời gian qua (qua các nhóm lĩnh vực công tác)..........115
Biểu đồ 2.15: Đánh giá nguyên nhân những hạn chế, yếu kém trong hoạt
động của BTG ĐUCX hiện nay....................................................................116
Biểu đồ 3.1: Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của BTG
ĐUCX hiện nay.............................................................................................135
Biểu đồ 3.2: Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của BTG
ĐUCX (trong các nhóm học vấn).................................................................138
Biểu đồ 3.3: Quan điểm về mô hình BTG ĐUCX trong thời gian tới .........144


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
CTTG là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của
Đảng, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính
trị; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng con người, bồi đắp nền tảng chính trị
của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện

các nhiệm vụ cách mạng. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi trọng
CTTG. Đặc biệt, 30 năm đổi mới vừa qua, CTTG đã góp phần bảo đảm sự
thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong các binh chủng và lực lượng làm CTTG, BTG đảng uỷ xã,
phường, thị trấn (gọi chung là BTG ĐUCX) có vai trò hết sức quan trọng
trong việc thực hiện các nhiệm vụ CTTG cũng như các nhiệm vụ chính trị ở
cấp xã; do vậy, chủ trương hướng về cơ sở, coi trọng cơ sở, tăng cường
CTTG cấp xã là một trong những trọng tâm công tác của BTG Trung ương và
toàn ngành Tuyên giáo, đạt được những kết quả quan trọng. Văn kiện Đại hội
lần thứ XII của Đảng nêu rõ: “Chất lượng và hiệu quả CTTT, lý luận có bước
được nâng lên. CTTT được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống
nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh phòng,
chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa,
đấu tranh phê phán, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy
mạnh hơn”[38, tr.186].
Bên cạnh những thành quả đạt được, hoạt động của BTG ĐUCX trong
những năm qua cũng còn bộc lộ một số hạn chế và bất cập. Đó là, tính chiến
đấu, tính thuyết phục, hiệu quả CTTT còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu
tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”. Tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ


2

đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ
nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,
cùng với sự phân hoá giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của
nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà

nước, đe doạ sự ổn định và phát triển của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng cũng đã nhấn mạnh:
Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu,
tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất
cao trong Đảng; đồng thuận xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng
theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả [38, tr.46].
Trước yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, làm thế
nào để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả CTTG các cấp, đặc biệt là cấp
xã có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần vào việc củng cố sự vững chắc hệ
thống chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội... giữ vững sự ổn định chính
trị và trật tự, an toàn xã hội. Vì lẽ đó, phương châm hướng về cơ sở, đẩy
mạnh CTTG ở cấp xã là chủ trương nhất quán mà ngành Tuyên giáo đã đề ra
từ nhiều năm nay, nhất là những năm gần đây. Để tạo sự đồng thuận trong
nhận thức và hành động của quần chúng nhân dân, góp phần nâng cao kiến
thức cả về lý luận và thực tiễn thì việc thực hiện có hiệu quả CTTG cấp xã là
vấn đề có ý nghĩa quyết định, cấp thiết hiện nay.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: "Đổi mới tổ
chức và hoạt động của BTG ĐUCX ở nước ta hiện nay” làm luận án tiến sỹ
với hy vọng sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả CTTG của Đảng ở
cấp xã hiện nay.


3

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề về lý luận, thực tiễn tổ chức và hoạt

động của BTG ĐUCX, luận án đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu
đổi mới tổ chức và hoạt động BTG ĐUCX ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
- Làm rõ những vấn đề lý luận về CTTG cấp xã và đổi mới tổ chức,
hoạt động của BTG ĐUCX ở nước ta hiện nay.
- Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của BTG ĐUCX ở nước ta
trong thời gian qua và những vấn đề đặt ra đối với việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của BTG ĐUCX ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của BTG ĐUCX ở nước hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức
và hoạt động của BTG ĐUCX ở nước ta hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu mô hình, tổ chức bộ máy và hoạt động của BTG
ĐUCX trên lĩnh vực công tác tuyên giáo, trong đó chủ yếu đi sâu làm rõ thực
trạng, những vấn đề đặt ra đối với tổ chức bộ máy, hoạt động của BTG
ĐUCX và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động BTG ĐUCX đối với cấp ủy
đảng các cấp và trong hệ thống ngành Tuyên giáo.
- Luận án đề cập tổ chức bộ máy và hoạt động của BTG ĐUCX, nhưng
chỉ ở góc độ là một bộ phận cấu thành, đồng thời là đối tượng của CTTG chịu
sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng của cấp uỷ đảng các cấp, cũng như hướng
dẫn tổ chức thực hiện của BTG cấp trên (từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh, cấp


4

huyện). Luận án tập trung khảo sát, nghiên cứu ở BTG ĐUCX ở một số tỉnh,

thành phố mang tính đại diện cho các vùng, miền trong cả nước.
- Về thời gian, luận án nghiên cứu tổ chức bộ máy và hoạt động của
BTG ĐUCX từ Đại hội X (năm 2006) của Đảng đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng CSVN, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về tư tưởng, lý luận, công tác tuyên giáo… để
nghiên cứu những vấn đề đặt ra.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở các phương pháp luận chủ yếu là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; luận án sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cơ bản của triết học, chính trị học, xã hội học tập trung vào một số
phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp các văn kiện của Đảng, chính sách,
luật pháp của Nhà nước, các báo cáo, tài liệu, công trình khoa học... liên quan
đến đề tài luận án.
- Phương pháp lịch sử và lôgic: mô tả, tái hiện thực trạng đổi mới tổ
chức và hoạt động của BTG ĐUCX từ Đại hội X của Đảng tới nay, phân tích,
vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng vận động của quá trình đổi mới tổ
chức bộ máy và hoạt động của BTG ĐUCX.
- Phương pháp so sánh, đối chứng: Luận án tổng hợp số liệu liên quan, so
sánh, đối chứng, chỉ ra ưu điểm, thành quả cần phát huy, khắc phục yếu kém,
những vấn đề đặt ra về tổ chức bộ máy và hoạt động của BTG ĐUCX.
- Phương pháp điều tra xã hội học: lập bảng hỏi, chọn mẫu mang tính
đại diện để điều tra về nhận thức, quan điểm, thái độ của chủ thể và đối tượng
cán bộ BTG ĐUCX và các vấn đề liên quan; thu thập dữ liệu theo mẫu và tiến


5


hành phân tích, xử lý số liệu bằng phần mền xã hội học SPSS.
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: Lựa chọn một số nhóm vấn đề
quan trọng đang có nhiều ý kiến khác nhau để trao đổi.
- Ngoài những phương pháp nghiên cứu chủ yếu nêu trên, vì đối tượng
nghiên cứu đề cập nội dung của nhiều lĩnh vực khác nhau, cho nên luận án sử
dụng phương pháp tổng kết thực tiễn và tích hợp (liên ngành).
5. Đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hóa và bổ sung, phát triển lý luận về đổi mới tổ chức và hoạt
động của BTG ĐUCX; làm rõ sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động
của BTG ĐUCX ở nước ta hiện nay.
- Khái quát thực trạng, phát hiện những vấn đề đặt ra đối với đổi mới tổ
chức và hoạt động của BTG ĐUCX ở nước ta trong quá trình đổi mới đất
nước, vì sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu đổi mới tổ chức và hoạt
động của BTG ĐUCX ở nước ta, nhất là việc đề xuất một số mô hình, tổ chức
của BTG ĐUCX cần hướng tới, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ CTTG
trong tình hình mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án thực hiện thành công sẽ góp phần tạo cơ sở khoa học cho việc
xây dựng chủ trương, chính sách lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện đổi
mới tổ chức và hoạt động của BTG ĐUCX trong phạm vi toàn quốc.
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho
đội ngũ cán bộ cấp ủy các cấp, cán bộ công tác trong binh chủng CTTG, nhất là
đội ngũ cán bộ BTG ĐUCX và những người quan tâm đến công tác này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án gồm 03 chương, 08 tiết.



6

TỔNG QUAN
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
I. CÁC CÔNG TRÌNH VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, TỔ CHỨC
BỘ MÁY VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, CÔNG
TÁC TUYÊN GIÁO
1.1. Công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong quá trình xây dựng CNXH ở Liên Xô (trước đây) và Đông Âu, đã có
nhiều công trình nghiên cứu về CTTT, một số đã được dịch ra tiếng Việt. Khi
nghiên cứu về cơ sở hoạt động tuyên truyền tư tưởng của đảng cộng sản, các nhà
khoa học đã đi sâu phân tích làm rõ các đặc điểm và những yêu cầu dưới góc độ
tâm lý học, giáo dục học đối với hoạt động này. Nhà giáo dục Xô Viết nổi tiếng
V.A.Cruchetxki đã viết: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của giáo dục cộng sản chủ
nghĩa là hình thành ở thế hệ trẻ niềm tin và tình cảm cộng sản chủ nghĩa vững
chắc và hành vi đạo đức dựa trên cơ sở niềm tin vào tình cảm đó”[54, tr.164].
Trong cuốn “Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô”, nhóm
tác giả đã đưa ra định nghĩa hiệu quả CTTT: “Đó là sự tương quan giữa kết
quả tác động tư tưởng đã đạt được so với những mục tiêu xây dựng giác ngộ
cộng sản chủ nghĩa và phẩm hạnh cộng sản chủ nghĩa của con người”[131,
tr.299]. Và tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả được xác định là: trình độ hiểu
biết chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước… Các tác giả cũng chỉ ra các điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan để nâng cao hiệu quả CTTT. Theo đó, điều kiện khách quan là: lối sống
xã hội, chế độ dân chủ, môi trường xã hội…; nhân tố chủ quan bao gồm: trình
độ lãnh đạo của Đảng đối với CTTT; trình độ năng lực của cán bộ tư tưởng;
thường xuyên cải tiến các hình thức, phương pháp; đảm bảo sự thống nhất của
các biện pháp kinh tế - xã hội, tư tưởng, tổ chức và hành chính để tác động



7

đến con người; nâng cao vai trò giáo dục của tập thể lao động, tổ chức xã hội
và mỗi người cộng sản; phát huy vai trò của các cơ quan tư tưởng và các tổ
chức xã hội.
Sau sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, nhất là
trong những năm gần đây, hoạt động nghiên cứu CTTT có xu hướng chỉ trong
một số ít nước XHCN thông qua một số tài liệu, hoặc tiếp xúc qua các đợt
công tác ở nước ngoài, nhằm trao đổi kinh nghiệm chủ yếu là từ kinh nghiệm
của Trung Quốc.
Cuốn “Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới” của Bùi
Phương Dung (Trung Quốc), Trần Khang và Lê Cự Lộc dịch, Nhà xuất bản
(Nxb) Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005 là cuốn giáo trình về CTTT của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, chủ yếu phân tích khái niệm CTTT và phương thức,
phương pháp, loại hình cơ bản của công tác điều tra, nghiên cứu thông tin và
xây dựng đội ngũ những người làm công tác tuyên truyền tư tưởng.
Bài “Bàn về đổi mới CTTT thời kỳ mới” của Điền Trung Mẫn, đăng
trên Tạp chí Học tập và Nghiên cứu lý luận, số 8 - 2007, khi bàn về vai trò
quan trọng của CTTT trong công cuộc xây dựng xã hội hài hoà, tác giả khẳng
định: “CTTT là thế mạnh chính trị quan trọng của Đảng Cộng sản Trung
Quốc, đặc biệt là trong thời kỳ xã hội tiến hành cải cách” [96, tr.134]. Trên cơ
sở khẳng định vai trò to lớn của CTTT, tác giả cho rằng, CTTT là con đường
quan trọng để xây dựng xã hội hài hoà: “CTTT vừa là nội dung quan trọng
của sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, vừa là con đường quan
trọng và sự bảo đảm quan trọng để Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện vai
trò lãnh đạo của mình” [96, tr.135]. Tác giả cũng nêu rõ phương châm của
CTTT là “lấy dân làm gốc”, “phải bám sát thực tế, bám sát quần chúng, bám
sát cuộc sống, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, cố gắng vận dụng
nhiều hình thức”; và “cần tăng cường cải tiến CTTT cho những người sống



8

nay đây mai đó và đội ngũ nông dân ra thành phố tìm việc làm, cho những
công nhân thất nghiệp và những người thuộc tầng lớp lao động, cho các
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, khu vực nông thôn miền núi hải đảo xa xôi
để CTTT được phủ khắp mọi lĩnh vực…” [96, tr.140].
Khi bàn về đối tượng của CTTT, trong bài “Làm thế nào để làm tốt
CTTT trong thời kỳ mới”, đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng Trung Quốc số tháng
01/2008, các tác giả gồm GS. Triệu Văn Như, Trương Vệ Đông và Lý Biêu cho
rằng, đối tượng của CTTT là con người và con người thì luôn luôn có sự khác
nhau. CTTT tập trung vào quần chúng, lo cho quần chúng, cần phải tập trung
vào các nhóm quần chúng không giống nhau, lo cho các nhóm quần chúng khác
nhau. Và để làm tốt CTTT cho quần chúng, cần thích ứng với tình hình cụ thể
của quần chúng, áp dụng các phương pháp khoa học, bắn tên trúng đích.
Cũng vấn đề bàn về đổi mới CTTT, GS. Vương Bột Chính, trong bài
“Một số vấn đề về CTTT của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong tình hình
mới” (đăng trên Tạp chí Nghiên cứu tư tưởng chính trị, số 3/2006) nhấn
mạnh, việc triển khai CTTT, trước hết là phải kiên trì những truyền thống tốt,
cách làm tốt có hiệu quả mà trước đây đã từng áp dụng. Điều quan trọng hơn
là phải thích nghi với tình hình mới, không ngừng tìm tòi phương pháp mới.
Chính vì vậy, phải chú trọng điều hoà, hình thành nên “dàn hợp xướng” của
CTTT có sự tham gia của xã hội.
Trong bài “Bàn về đổi mới công tác chính trị tư tưởng”, trên Tạp chí
Luận đàm Giang Nam, chuyên đề CTTT, số 01/2006, GS. Trần Dục Dân
khuyến khích sử dụng các hình thức, phương pháp sao cho phù hợp với thực
tiễn. Ngoài ra, vừa phải thuyết phục người dân bằng lý lẽ, vừa phải thuyết phục
bằng tình cảm, làm nhiều công tác khiến quần chúng cảm thấy gần gũi, yên tâm,
vừa phải giúp đỡ người dân giải quyết vấn đề tư tưởng, vừa phải giúp giải quyết
các vấn đề trong đời sống thực tế…



9

- Trong bài “CTTT cần tăng cường tính đổi mới và tính thời đại”, trên
Tạp chí Pháp chế Chính phủ, số 31/2009, tác giả Lý Diệc Bác cho rằng:
CTTT muốn giàu tính đổi mới thì phải tạo dựng quan niệm mới, hình thành
cơ chế mới, tiến hành đổi mới một cách tổng thể cho đường lối; vận dụng
hình thức mới, hoàn thiện chức năng mới, tiến hành đổi mới cho phương thức,
cách làm; tổng kết kinh nghiệm mới, tạo nên hiệu quả mới, tiến hành đổi mới
cho nội dung, thành quả. Trên cơ sở đó, phải tăng cường tính thời đại của
CTTT. Để tạo ra và phát huy tối đa tính thời đại của CTTT phải dựa vào sức
mạnh nhân cách của người lãnh đạo, làm gương cho người khác; dựa vào vai
trò gương mẫu đi đầu của người đảng viên, ảnh hưởng đến người khác; dựa
vào sức mạnh tình cảm về sự quan tâm, thấu hiểu, tôn trọng để thu phục lòng
người; dựa vào sức mạnh bồi dưỡng chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa yêu nước để
đoàn kết con người.
- Bàn về việc nâng cao hiệu quả của CTTT, trong bài “Tìm tòi phương
pháp đổi mới CTTT trong doanh nghiệp”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu tư
tưởng chính trị, số 3/2009, tác giả Từ Trí nhấn mạnh việc kết hợp giữa “nói”
và “làm”. CTTT muốn đạt hiệu quả, muốn đổi mới thì không những “nói”
hay, mà quan trọng là phải “làm” giỏi. Sức mạnh của tấm gương là vô cùng to
lớn, nói hay không bằng làm giỏi. Làm giỏi là sức sống của CTTT, là cái căn
bản để CTTT đạt được hiệu quả. “Làm” trong CTTT là lệnh động viên không
lời. “Làm” trong CTTT phải để nổi bật chữ “thực”. Vì vậy, tăng cường và cải
tiến CTTT không thể tách khỏi sự thống nhất hữu cơ giữa “nói” và “làm”, lúc
cần nói thì phải nói, lúc cần làm thì phải làm.
- Trong một nghiên cứu gần đây với tiêu đề “Tăng cường sự hấp dẫn
và sức quy tụ của hệ tư tưởng XHCN” của Chu Hiển Tín, Phùng Linh Chi
được đăng trên tạp chí “Nghiên cứu lý luận Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu

Bình” (Trung Quốc), số 10/2008, các tác giả đã xác định rõ sự cần thiết phải


10

đẩy mạnh CTTT và phương hướng đổi mới CTTT theo tinh thần Đại hội
XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm thực hiện tốt mục tiêu chiến lược
“Xây dựng hệ giá trị nòng cốt của CNXH, tăng cường sự hấp dẫn và sức quy
tụ của hệ tư tưởng XHCN”. Trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân
quan trọng khiến Liên Xô, Đông Âu thay đổi chế độ, các tác
giả cho rằng: “không được để “khoảng trống” trên trận địa
văn hoá, tư tưởng, ý thức, nếu chủ nghĩa Mác, tư tưởng XHCN
không chiếm lĩnh thì các loại học thuyết phi mác
phi CNXH sẽ chiếm lĩnh ngay lập tức”

- xít, hệ tư tưởng

[66, tr.28].

Từ đó, tác giả cho rằng nhiệm vụ của CTTT là phải “Tăng cường sự chỉ đạo tư
tưởng XHCN đối với xây dựng hình thái ý thức là nhu cầu bức thiết mang tính chiến
lược”[66,

tr.28]. Cùng với việc tích cực sáng tạo lý luận để tăng

cường sức sống của hình thái ý thức XHCN, cần đổi mới CTTT
bằng cách “Thực hiện phân loại đối

tượng giáo dục để tăng cường sự hài


hoà của hình thái ý thức XHCN” [66, tr.30]. Theo đó, “Trước hết, nhất thiết phải kiên
trì sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác, kiên trì lấy thành tựu của sự nghiệp Trung Quốc hoá
chủ nghĩa Mác để vũ trang cho toàn Đảng, giáo dục nhân dân, mà trọng điểm và chủ
thể giáo dục là đông đảo cán bộ, đảng viên. Thứ hai, lấy mục tiêu lý tưởng chung xây
dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc để tập hợp mọi lực lượng xã hội, lấy tinh thần thời đại và
tinh thần dân tộc để cổ vũ ý chí đấu tranh của toàn thể nhân dân… Thứ ba, lấy quan niệm
vinh nhục XHCN với nội dung chủ yếu là “8 điều vinh, 8 điều nhục” để dẫn dắt phong cách
xã hội”

[66, tr.30].

Theo tác giả, để đổi mới CTTT, phương châm của Đảng Cộng sản

Trung Quốc phải là “tích cực tìm kiếm con đường tối ưu nhất để dẫn dắt tư tưởng xã hội
bằng hệ thống giá trị nòng cốt XHCN, chủ động làm tốt CTTT, vừa tôn trọng sự khác biệt,
tính đa dạng bao dung, đồng thời kiên quyết ngăn chặn ảnh hưởng của các quan niệm,
nhận thức sai lầm, của tư tưởng hủ bại”

[66, tr.31].

Để thực hiện được nội dung CTTT, Đảng Cộng sản Trung Quốc rất coi
trọng việc đấu tranh tư tưởng trên cơ sở hình thái ý thức XHCN bao gồm:


11

Thứ

nhất, kiên trì nguyên tắc tính giai cấp, không dao động giữa thuộc tính


XHCN và thuộc tính tư bản chủ nghĩa (TBCN) của hình thái ý thức… Thứ hai,
nhất thiết phải kiên trì tính nguyên tắc khoa học… Thứ ba, căn cứ vào điều kiện
đấu tranh để có hình thức phù hợp, không nên luôn “đấu tranh tàn khốc, giáng
đòn tàn nhẫn”. Thứ tư, cần có tầm nhìn, tầm nhận thức mang tính quốc tế…

[66, tr.31, 32].
Nghiên cứu của các tác giả cũng đề cập đến việc phát huy vai trò các
binh chủng của CTTT, trên cơ sở nhận thức “văn hoá nghệ thuật, báo chí
tuyên truyền là bộ phận cấu thành quan trọng, là công cụ, kênh truyền tải
quan trọng của ý thức XHCN, là chủ thể phát huy tinh thần chính của hình
thái ý thức XHCN, có địa vị chiến lược vô cùng quan trọng trong việc tăng
cường sự hấp dẫn và sức quy tụ của hình thái ý thức xã hội” [66, tr.32]. Coi “văn
học nghệ thuật là “loa phát thanh” của thời đại, là “trống trận” cổ vũ nhân dân tiến lên…”; “Tuyên truyền dư
luận là “người phát ngôn chính thức” của Đảng và nhân dân, là công cụ quan trọng tăng cường sức hấp dẫn
cho hình thái ý thức XHCN”

[66, tr.32], vì vậy phải “xây dựng cơ chế phản hồi nhanh dư luận, tạo ra

kênh thông tin thông suốt cho quyết sách của Đảng và Chính phủ” [66,

Để tạo ra

tr.33].

các luồng dư luận chính thống, tích cực, chủ đạo và định hướng

xã hội, cần coi trọng việc “tích cực mở ra trận địa mới giáo dục tuyên truyền lý luận
trên mạng Internet” đòi hỏi phải “giỏi chiếm lĩnh các phương tiện truyền thông hiện
đại, khắc phục “vùng trắng” trong giáo dục tư tưởng chính trị, từ đó hướng dẫn các
trào lưu tư tưởng vốn vô cùng phong phú và đa dạng trong xã hội”


[66, tr.33]. Đối

với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm CTTT, các tác giả
nhấn mạnh việc: “nâng cao tố chất chính trị của đội ngũ cán
bộ giám sát dư luận, chủ yếu gồm trách nhiệm chính trị, độ
nhạy bén chính trị, tăng cường sức ảnh hưởng của giám sát
dư luận” [66, tr.33] và phát huy “vai trò tiên phong, gương mẫu
của cán bộ, đảng viên trong việc tăng sức cảm hoá thực tiễn
của hình thái ý thức XHCN”, “cán bộ, đảng viên phải là những
người truyền bá quan điểm, tư tưởng lý luận, đường lối, chủ


12

trương của đảng, là biện pháp quan trọng để đảng hoàn
thành sứ mạng của bản thân là giáo dục quần chúng, phát
động quần chúng” [66, tr.35].
Để đổi mới CTTT, trước hết cần chú trọng đến nội dung CTTT.
Trong bài

“Tổng kết công tác xây dựng Đảng Cộng sản Trung Quốc trong 30 năm

cải cách mở cửa” của Tập Cận Bình, đăng trên Thời báo Học tập (Trung Quốc) số
8/9 - 2008, khi bàn về nội dung CTTT, tác giả Tập Cận Bình cho rằng:

Trước sau như một, Đảng coi việc học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác, đặc biệt
là những thành quả mới nhất của sự nghiệp Trung Quốc hoá chủ nghĩa Mác là nội
dung trung tâm giáo dục bồi dưỡng cho đảng viên và cán bộ…; ra sức thúc đẩy
việc đưa vào giáo trình, giảng đường, tuyên truyền giáo dục những tư tưởng

chiến lược quan trọng như lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “Ba đại
diện” và quan điểm phát triển khoa học, để giúp đông đảo cán bộ đảng viên xác
định chắc chắn thế giới quan, nhân sinh quan, quan niệm giá trị chủ nghĩa Mác,
tỉnh táo và kiên định chính trị, duy trì và phát triển tính tiên tiến của người đảng
viên cộng sản

[65, tr.10].

Tạp chí: “Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế” (Nga), số 11/2008,
có bài “Cơ sở tư tưởng hệ của công cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc” của Mozias.
Theo tác giả, nội dung CTTT của Đảng Cộng sản Trung Quốc phải: “Bảo đảm cơ sở tư
tưởng hệ cho các cuộc cải cách”; CTTT phải duy trì “vỏ bọc” hệ tư tưởng cũ mà trên
thực tế là hệ giá trị thông thường, cho phép đông đảo dân chúng cảm nhận về tính kế
thừa, tính ổn định, tính tiệm tiến của chuyển động hướng tới những mục tiêu của cải
cách. Và bộ máy tuyên truyền của Đảng Cộng sản từng bước “cấy” những giá trị thị
trường mới vào khuôn khổ hệ tư tưởng hiện thời, làm cho chúng trở nên dễ hiểu và dễ
chấp nhận đối với đông đảo quần chúng nhân dân.

Ngoài ra, trong các tham luận của các học giả Trung Quốc tại

hội thảo

giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc cũng đã thể hiện một số vấn đề liên
quan đến CTTT của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ví dụ: Trong báo cáo “Đấu tranh
chống tệ hủ bại trong thời kỳ mới của cuộc cải cách và mở cửa ở Trung Quốc”, GS.
Điền Tâm Minh đã xác định rõ vai trò của CTTT nói chung và trong phòng, chống tệ hủ
bại nói riêng: “Công tác chính trị tư tưởng của Đảng là yếu tố quyết định của công tác
kinh tế và mọi công tác khác, là khâu trọng tâm đoàn kết toàn Đảng và nhân dân các
dân tộc cả nước”


[94, tr.327] . Và “Qua việc giáo dục tư tưởng, nâng


13

cao phẩm chất tư tưởng chính trị của con người, có thể
phòng, chống tệ hủ bại một cách chủ động và tự giác” [94, tr.327].
1.2. Công trình nghiên cứu ở trong nước
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh hết sức coi trọng vai trò, vị trí của CTTT; coi CTTT là quan trọng hàng
đầu. CTTT của những người cộng sản Việt Nam bắt đầu từ khi Nguyễn Ái
Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam, từ việc viết sách báo, đào tạo cán bộ, cử cán bộ đi vào
phong trào “vô sản hoá” để đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào quần chúng, giác
ngộ quần chúng, xây dựng phong trào, tiến tới thành lập Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của CTTT trong đời sống
xã hội, trong sự nghiệp cách mạng nói chung và xây dựng Đảng nói riêng.
Người cũng yêu cầu toàn thể cán bộ, đảng viên, toàn bộ hệ thống chính trị phải
chủ động, tích cực và sáng tạo trong quá trình thực hiện CTTT. Bản thân
Người cũng là mẫu mực của việc không ngừng đổi mới CTTT để phù hợp với
yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Những chỉ dẫn của Người rất phong phú và
cụ thể, từ nghiên cứu lý luận, tuyên truyền, huấn luyện, cách nói, cách viết,
công tác báo chí...
Là người lãnh đạo CTTT của Đảng ta trong nhiều năm, trong cuốn sách
“Một số vấn đề về CTTT”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1999), đồng chí
Đào Duy Tùng đã có các bài nghiên cứu, bài viết, bài phát biểu có giá trị tổng
kết về CTTT. Cuốn sách đã khẳng định vai trò, vị trí, nhiệm vụ và những ảnh
hưởng, tác động tích cực của CTTT đối với các cuộc cách mạng Việt Nam
trong các thời kỳ và trong công tác xây dựng Đảng; những bài học kinh
nghiệm và phương châm chỉ đạo của CTTT; chống mọi ảnh hưởng của tư
tưởng tư sản, những tàn dư tư tưởng phong kiến, nâng cao chất lượng và đánh

giá hiệu quả CTTT.


14

Cuốn “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm
đổi mới (1986 - 2016)”, do Ban Chỉ đạo Tổng kết 30 năm đổi mới, Ban Chấp
hành Trung ương thực hiện, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật phối hợp với
Hội đồng Lý luận Trung ương ấn hành (2016), “Cuốn sách là công trình tổng
kết lý luận - thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt với sự nghiệp đổi mới toàn
diện mà toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh, nhất là trên lĩnh vực công tác
tư tưởng và công tác nghiên cứu lý luận của Đảng” [39, tr 7]. Cuốn sách cũng
đánh giá một cách hệ thống những gì đã làm được, làm tốt, những gì chưa làm
được, làm chưa tốt, từ đó nhận rõ hơn những vấn đề đang và sẽ đặt ra trong
chặng đường sắp tới, nhất là các vấn đề liên quan đến lĩnh vực công tác tư
tưởng, công tác tuyên giáo của Đảng. Vẫn còn nhiều vấn đề cần phải được
tiếp tục nghiên cứu, luận giải sâu sắc, thấu đáo hơn để định hướng cho nhận
thức, hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; song, điều quan trọng
nhất rút ra qua 30 năm đổi mới chính là: thực tiễn cho chúng ta căn cứ và
niềm tin vững chắc để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ hơn vì
tương lai tươi sáng của dân tộc, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân.
Đấu tranh trên mặt trận tư tưởng là một vấn đề lớn có tầm quan trọng đặc
biệt, nên đã có nhiều bài viết của nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả đề cập tới
trong cuốn “Phê phán các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương
lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam”, của Hội đồng Lý luận Trung
ương, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội (2005). Cuốn sách phê phán
mạnh mẽ các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời
cuốn sách giúp cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là đội ngũ cán
bộ tuyên giáo các cấp nói chung, cấp xã nói riêng nâng cao tinh thần cảnh giác

cách mạng, kiên định lý tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.


15

Cuốn “Luận cứ phê phán các quan điểm sai trái, thù địch”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội (2014), do Hội đồng Lý luận Trung ương ấn hành, đã nêu:
Thực tiễn và thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta hơn 80 năm qua đã
khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Trên
cơ sở tập trung phân tích, nhận dạng các quan điểm sai trái, thù địch, cuốn sách
cũng đưa ra các luận cứ khoa học và thực tiễn phản bác lại các quan điểm, luận
điểm thù địch đó. Cuốn sách phục vụ sinh hoạt công tác tư tưởng tại các cấp ủy
đảng, góp phần tăng cường đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo
vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng từ cấp cơ sở.
Cuốn “Ba mươi năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội (2015), do tập thể các tác giả Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu
Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên).
Cuốn sách đã giúp ta có cái nhìn khái quát: về tổng thể, sau 30 năm thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu trong ba thập kỷ qua,
minh chứng khả năng lãnh đạo và bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng trên
cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
vận dụng trong thời đại mới. Sự hình thành và phát triển đường lối đổi mới
của Đảng ta là một quá trình không ngừng tìm tòi, nghiên cứu lý luận, sáng
tạo, rút kinh nghiệm từ thực tiễn để có những bước đi phù hợp. Tuy nhiên,
cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập
trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Cuốn sách

giúp đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp nói chung, cán bộ tuyên giáo cấp xã
nói riêng nâng cao nhận thức về quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, biết cách phân tích và có thể dự báo một


16

số nhân tố tác động ảnh hưởng đến quá trình đổii mới và phát triển chủ yếu,
nhất là mảng CTTT, lý luận hiện nay.
- Cuốn “Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả CTTT” do Hà Học
Hợi chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia (2002), có ý nghĩa lý luận, thực tiễn đối
với đội ngũ cán bộ làm CTTG của Đảng. Đổi mới và nâng cao chất lượng,
hiệu quả CTTT đòi hỏi phải nghiên cứu, nhận thức sâu sắc cơ sở lý luận, cơ
sở thực tiễn của các lĩnh vực hoạt động CTTG, hoạt động xã hội, dự báo được
tình hình phát triển với những mối quan hệ tác động đến tư tưởng xã hội từ
trong nước và thế giới để trên cơ sở đó tìm những giải pháp phù hợp, có tính
khả thi. CTTT vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Đổi mới và nâng cao chất
lượng, hiệu quả CTTT phải được thực hiện toàn diện, đồng bộ, từ nội dung,
nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ đến phương thức, hình thức, phương tiện hoạt
động. Trong giai đoạn mới, CTTT phải coi trọng bốn mặt chính trị, tư tưởng,
tổ chức và đạo đức, lối sống trong xây dựng Đảng; đặc biệt là tìm được khâu
“then chốt” để tạo được “sự đột phá”. Để tạo “sự đột phá” phải kết hợp giải
quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách trong mối quan hệ mật thiết và
biện chứng.
Cuốn sách “Học tập phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ Chí
Minh” của Hoàng Quốc Bảo, Nxb Chính trị quốc gia (2006), đi sâu nghiên cứu,
tìm hiểu nguồn gốc, những đặc trưng cơ bản của phương pháp tuyên truyền cách
mạng Hồ Chí Minh, thực trạng phương pháp tuyên truyền của đội ngũ cán bộ tư
tưởng và đưa ra những giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả tuyên truyền. Trong
điều kiện hiện nay, khi mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân bước vào thực hiện

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, nhất là đang triển
khai, thực hiện Chỉ thị số 05 - CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về việc đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì cuốn
sách càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và thiết thực đối với đội ngũ cán bộ
tuyên giáo của Đảng, nhất là cán bộ tuyên giáo cấp xã.


17

Cuốn Nguyên lý công tác tư tưởng - Tập I và Tập II, do Lương Khắc
Hiếu chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia (2008), đã trình bày khái quát, đầy đủ,
toàn diện về những vấn đề chung của công tác tư tưởng như: đối tượng, bản
chất, hình thái, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương châm
hoạt động và vai trò của công tác tư tưởng; nội dung và phương thức của công
tác tư tưởng; quản lý, lãnh đạo công tác tư tưởng; kiện toàn bộ máy CTTT;
xây dựng đội ngũ cán bộ tư tưởng; tăng cường sự phối hợp trong CTTT…
- Tác giả Trần Thị Anh Đào trong các năm 2008 và 2009, đã ra mắt hai
cuốn sách chuyên khảo: “CTTT và vấn đề đào tạo cán bộ làm CTTT”, Nxb
Chính trị quốc gia (2008), tái bản lần thứ 2 - có sửa chữa, bổ sung (2010) và
“CTTT trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nxb Chính trị quốc
gia (2009). Các cuốn sách này trình bày một cách có hệ thống các vấn đề về
CTTT như: các khái niệm, nội hàm, cũng như đề xuất một số phương hướng
và giải pháp cơ bản nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả CTTT nói chung, vấn đề
đào tạo cán bộ làm CTTT từ thực tiễn của Học viện Báo chí và Tuyên truyền...
Tuy nhiên, hai cuốn sách nói trên cũng chỉ mới dừng lại ở những vấn đề chung
nhất về mặt lý luận cũng như thực tiễn chung của cả nước, mà chưa làm rõ tính
đặc thù của đối tượng cụ thể, trong đó có cán bộ tuyên giáo cấp xã.
- Tác giả Phạm Tất Thắng, đã xuất bản bộ sách gồm các cuốn: “Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn của CTTT, lý luận”, Nxb Chính trị quốc gia (2010);
“CTTT, lý luận thời kỳ mới: thực trạng, quan điểm và giải pháp”, Nxb Chính trị

quốc gia (2010) và cuốn “Đổi mới CTTT, lý luận phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” của Phạm Tất Thắng (chủ biên) cùng Nguyễn Thúy Anh, Phùng
Văn Đông, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật Hà Nội (2010). Các cuốn sách góp
phần luận giải nội hàm CTTT, lý luận; từ đó đề xuất một số giải pháp tiếp tục đổi
mới CTTT, lý luận của Đảng thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Việc đổi mới CTTT, lý luận là một yêu cầu khách quan, xuất phát từ sự
phát triển của xã hội. “Việc đổi mới CTTT, lý luận cần được thực hiện một
cách đồng bộ, trong đó lý luận là linh hồn, là nền tảng khoa học để thực hiện


18

công tác tư tưởng có hiệu quả, có sức thuyết phục, phù hợp với thực tế khách
quan”[1115, tr.350]. Các cuốn sách cũng đưa ra những dự báo bước đầu về xu
thế tư tưởng trong xã hội một vài thập kỷ tới và nêu ra các nhóm giải pháp
chung để đổi mới CTTT, lý luận.
Cuốn “Những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng của Đảng hiện nay”
của Ngô Huy Tiếp, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội (2011), đã tập trung làm rõ
những vấn đề lý luận cơ bản về CTTT của Đảng trong giai đoạn hiện nay, bao
gồm: tư tưởng và CTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam; lý luận và công tác lý
luận của Đảng Cộng sản Việt Nam; công tác tuyên truyền, cổ động của Đảng;
giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên; cuộc đấu tranh
tư tưởng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Cuốn “Nghiên cứu lý luận phục vụ CTTG” của tác giả Đỗ Khánh Tặng,
Nxb Chính trị quốc gia ấn hành (2012), đã nhấn mạnh, trong quá trình tiến
hành cách mạng ở nước ta, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm
đến CTTT. Trong CTTT thì CTTG giữ vị trí trọng yếu. Văn kiện Đại hội toàn
quốc lần thứ XI của Đảng đã ghi rõ: “Đảng phải ….. nâng cao tính chiến đấu,
tính thuyết phục, hiệu quả CTTT, đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị
trong Đảng,…” [36, tr.57]. Chủ trương đó hàm nghĩa phải nâng cao tính chiến

đấu, tính thuyết phục và hiệu quả CTTG. Ngoài ra, cuốn sách đề cập: tư
tưởng, đạo đức, tác phong, lời nói và việc làm của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
soi sáng lý luận và thực tiễn CTTG; CTTG là một ngành, một nghề của hoạt
động chính trị xã hội. Đã là một nghề thì cần quan tâm đến công tác tuyển
chọn, đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao nhận thức, hiểu biết, kinh nghiệm
chuyên môn và trình độ nghiệp vụ. Cuốn sách cũng chỉ ra mối quan hệ tương
hỗ giữa CTTT với công tác dân vận; những nội dung chủ yếu CTTG cấp
huyện, cấp xã và mối quan hệ của chúng; thế mạnh của văn học - nghệ thuật
phục vụ CTTG, phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ tuyên giáo…


19

II. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG CẤP XÃ
VÀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA BAN TUYÊN GIÁO ĐẢNG ỦY
CẤP XÃ; ĐỔI MỚI TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA BAN TUYÊN
GIÁO VÀ BAN TUYÊN GIÁO ĐẢNG ỦY CẤP XÃ
2.1. Công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Có rất ít công trình nghiên cứu ở ngoài nước về tổ chức cơ sở Đảng
(TCCSĐ) cấp xã và tổ chức hoạt động của BTG cấp xã; đổi mới tổ chức, hoạt
động của BTG cấp xã.
Cuốn “Đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông thôn” (2010), của Chu
Chí Hòa (Trung Quốc) chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, ấn hành năm
2010 đã nêu, Đảng Cộng sản Trung quốc rất coi trọng công tác xây dựng Đảng
ở nông thôn, nhất là cấp xã và chủ trương tăng cường, cải thiện sự lãnh đạo của
Đảng, không ngừng nâng cao trình độ Đảng lãnh đạo công tác nông thôn ở cấp
xã, cấp thôn, tạo sự bảo đảm ổn định chính trị, để thúc đẩy công cuộc cải cách.
Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc, nên những kinh nghiệm
quý trong đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông thôn Trung Quốc có giá trị
tham khảo rất lớn đối với Việt Nam chúng ta. Đặc biệt, những vấn đề, phương

diện đang cần phải đổi mới như cơ cấu tổ chức, công tác giáo dục, quản lý,
giám sát đảng viên, công tác lựa chọn bầu bí thư đảng bộ xã, bổ nhiệm bí thư tổ
chức đảng ở nông thôn, phương thức lãnh đạo của đảng bộ xã, của tổ chức cơ
sở đảng… “Bước vào thế kỷ mới, giai đoạn mới, là người tổ chức, người thúc
đẩy và là người thực hiện công cuộc xây dựng xã hội khá giả toàn diện ở nông
thôn, tổ chức đảng ở nông thôn phải gánh vác trách nhiệm vô cùng nặng nề”
[29, tr.8]
Sách cũng đề cập, muốn đổi mới công tác xây dựng Đảng, thì “việc đầu
tiên cần làm là đổi mới tư duy” [29, tr.10] và “Hai là phải đổi mới chế độ.
Xây dựng chế độ là biện pháp có tính căn bản, chế độ tốt sẽ đem đến hiệu quả


20

cao” [29, tr.10], “Ba là, phải đổi mới hình thức tuyên truyền” [29, tr.10] và
“Bốn là, phải đổi mới cơ chế” [29, tr.10].
Sách cũng chỉ ra chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy các cấp, trong đó nhấn
mạnh “Đối với đảng bộ xã, thị trấn phải bắt tay từ thể chế, cơ chế cải cách để
xây dựng và kiện toàn chế độ dân chủ trong Đảng, phản ánh được đầy đủ ý
nguyện của tổ chức đảng và đảng viên” [29, tr.422].
Cuốn Thế giới phẳng của Thomas L.Friedman (nhà báo, nhà xã hội học
Mỹ) được in và phát hành lần đầu vào 2005, Nxb Trẻ dịch và ấn hành năm
2006. Cuốn sách chỉ ra những vấn đề đương đại về sự vận động phức tạp của
nền chính trị, kinh tế thế giới trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Theo đó, khoa
học, công nghệ thông tin mang lại những lợi ích to lớn nhưng cũng tiềm ẩn
hiểm họa khó lường: “Chúng ta sống trong một thế giới của các phương tiện
truyền thông mới với những cơ hội hiếm có để nghiên cứu là liên lạc toàn cầu,
nhưng thế giới đó cũng đầy những kẻ phá hoại với những đầu óc thâm hiểm”
[120, tr.191]. Tác giả cho rằng, một trong các nguyên nhân làm cho Liên Xô
sụp đổ là do mặt trái của cuộc cách mạng thông tin bắt đầu và đến giữa thập

niên 80: “Các hệ thống độc tài dựa vào sự độc quyền thông tin và vũ lực, và
quá nhiều thông tin đã bắt đầu lọt qua “Bức Màn sắt” nhờ vào sự phổ biến của
các máy fax, điện thoại và cuối cùng là máy tính cá nhân” [120, tr.86].
Cuốn Toàn cầu hóa và tương lai của các nước đang chuyển đổi” của
Grzegorz W.Kolodko, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2006) trình bày những
đặc điểm của toàn cầu hóa và tác động của nó đối với các nước đang phát
triển; đồng thời cuốn sách chỉ ra những vận hội, những bước đi tắt đón đầu,
rút bớt khoảng cách đói nghèo và lạc hậu, cùng với những khó khăn, thách
thức trong quá trình mở cửa, gia nhập sân chơi toàn cầu của các nước đang
phát triển.


21

Cuốn “Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới” của Cục cán bộ,
Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc biên soạn, Nxb Chính
trị quốc gia, ấn hành năm 2005, nêu những tác động của toàn cầu hóa đến hoạt
động của công tác tư tưởng, của truyền thông báo chí; chỉ ra những tác động tích
cực, tiêu cực trong công cuộc mở cửa, hội nhập đến tư tưởng con người.
2.2. Công trình nghiên cứu ở trong nước
- Các cuốn sách, văn bản có liên quan
Cuốn sách “Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta” của Lê
Quốc Lý (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội (2014); chỉ ra
rằng: hệ thống chính trị ở Việt Nam ra đời, phát triển và gánh vác một sứ
mệnh lịch sử vẻ vang, sứ mệnh lịch sử của dân tộc. Trải qua quá trình xây
dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống chính trị nước ta đã
có sự thay đổi, trưởng thành. Đặc biệt, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đất
nước, hệ thống chính trị nước ta đang ngày càng được củng cố, hoàn thiện,
đáp ứng nhiệm vụ xây dựng đất nước trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, đi đôi với
những thành quả thu được, hệ thống chính trị nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều

khiếm khuyết, như: tổ chức bộ máy vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung
gian; chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức trên một số lĩnh vực vẫn còn
chồng chéo. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước ở nhiều nơi chưa đáp ứng đòi hỏi của tình
hình thực tiễn. Trong bối cảnh tình hình chính trị - xã hội hiện nay thì việc đổi
mới và hoàn thiện hệ thống chính trị luôn là một đòi hỏi cấp thiết.
Bài “Những nội dung chính trong đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính
trị ở nước ta” của tác giả Đoàn Thế Hanh, Tạp Chí Cộng sản (số tháng
7/2015), cho rằng, thực tiễn 30 năm qua cho thấy, đổi mới hệ thống chính trị
nước ta là một đòi hỏi khách quan, là một chủ trương đúng của Đảng. Mục
tiêu đổi mới hệ thống chính trị mà Đảng ta đã xác định là: Đổi mới, hoàn


×