Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về xây DỰNG lực LƯỢNG vũ TRANG NHÂN dân và vấn đề xây DỰNG lực LƯỢNG vũ TRANG dưới ÁNH SÁNG tư TƯỞNG HCM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.61 KB, 22 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN
DÂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG DƯỚI ÁNH
SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

1.1. Tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng là một tất yếu
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa
1.2. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng phải trên cơ sở
xây dựng lực lượng chính trị, dựa chắc vào các tổ chức và đoàn
thể cách mạng
1.3. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân phải coi trọng xây dựng về
chính trị, bảo đảm cho lực lượng vũ trang trung thành tuyệt đối với
Đảng, Tổ quốc và nhân dân
1.4. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng tổ chức thành ba thứ
quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích

3

3

5


6
7

2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

2.1. Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo, là
quân đội của dân, do dân, vì dân
2.2. Quân đội nhân dân Việt Nam – đội quân chiến đấu, đội quân công
tác và đội quân sản xuất
2.3. Xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện
trong đó lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở
2.4. Quân đội nhân dân Việt Nam phải tiến lên chính qui và từng bước
hiện đại

9
9
12
13
14

3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG - QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

15

3.1. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về chính trị,
nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực
lượng vũ trang nhân dân
3.2. Những giải pháp cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam

vững mạnh về chính trị dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh

15
18


2

22

KẾT LUẬN
LỜI NÓI ĐẦU

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng là
một bộ phận trong tư tưởng quân sự của Người. Sự hình thành và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nằm trong
tiến trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta nhằm thực hiện đường lối
cách mạng do Đảng đề ra. Đó là một nhân tố rất quan trọng, có ý nghĩa
quyết định thắng lợi sự nghiệp cách mạng ở nước ta.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng giúp học viên có cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc hệ thống các
quan điểm của Người về đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa vũ trang, đồng thời
là cơ sở để nhận thức đầy đủ hơn về sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

1.1. Tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng là một tất yếu
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa


Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng đắn quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về bạo lực cách mạng, kế thừa những kinh nghiệm của dân tộc trong
đấu tranh dựng nước, giữ nước, đồng thời trải qua quá trình hoạt động thực
tiễn lãnh đạo cách mạng. Từ đó, Người chỉ ra tính tất yếu của việc xây dựng
lực lượng vũ trang cách mạng. Đây là một nhân tố cơ bản, làm nòng cốt để
tăng cường sức mạnh bạo lực, bảo đảm cho cách mạng thắng lợi.
Trước hết, Hồ Chí Minh đánh giá đúng bản chất của chủ nghĩa thực
dân, đế quốc. Người đã sớm chỉ rõ: "Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là
một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi" 1. Trong tác phẩm Bản
án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh cũng bàn rất nhiều về "thuế máu" - sự
áp bức, bóc lộc của thực dân, đế quốc đối với nhân dân thuộc địa. Người đã
lên tiếng phê phán chế độ thực dân tàn bạo và chỉ ra rằng: "Muốn giải phóng
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, tr.96.


3

thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực lượng
quân sự. Muốn có lực lượng thì phải có tổ chức…"2.
Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược, tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu là đánh đổ đế quốc
và tay sai, giải phóng dân tộc. Người chủ trương mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tổ chức các đội tự vệ, các tổ du kích cứu quốc và căn cứ địa cách
mạng, chuyển từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh vũ trang.
Theo Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang là một trong hai lực lượng cơ
bản trong đấu tranh cách mạng, là lực lượng nòng cốt trong khởi nghĩa toàn
dân và chiến tranh nhân dân. Mặc dù đánh giá rất cao vị trí, vai trò của lực

lượng chính trị và đấu tranh chính trị nhưng đứng trước kẻ thù hung bạo, Hồ
Chí Minh khẳng định phải xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh, coi đó là
một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cuộc khởi
nghĩa và chiến tranh nhân dân. Những năm 1941-1944 Hồ Chí Minh đã tổ
chức một số đội vũ trang với phương châm là dựa vào dân, vũ trang tuyên
truyền để đi vào quần chúng, xây dựng các căn cứ địa làm chỗ đứng.
Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng, ngày 22/12/1944, tại khu
rừng Sam Cao thuộc Tổng Hoàng Hoa Thám, Châu Nguyên Bình, Tỉnh Cao
Bằng (nay thuộc Xã Cẩm Lý, Huyện Hòa An, Tỉnh Cao Bằng). Đây là tổ chức
tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, quân đội cách mạng ra đời ở một
nước thuộc địa nửa phong kiến, làm nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sớm quan tâm chăm lo tổ chức
xây dựng lực lượng vũ trang làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành khởi nghĩa
vũ trang giành chính quyền năm 1945, lập nên Nhà nước công nông đầu tiên
ở Đông Nam Á. Đây cũng là công cụ bạo lực chủ yếu trong hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đưa dân tộc ta vào thời
kỳ thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần làm tròn nghĩa vụ quốc tế
cao cả.
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.329.


4

Sự ra đời của lực lượng vũ trang và Quân đội nhân dân Việt Nam bắt
nguồn từ nhận thức đúng đắn lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, hiểu rõ tính chất
và yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến. Đó là sản phẩm của đường lối chính trị đúng đắn kết hợp với phong trào

cách mạng của quần chúng, từ lực lượng chính trị mà hình thành, phát triển
lực lượng quân sự.
Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Giành được chính quyền phải giữ chính
quyền, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, đó là điều kiện tiên quyết để
tiến hành thắng lợi công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Do vậy,
phải tiếp tục củng cố, tăng cường sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân
làm nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng phải trên cơ sở
xây dựng lực lượng chính trị, dựa chắc vào các tổ chức và đoàn thể cách mạng

Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vũ trang
cho giai cấp công nhân, vũ trang cho quần chúng cách mạng; đặc biệt là tư
tưởng của V.I.Lênin về xây dựng Hồng quân công nông trên cơ sở vũ trang
nhân dân; kế thừa truyền thống cả nước chung sức, toàn dân đánh giặc của
dân tộc vào thực tiễn cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh luôn coi trọng xây
dựng lực lượng chính trị, chăm lo xây dựng các tổ chức và đoàn thể cách
mạng, coi đây là nền tảng để tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh bạo lực cách mạng ở Việt Nam là bạo lực của quần
chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng, bao gồm hai lực lượng cơ bản là lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang; với hai hình thức đấu tranh chủ yếu là đấu
tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
Lực lượng chính trị theo Hồ Chí Minh bao gồm mọi người Việt Nam
được giác ngộ, được tổ chức trong các đoàn thể cách mạng dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, là lực lượng cơ bản nhất, nền tảng của cách
mạng, là cơ sở để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân. Do đó,
Người rất coi trọng công tác tuyên truyền giác ngộ quần chúng, tập hợp họ
vào các tổ chức đoàn thể cách mạng như Hội Nông dân cứu quốc, Thanh niên



5

cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Binh lính cứu quốc…
Không ngừng chăm lo vun đắp khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân
tộc thống nhất, củng cố khối liên minh công nông vững chắc. Bởi theo Người:
các đoàn thể cách mạng càng phát triển thì càng có cơ sở vững chắc để tổ
chức lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang, chỉ có khối liên minh công
nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ
các thế lực phản cách mạng, ngược lại lực lượng vũ trang phát triển sẽ tạo
điều kiện tăng cường sức mạnh chính trị và đấu tranh chính trị. Do vậy, xây
dựng và phát triển lực lượng vũ trang phải trên cơ sở và gắn liền với xây dựng
lực lượng chính trị, phải dựa chắc vào dân, vào các đoàn thể cách mạng.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân cách mạng phải trên cơ sở xây dựng lực lượng chính trị, dựa chắc vào các
tổ chức và đoàn thể cách mạng, lực lượng vũ trang nhân dân từ những đội Tự
vệ công nông (Tự vệ đỏ) đầu tiên trong cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh
cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh đến các đội vũ trang thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám 1945 như: du kích Bắc Sơn, du kích Nam kỳ, Cứu Quốc
quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân… đều ra đời trên cơ sở lực
lượng chính trị.
Được tổ chức và xây dựng trên cơ sở phong trào quần chúng cách
mạng, lực lượng vũ trang ta luôn có tác dụng cổ vũ và hỗ trợ cho các cuộc đấu
tranh chính trị của quần chúng, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang với
đấu tranh chính trị. Lực lượng vũ trang mới ra đời tuy còn non trẻ, trang bị vũ
khí thô sơ nhưng do dựa chắc vào phong trào quần chúng trên cơ sở lực lượng
chính trị vững mạnh, đã trưởng thành nhanh chóng, xứng đáng là lực lượng
nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, đưa cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn.
Ngày nay, lực lượng vũ trang nhân dân không chỉ làm nòng cốt cho toàn dân
đánh giặc mà còn tham gia bảo vệ Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền

nhân dân, các tổ chức đoàn thể cách mạng, góp phần tích cực vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.3. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân phải coi trọng xây dựng về
chính trị, bảo đảm cho lực lượng vũ trang trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ
quốc và nhân dân


6

Theo Hồ Chí Minh, đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng
lực lượng vũ trang cách mạng. Điều đó xuất phát từ nhận thức đầy đủ những
quan điểm, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng lực lượng vũ
trang, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đánh giá đúng thực tiễn.
Để tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ở một nước thuộc
địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh đưa ra phương châm "người trước, súng
sau". Khi còn ở nước ngoài, Người đã trực tiếp lựa chọn những chiến sĩ cách
mạng trung kiên để gửi đi đào tạo ở nước ngoài. Khi về nước trực tiếp lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, thành lập đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân, Người coi trọng chính trị hơn quân sự: chính trị là
"cái gốc", "cái nền", "quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc,
vô dụng lại có hại"1. Do vậy, xây dựng lực lượng vũ trang phải coi trọng xây
dựng về chính trị cũng là để góp phần giải quyết đúng đắn mối quan hệ đó.
Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
vấn đề cốt lõi là tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bảo đảm sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp của Đảng đối với lực lượng vũ trang. Bởi vì, theo Người,
chính trị của lực lượng vũ trang là chính trị của giai cấp công nhân. Lực lượng
vũ trang do Đảng tổ chức và lãnh đạo không có mục tiêu chiến đấu nào khác
ngoài mục tiêu cách mạng trong đường lối chính trị, đường lối quân sự của
Đảng. Tăng cường bản chất giai cấp công nhân để bảo đảm cho lực lượng vũ
trang đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, trung thành vô hạn với

Đảng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng, "giữ vững con đường chính trị,
tự giác tuân theo kỷ luật cách mạng"2.
Theo Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là một bổn phận
thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là vinh dự của người chiến
sĩ trong quân đội ta. Do vậy, xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị còn
phải tăng cường sự quản lý của Nhà nước, bảo đảm cho lực lượng vũ trang
luôn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của
Đảng và Nhà nước. Coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị còn
bao hàm cả xây dựng, củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân, bảo đảm
cho các lực lượng vũ trang luôn tận tâm, tận lực "phụng sự nhân dân", vì nhân
1

2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.318.
Sự nghiệp và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.65


7

dân quên mình. Người nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ phải luôn giữ nghiêm kỷ luật
trong quan hệ với dân. Tại Hội nghị Chiến tranh du kích (7/1952), Người
nhấn mạnh: "Điểm trọng yếu là, bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân
quân du kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy
dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu. Như vậy thì bất
kỳ việc gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi"1.
1.4. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng tổ chức thành ba thứ quân:
bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích

Thấm nhuần nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về tổ chức quân sự

của giai cấp vô sản; kế thừa những kinh nghiệm của ông cha về tổ chức xây
dựng lực lượng vũ trang vào thực tiễn Việt Nam: một nước nông nghiệp lạc
hậu, chế độ thuộc địa nửa phong kiến, nông dân chiến hơn 90% dân số, Hồ
Chí Minh và Đảng ta chủ trương vũ trang quần chúng rộng rãi đi đôi với xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng tập trung, phối hợp chặt chẽ các hoạt
động xây dựng và tác chiến, vừa có lực lượng thường trực, tác chiến quy mô
lớn, vừa có lực lượng địa phương, dự bị, thực hiện cách đánh du kích. Trong
đó, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng tổ chức thành ba thứ quân: bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.
Tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng gồm ba thứ quân
được nêu trong Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
(12/1944): “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần
phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân" 2. Thực hiện chủ trương này, hệ
thống tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng gồm ba thứ quân ở nước ta được
hình thành: đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - bộ đội chủ lực; các
đội vũ trang thoát ly khỏi các tỉnh, các châu, huyện - bộ đội địa phương; các
đội tự vệ chiến đấu, tự vệ cứu quốc ở làng, xã, xí nghiệp, đường phố và các
đội du kích - lực lượng dân quân tự vệ và du kích.
Về bộ đội chủ lực, Hồ Chí Minh chủ trương: chọn lọc trong hàng ngũ
du kích Cao Bắc Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ
tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra bộ đội chủ lực. Đội quân chủ lực “Tuy
lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi
1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.525.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.507.


8


điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước
Việt Nam”1.
Về bộ đội địa phương, Người chỉ rõ: để thực hiện kháng chiến toàn dân
phải tiến hành vũ trang toàn dân, cho nên phải coi trọng xây dựng bộ đội địa
phương hùng hậu. "Khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần
phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành
động và giúp đỡ về mọi phương diện"2.
Về dân quân du kích, Người xác định: "Dân quân, tự vệ và du kích là
lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của
Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức
tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”3.
Theo Hồ Chí Minh, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du
kích có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, trong xây dựng lực lượng vũ trang
phải biết kết hợp chặt chẽ để phát huy vai trò từng bộ phận, giúp đỡ nhau
trong xây dựng cũng như trong chiến đấu, cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ.
Người chỉ rõ: bộ đội chủ lực "có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa
phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội
này trưởng thành mãi lên"4. Bộ đội địa phương là lực lượng cơ động trên địa
bàn địa phương, cùng dân quân du kích và tự vệ làm nòng cốt cho chiến tranh
nhân dân ở địa phương, đồng thời làm lực lượng hậu bị trực tiếp của bộ đội
chủ lực. Dân quân tự vệ là lực lượng hùng hậu, tiến công địch rộng khắp,
cũng là nơi bổ sung lực lượng cho bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương.
Tổng kết thành tích của lực lượng vũ trang sau 20 năm chiến đấu, xây
dựng và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: "Quân chủ lực, quân địa phương và dân quân ta đã trở thành
những bộ đội anh hùng, quyết chiến quyết thắng"5.
Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức và xây dựng lực lượng
vũ trang cách mạng trong điều kiện thực tiễn Việt Nam đòi hỏi phải coi trọng
1


Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.508.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.507.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.132.
4
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.507.
5
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, tr.11.
2


9

và kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng quân chủ lực với lực lượng vũ trang quần
chúng. Tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân làm nòng cốt
cho toàn dân đánh giặc là hình thức thích hợp nhất để phát huy sức mạnh của
toàn dân tộc, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh đất nước ta, phù hợp với nghệ
thuật quân sự và cách đánh của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

2.1. Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo, là
quân đội của dân, do dân và vì dân

Quân đội nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản vào
điều kiện cụ thể ở Việt Nam; kế thừa truyền thống, kinh nghiệm xây dựng lực
lượng vũ trang chống xâm lược, bảo vệ đất nước của cha ông ta; tiếp thu có

chọn lọc kinh nghiệm xây dựng Hồng quân Liên Xô trước đây cũng như kinh
nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa.
Sự ra đời của quân đội ta gắn liền với phong trào đấu tranh cách mạng
của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong điều kiện một nước thuộc
địa nửa phong kiến. Đồng thời là sản phẩm trực tiếp của đường lối chính trị
và đường lối quân sự đúng đắn của Đảng.
Quân đội ra đời, tồn tại gắn liền với đấu tranh giai cấp và nhà nước, do
đó quân đội nào cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Quân đội
nhân dân Việt Nam do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo, là đội quân mang bản
chất giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời mang tính nhân dân, tính dân tộc
và tính quốc tế cao cả. Theo Hồ Chí Minh, quân đội ta không chỉ là quân đội
của một giai cấp, đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân mà còn là quân đội
của cả dân tộc Việt Nam. Người xác định: "Vệ quốc quân là đội quân của
nhân dân, để bảo vệ đồng bào, giữ gìn Tổ quốc"1, "Bộ đội ta là bộ đội nhân
dân, bộ đội cách mạng"2. Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với

1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.115.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr.307.


10

tính nhân dân, tính dân tộc là một tất yếu khách quan của quân đội cách mạng
ra đời trong điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Quân đội nhân dân Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn
luyện, là quân đội “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, thực hiện
mục tiêu lý tưởng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì tự do, ấm no,

hạnh phúc của nhân dân. Nhân dân theo quan niệm của Hồ Chí Minh bao gồm
mọi giai cấp, tầng lớp, mọi thành phần dân tộc đoàn kết thống nhất dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Do đó, quân đội của dân, vì dân phải là một quân đội thu
hút được mọi công dân yêu nước tham gia. Đó là thành quả của chủ trương vũ
trang toàn dân đồng thời xây dựng một bộ phận làm nòng cốt cho toàn dân
đánh giặc. Thành phần xuất thân của cán bộ, chiến sĩ quân đội đều từ con em
của nhân dân, những người ưu tú trong phong trào và các tổ chức cách mạng,
đó là những cán bộ, đội viên kiên quyết, hăng hái nhất.
Theo Hồ Chí Minh, quân đội của dân và vì dân thể hiện rõ nét nhất ở
mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội ta là vì độc lập, tự do của Tổ quốc,
vì chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó cũng là khát vọng của các tầng lớp nhân dân.
Quân đội của dân, vì dân còn thể hiện ở chức năng, nhiệm vụ của quân đội.
Hồ Chí Minh coi công tác vận động quần chúng, giúp đỡ, bảo vệ dân cũng là
một chức năng cơ bản của quân đội. Khi thành lập đội du kích thoát ly tập
trung, Người chỉ rõ: đội phải vừa là đội quân chiến đấu vừa là đội quân công
tác. Khi thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Người xác
định: đó là đội quân tuyên truyền nhằm tập hợp quần chúng nhân dân và hỗ
trợ cho đấu tranh chính trị của nhân dân. Khi đã giành được chính quyền,
Người ban hành Sắc lệnh thành lập Vệ quốc quân với chức năng, nhiệm vụ là
"bảo vệ đồng bào, giữ gìn Tổ quốc"1.
Quân đội của dân, vì dân còn thể hiện ở tinh thần, thái độ phục vụ nhân
dân, tôn trọng, giúp đỡ, bảo vệ dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Hồ
Chí Minh nêu rõ: “Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà
chiến đấu, yêu nước, yêu dân, cho nên hy sinh kham khổ” 2. Quá trình giáo
dục, rèn luyện bộ đội, Người thường nhắc nhở: "Mình đánh giặc là vì dân,
1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.115.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.722.



11

nhưng mình không phải là "cứu tinh" của nhân dân mà mình có trách nhiệm
phụng sự nhân dân"1. Người cũng yêu cầu bộ đội phải làm sao cho được dân
tin, dân yêu để từ đó nhân dân hết mình giúp đỡ bộ đội hoàn thành nhiệm vụ:
"Bộ đội được dân yêu, dân tin, dân phục thì nhất định thắng lợi" 2. Người
thường xuyên giáo dục bộ đội ta dù ở cương vị nào cũng đều phải cố gắng để
xứng đáng là người đầy tớ trung thành, tận tuỵ của dân, biết kính trọng dân,
thương yêu dân, giúp đỡ dân, dựa chắc vào dân đồng thời phải giữ nghiêm kỷ
luật trong quan hệ với nhân dân, cùng nhân dân chiến đấu và sản xuất.
Thực tiễn hơn nửa thế kỷ xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của
quân đội ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh bản chất cách mạng
của quân đội ta: mang bản chất của giai cấp công nhân, là đội quân của dân,
do dân, vì dân. Quân đội không chỉ trung thành với mục tiêu lý tưởng cách
mạng của Đảng, Nhà nước mà còn thể hiện rõ mối quan hệ gắn bó máu thịt
với nhân dân, được nhân dân yêu mến, đùm bọc, chở che. Đó là một trong
những nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân
đội ta hơn 60 năm qua, góp phần tô thắm truyền thống vẻ vang của quân đội.
2.2. Quân đội nhân dân Việt Nam – đội quân chiến đấu, đội quân công
tác và đội quân sản xuất

Vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam;
kế thừa truyền thống và kinh nghiệm về tổ chức quân sự của dân tộc, Hồ Chí
Minh xác định chức năng của Quân đội nhân dân Việt Nam là: đội quân chiến
đấu, đội quân công tác và đội quân sản xuất.
Hồ Chí Minh coi chức năng đội quân chiến đấu là chức năng cơ bản
nhất, Người nêu rõ “Bộ đội là người đánh giặc để giữ gìn tài sản và tính mệnh
cho đồng bào, để tranh lại thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”3.

Tuy nhiên, phải đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân
dân. Ngay từ khi mới ra đời, Người đã dùng tên gọi: "Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân", nghĩa là chính trị, tuyên truyền giác ngộ quần chúng
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.207.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.480.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.649.
2


12

phải được coi trọng. Người còn căn dặn: “Nhân dân ta là nền tảng, là cha mẹ
của bộ đội… phải làm cho bộ đội được dân tin, dân phục, dân yêu. Muốn như
thế thì phải đốc thúc bộ đội siêng năng giúp dân”1.
Cùng với làm tốt chức năng chiến đấu, chức năng công tác cần làm tốt
chức năng sản xuất để nâng cao đời sống cho bộ đội, giúp đỡ nhân dân sản
xuất. Quân đội phải tích cực tổ chức tăng gia sản xuất ở mọi lúc, mọi nơi.
Theo Hồ Chí Minh, đây là ba chức năng cơ bản có quan hệ thống nhất
biện chứng với nhau, đòi hỏi mọi cán bộ, chiến sĩ và toàn quân tổ chức thực
hiện nghiêm túc, có chất lượng. Người nhấn mạnh: "Bộ đội chủ lực, bộ đội
địa phương và du kích không nên chỉ biết đánh. Biết đánh là cái tốt nhưng chỉ
biết đánh mà coi nhẹ chính trị, kinh tế, tuyên truyền giáo dục nhân dân tức là
chỉ biết có một mặt, vì đánh không thể tách rời được với chính trị và kinh tế"2.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng quân đội
ta từ khi ra đời cho đến nay luôn làm tròn chức năng, nhiệm vụ chiến đấu, vừa
tuyên truyền vận động nhân dân, vừa tham gia sản xuất xây dựng kinh tế, cải
thiện đời sống và giúp đỡ nhân dân. Điều đó đã góp phần vun đắp nên truyền

thống vẻ vang của quân đội.
2.3. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện trong
đó lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở

Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị của cách mạng, từ đặc điểm tổ
chức, hoạt động và tính chất nhiệm vụ quân đội, Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu
phải xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện, lấy xây
dựng chính trị làm cơ sở. Người xác định: “Tư tưởng vững, chính trị vững, kỹ
thuật khá, thân thể khỏe mạnh thì nhất định thắng” 3. Sức mạnh của quân đội
là sức mạnh toàn diện, cả bản chất cách mạng, tính tổ chức, kỷ luật, vũ khí
trang bị, khả năng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi… Vận dụng sáng tạo tư
tưởng của Lênin về sức mạnh chính trị tinh thần trong chiến đấu, Hồ Chí
Minh đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người và vũ khí trang bị
với phương châm "người trước, súng sau". Theo Hồ Chí Minh, sự vững mạnh
về chính trị là cơ sở, nền tảng quan trọng để xây dựng quân đội vững mạnh
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.393.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.523.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.320.
2


13

toàn diện. Người chỉ rõ: "Trong công việc xây dựng và phát triển quân đội,
chúng ta phải ra sức đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố công tác chính trị và
quân sự trong bộ đội ta. Phải nâng cao giác ngộ chính trị, nâng cao chiến thuật
và kỹ thuật, nâng cao kỷ luật tự giác của bộ đội ta. Phải làm cho quân đội ta

thành một quân đội chân chính của nhân dân" 1. Người còn căn dặn: "Muốn
cho quân đội ta quyết chiến quyết thắng hơn nữa thì phải săn sóc đời sống vật
chất của họ, nâng cao trình độ chiến thuật và kỹ thuật của họ, nhất là giáo dục
chính trị, làm cho có lập trường vững chắc, lập trường quân đội của nhân dân
do giai cấp công nhân lãnh đạo"2.
Xây dựng quân đội nhân dân về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh
thì vấn đề cốt lõi là tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng đối với quân đội, làm cho quân đội luôn trung thành với Đảng,
Nhà nước và nhân dân, kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, thực sự là công cụ sắc bén của Nhà nước.
Tư tưởng về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn
diện trên cơ sở vững mạnh về chính trị của Hồ Chí Minh là cơ sở nền tảng chỉ
đạo quá trình xây dựng, trưởng thành lớn mạnh của quân đội ta. Nhờ đó, quân
đội luôn xứng đáng với lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Quân đội ta trung
với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"3.
2.4. Quân đội nhân dân Việt Nam phải tiến lên chính qui và từng bước
hiện đại

Nhận thức đúng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, yêu cầu của nhiệm
vụ quân đội luôn có bước phát triển mới, Hồ Chí Minh xác định: "Chúng ta
phải ra sức xây dựng quân đội ta thành một quân đội nhân dân hùng mạnh,
một quân đội cách mạng tiến lên chính qui và hiện đại”4.
Tính chất chính quy của quân đội theo quan niệm Hồ Chí Minh thể hiện
ở sự thống nhất chặt chẽ về tổ chức biên chế, dựa trên sự thống nhất về điều
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.171.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.464.

3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 11, tr.350.
4
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 9, tr.272.
2


14

lệnh và sự nghiêm ngặt về kỷ luật. Hồ Chí Minh yêu cầu từ bước đi, động tác
chào đều phải chính quy hóa, “Kỷ luật là sức mạnh của quân đội” 1, bộ đội
phải "Quân lệnh như sơn nghĩa là lệnh cấp trên đã ra thì vô luận thế nào cũng
phải làm"2.
Theo Hồ Chí Minh: quân đội chính quy thì phải có sự thống nhất cao về
chính trị tư tưởng và nhằm đạt tới sự thống nhất cả ý chí và hành động. Do
đó, Người yêu cầu mọi cán bộ, chiến sĩ quân đội phải luôn đoàn kết, thống
nhất, có quyết tâm khắc phục khó khăn gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ.
"Trong thái độ, trong tư tưởng, trong hành động, trong chiến đấu, bất kỳ việc
lớn hay việc nhỏ đều phải có quyết tâm làm cho bằng được"3.
Nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến đấu
của quân đội trong thời kỳ khoa học kỹ thuật phát triển, Hồ Chí Minh cho
rằng Quân đội nhân dân Việt Nam phải từng bước hiện đại hoá, phải được
trang bị vũ khí, kỹ thuật ngày càng hiện đại, xây dựng nền khoa học quân sự
phát triển để đáp ứng phương thức tác chiến ngày càng cao. Tuy nhiên, theo
Hồ Chí Minh, chính quy, hiện đại không thể thoát khỏi điều kiện, khả năng
của nền kinh tế, khoa học kỹ thuật nước nhà nên phải tiến hành từng bước
vững chắc. Điều quan trọng là phải khai thác những tiềm năng và thế mạnh
của đất nước, con người Việt Nam, biết kế thừa và phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, nêu cao tự lực tự cường đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ quốc
tế và tận dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật quân sự trên thế giới để

từng bước hiện đại hoá quân đội.
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG VÀ QUÂN
ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

3.1. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về chính trị,
nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ
trang nhân dân

Hiện nay, tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng và phức
tạp. “Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn
giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 8, tr.306.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.108.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.559.
2


15

bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên
nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Các mâu
thuẫn lớn của thời đại vẫn diễn ra gay gắt” 1. Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế cũng đặt ra cho nhiều quốc gia dân tộc những cơ hội và thách thức
mới. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt
đang tạo nên những biến đổi chưa từng có trong lực lượng sản xuất, trong cơ
cấu lực lượng quân sự và phương tiện tiến hành chiến tranh. Thực tế cho thấy:
xây dựng lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu của chiến tranh hiện đại là một

vấn đề cấp thiết đang đặt ra đối với nhiều nước.
Nằm trong bối cảnh chung của quốc tế, Việt Nam còn phải đấu tranh để
ngăn chặn, đẩy lùi những nguy cơ, thách thức đang đe dọa độc lập chủ quyền
của đất nước, của chế độ. Đó là âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", bạo
loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Chúng đang ra sức tuyên truyền chống
phá Đảng, đòi "phi chính trị hoá" quân đội với mục đích là phủ nhận sự lãnh
đạo của Đảng đối với quân đội ta nói riêng và lực lượng vũ trang nói chung.
Do đó, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ
nhận thức đúng những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước. Tăng cường giáo dục bản chất giai cấp công nhân, nâng cao
phẩm chất đạo đức cách mạng cho mọi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, công nhân
viên trong các lực lượng vũ trang. Nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần cảnh
giác cách mạng, làm cho mọi người nhận thức rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn
của kẻ thù, củng cố mục tiêu lý tưởng chiến đấu, niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Xây dựng đảng bộ trong lực lượng vũ trang trong sạch vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng từ Trung
ương đến cơ sở, chú trọng xây dựng các cấp uỷ, đảng bộ, chi bộ cơ sở kể cả
các đơn vị chủ lực, các cơ quan, trường đào tạo trong quân đội và công an
nhân dân. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương đối với bộ đội địa
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2006, tr.73-74.


16


phương, Biên phòng. Mọi hoạt động xây dựng, chiến đấu, huấn luyện và công
tác của quân đội đều phải tuân thủ sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt
của Đảng. Nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng. Thực hiện nghiêm nguyên tắc
tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đề cao tự phê bình và
phê bình, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm, thực hiện tốt cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng lực lượng vũ
trang hiện nay còn phải nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu
của các lực lượng vũ trang. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ
rõ: “Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu để lực lượng vũ trang
thực sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu
mến. Đổi mới tổ chức, nội dung, phương pháp huấn luyện, đào tạo đi đôi với
cải tiến, đổi mới vũ khí, trang bị, phương tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến
mới…"1. Trước hết là nâng cao chất lượng của quân đội, kể cả bộ đội chủ lực,
địa phương và dân quân tự vệ. Trong đổi mới nội dung, hình thức, phương
pháp giáo dục, đào tạo cần nắm vững phương châm: "cơ bản, thiết thực, vững
chắc, đồng bộ và chuyên sâu". Chú trọng tổ chức đào tạo liên thông, liên kết
trong các học viện, nhà trường trong nước và liên kết quốc tế. Đầu tư đào tạo
cán bộ lãnh đạo, chỉ huy tài năng, nhân tài quân sự. Huấn luyện sát với yêu
cầu chiến đấu, theo phương án: kết hợp cách đánh mới với cách đánh truyền
thống; cách đánh của ta với vận dụng kinh nghiệm các nước; kết hợp cách
đánh du kích với chính quy, hiện đại…
Đi đôi với tiếp tục giảm số quân thường trực, cần quay vòng nhanh số
quân phục vụ tại ngũ để xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu. Tiếp
tục đổi mới nội dung, phương pháp tổ chức đăng ký, quản lý, huấn luyện để
không ngừng nâng cao khả năng động viên và sức chiến đấu của quân dự bị,
rút ngắn khoảng cách về trình độ tác chiến so với quân thường trực.

Trong tình hình mới, lực lượng dân quân tự vệ có nhiều thay đổi về tổ
chức, biên chế và hoạt động. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới về mô hình tổ chức
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2006, tr.110-111.


17

dân quân tự vệ cho phù hợp với các tổ chức, thành phần kinh tế, nhất là kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế tư bản nhà nước. Xây dựng lực lượng
dân quân tự vệ rộng khắp nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, kết hợp vũ
khí trang bị thô sơ với tương đối hiện đại và hiện đại, huấn luyện toàn diện,
kết hợp với chuyên sâu. Coi trọng công tác giáo dục, rèn luyện nâng cao bản
lĩnh chính trị, trình độ tác chiến và tham gia xử lý các tình huống tại địa
phương, cơ sở kinh tế, trường học…
Đổi mới công tác nghiên cứu khoa học quân sự phục vụ nhu cầu xây
dựng lực lượng vũ trang trong tình hình mới. Tăng đầu tư thích đáng kể cả
nhân lực và kinh phí để phát triển khoa học nghệ thuật quân sự, nghệ thuật
chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc đáp ứng yêu cầu chống chiến tranh kiểu
mới của địch. Hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể xây dựng tiềm lực khoa học
công nghệ. Có cơ chế, chính sách thu hút, quản lý, sử dụng nhân tài, phát huy
mọi tiềm lực khoa học cả trong và ngoài nước, trước hết là đội ngũ trí thức
trong quân đội và công an nhân dân.
3.2. Những giải pháp cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
vững mạnh về chính trị dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh

- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
trong quân đội.

Xuất phát từ tính chất, đặc điểm hoạt động và chức năng, nhiệm vụ của
quân đội đòi hỏi công tác tư tưởng phải được thường xuyên coi trọng và tiến
hành có hiệu quả. Theo Hồ Chí Minh: "quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo,
nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm" 1. Do đó, Người coi việc giáo dục
nâng cao giác ngộ chính trị, lập trường tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ quân đội
là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sức mạnh chiến đấu của
quân đội. Người yêu cầu phải thường xuyên giáo dục làm cho bộ đội thấm
nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước để nâng cao giác ngộ chính trị đồng thời áp dụng vào
thực tiễn công việc và tuyên truyền vận động nhân dân làm theo. Để giáo dục
chính trị tư tưởng có chất lượng, Người còn nêu lên các nguyên tắc, phương
châm, phương pháp tuyên truyền giáo dục rất hiệu quả như: gắn lý luận với
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.560.


18

thực tiễn, không được máy móc, rập khuôn, phải liên hệ chặt chẽ với cuộc đấu
tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, cán bộ phải nêu gương, giáo dục bằng
hành động chứ không chỉ là lời nói suông…
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, lấy
xây dựng về chính trị làm cơ sở đã trở thành kim chỉ nam cho công tác quản
lý, giáo dục chính trị, tư tưởng trong quân đội, góp phần xây dựng quân đội
vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Tuy
nhiên, hiện nay trước tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường cùng những
biến động phức tạp của tình hình trong nước và thế giới đã tác động mạnh mẽ
đến nhận thức, tư tưởng của bộ đội làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ có
biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, ảnh hưởng tiêu cực đến

việc thực hiện nhiệm vụ và bản chất truyền thống tốt đẹp của quân đội.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
trước hết phải tập trung nâng cao giác ngộ về mục tiêu lý tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; củng cố niềm tin vào con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới đất nước; quyết tâm thực hiện thắng lợi
mọi nhiệm vụ được giao, đấu tranh chống những quan điểm, tư tưởng sai trái,
thù địch. Thường xuyên tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng để định hướng nhận thức
và hành động của bộ đội. Nghiên cứu tổng kết thực tiễn góp phần bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hoàn thiện đường
lối của Đảng, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại và các trào lưu tư
tưởng phản động, những nhận thức và hành động sai trái.
Thường xuyên quán triệt, phổ biến tình hình nhiệm vụ cách mạng,
nhiệm vụ của quân đội, đơn vị đến mọi cán bộ, chiến sĩ để xây dựng động cơ,
trách nhiệm đúng đắn. Giáo dục về bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù để
nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cho bộ đội. Tăng cường giáo
dục truyền thống, lịch sử vẻ vang của dân tộc, của Đảng, của quân đội, nêu
cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức độc lập tự chủ vươn lên, kế thừa và
phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của các thế hệ đi trước. Đẩy mạnh
thực hiện cuộc vận động: "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí


19

Minh". Đấu tranh ngăn ngừa, khắc phục những hiện tượng thoái hoá, biến
chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống…
- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây
dựng và phát huy vai trò của hệ thống tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, các tổ
chức quần chúng trong quân đội.
Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng đối với

quân đội là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức xây dựng quân đội, bảo đảm quân
đội luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên định mục tiêu lý tưởng
chiến đấu, trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, luôn hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: "Quân đội
ta có sức mạnh vô địch vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng,
Đảng ta lãnh đạo và giáo dục"1.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội phải
bao gồm tất cả các lĩnh vực hoạt động: chính trị, tư tưởng, tổ chức; trên tất cả
các mặt công tác: quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật; trong tất cả các nhiệm
vụ: chiến đấu, huấn luyện, xây dựng, lao động sản xuất và làm công tác dân
vận… Muốn vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu phải thường xuyên chăm lo xây dựng
và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, chỉ huy, các tổ chức quần
chúng trong quân đội.
Vận dụng tư tưởng đó trong tình hình hiện nay phải kết hợp chặt chẽ
xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng đơn vị vững
mạnh toàn diện; kết hợp xây dựng cấp uỷ đảng với xây dựng tổ chức chỉ huy,
xây dựng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên, cán bộ chủ trì, chủ chốt; kết hợp
xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên. Coi trọng xây dựng
tổ chức cơ sở đảng và đơn vị cơ sở. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ
chức, sinh hoạt của Đảng. Đổi mới phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc. Duy
trì nghiêm kỷ luật. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lãnh đạo với chỉ
huy và chính uỷ, chính trị viên, tăng cường sự đoàn kết thống nhất cao trong
đảng bộ, đơn vị.
Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức quần chúng
như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Công đoàn. Phải
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 11, tr.350.



20

có nội dung, chương trình, kế hoạch hoạt động cụ thể, thiết thực, hấp dẫn, thu
hút đông đảo quần chúng tham gia. Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nòng
cốt của các tổ chức quần chúng về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực,
phương pháp, tác phong công tác quần chúng. Xây dựng đội ngũ đoàn viên,
hội viên đủ về số lượng, chất lượng cao, nhất là trình độ giác ngộ chính trị, ý
thức tổ chức, kỷ luật.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên làm nòng cốt, thực hiện tốt chính
sách đối với cán bộ, chiến sĩ, chính sách hậu phương quân đội.
Để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, Hồ Chí Minh coi việc
xây dựng đội ngũ cán bộ là công việc gốc. Phải có đội ngũ cán bộ vững mạnh
toàn diện, cả đức và tài, trong đó đức là gốc. Người chỉ rõ: "Trong quân đội,
nhiệm vụ của người tướng là: Phải: trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung" 1… Đối
với từng cán bộ, căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ được giao đều có những yêu
cầu riêng về phẩm chất, năng lực. Hồ Chí Minh yêu cầu các cấp lãnh đạo phải
thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và
thực hiện chính sách cán bộ, coi đó là biện pháp cơ bản để xây dựng đội ngũ
cán bộ vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Trong tình hình hiện nay, phải tập trung nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý,
chất lượng cao. Trong đó coi trọng chất lượng chính trị, kết hợp hài hoà giữa
phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực, phương pháp, tác phong công tác
theo yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình cán bộ. Kết hợp chặt
chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng với bố trí sử dụng hợp lý và chính sách đãi ngộ
thích đáng nhằm khuyến khích cán bộ tham gia đào tạo, tự đào tạo, bồi dưỡng
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Phải thực sự quan tâm chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của bộ
đội, thực hiện tốt công tác chính sách. Đó cũng là điều kiện bảo đảm xây
dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Tăng cường giáo dục nâng cao ý thức

trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi lực lượng, trước hết là các cấp lãnh đạo, chỉ
huy, cơ quan chuyên môn về thực hiện chính sách trong quân đội. Tổ chức
thực hiện tốt chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp, chính sách ưu đãi, chính
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.479.


21

sách bảo hiểm xã hội, bảo đảm đời sống, chính sách thương binh, gia đình liệt
sĩ, đãi ngộ người có công với cách mạng, chính sách hậu phương quân đội…
Phát huy vai trò của các cấp, các ngành trong và ngoài quân đội; kết hợp Nhà
nước và nhân dân cùng làm đồng thời nâng cao tinh thần tích cực, chủ động
của từng đơn vị trong thực hiện công tác chính sách.


22

KẾT LUẬN

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam, người sáng lập, giáo dục và rèn luyện quân đội ta. Mỗi
bước trưởng thành và chiến thắng của các lực lượng vũ trang Việt Nam đều
gắn liền với công lao to lớn của người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là
một bộ phận quan trọng trong di sản tư tưởng quân sự của Người để lại cho
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Đó là hệ thống những luận điểm rất có giá
trị về tổ chức xây và nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang ba
thứ quân, trong đó lấy xây dựng về chính trị làm nền tảng. Tư tưởng đó mãi

mãi là kim chỉ nam, chỉ đạo toàn bộ công tác xây dựng lực lượng vũ trang nói
chung, xây dựng quân đội ta nói riêng.



×