Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề KINH tế CHÍNH TRỊ CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.03 KB, 20 trang )

2
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
LỜI NÓI ĐẦU

Mỗi phương thức sản xuất chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc
trên cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định. Do vậy, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
là yêu cầu khách quan của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay chính là từng bước tạo ra cơ sở
vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đây là nhiệm vụ kinh tế cơ bản có ý
nghĩa quyết định tới thắng lợi của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN
ĐẠI HOÁ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá

- Quan niệm của Đảng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội
từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra
năng suất lao động xã hội cao.”1
Quan niệm trên cho thấy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình
kinh tế rộng lớn, toàn diện bao gồm các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế - xã hội. Đồng thời, xác định rõ vai trò quan trọng của công
nghiệp, khoa học công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chỉ
rõ nội dung cốt lõi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến lao
động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt


tới năng suất lao động xã hội cao. Nội hàm của nó không chỉ là sự kế thừa có
chọn lọc các quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà còn thể hiện tư duy

1

Đảng CSVN: Văn kiện hội nghị BCH TW VII khoá VII, Nxb CTQG, H, 1994, tr.65


3
sáng tạo của Đảng ta trong vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới.
- Đặc điểm của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Thứ nhất, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá.
Mục đích nhằm rút ngắn và nâng cao hiệu quả của quá trình công
nghiệp hoá ở nước ta. Trước đây và hiện nay, công nghiệp hoá ở nước ta ít
nhiều đã tiến hành theo hướng hiện đại hoá. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay
có khác hơn do có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ trong
những thập kỷ gần đây, khái niệm hiện đại hoá luôn được bổ sung bằng
những nội dung với phạm vi bao quát nhiều mặt từ sản xuất, kinh doanh đến
dịch vụ, quản lý… Hơn nữa, tương ứng với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá ở nước ta hiện nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ yêu cầu công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá còn là đòi hỏi ngày càng
bức bách.
Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá tiến hành trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình này được tiến hành trong điều kiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong việc phân bố
các nguồn lực cho sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế, xác định mục tiêu,
bước đi, biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Thứ ba, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân với sự
tham gia tích cực của tất cả các thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo.
Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo xu thế quốc tế hoá và hội
nhập kinh tế thế giới, tham gia phân công lao động và hợp tác quốc tế.
1.2. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

- Xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về công nghiệp hoá.
Tất cả các nước có nền kinh tế chậm phát triển, đặc biệt những nước
còn phổ biến là nền sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá. Bởi vì, mỗi phương thức


4
sản xuất chỉ có thể được xác lập vững chắc trên cơ sở vật chất kỹ thuật tương
ứng. Chủ nghĩa xã hội cũng vậy, muốn tồn tại và phát triển tất yếu phải xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một nền
sản xuất xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố của lực lượng sản xuất xã hội
phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng
để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội. Trong hệ thống đó, công
cụ lao động là yếu tố cực kỳ quan trọng, là xương sống của nền sản xuất xã hội,
là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. C.Mác đã đưa ra lời
nhận xét có tính chất phương pháp luận như sau:
“Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái
gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”1.
Trong lịch sử phát triển xã hội, sự thay thế kế tiếp nhau của các phương
thức sản xuất, cũng chính là quá trình thay đổi về chất trong cơ sở vật chất kỹ
thuật của xã hội. Phương thức sản xuất ra đời sau do có sự kế thừa những yếu
tố tích cực, tiến bộ từ xã hội trước đó và phát triển cao hơn, do vậy, xét về bản

chất phương thức sản xuất ra đời sau bao giờ cơ sở vật chất kỹ thuật cũng có
trình độ cao hơn phương thức sản xuất trước. Cho đến nay, lịch sử loài người
đã trải qua bốn hình thái kinh tế - xã hội và đang trong thời đại quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Các hình thái kinh tế - xã hội trước chủ
nghĩa tư bản, đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật là công cụ thủ công và công
nghệ sản xuất lạc hậu. Đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là
nền đại công nghiệp cơ khí.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, là nền sản xuất lớn hiện
đại có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hoá cao dựa trên trình độ khoa
học kỹ thuật tiên tiến, được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
V.I.Lênin khẳng định: “Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp”2
Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại, phát triển, cần phải có một nền kinh tế
tăng trưởng và phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất. Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội được
1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia H 2002, tập 23, tr 269.
V.I.Lênin: Toàn Tập, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1970, tập 32, tr.595


5
xây dựng trên cơ sở những thành tựu mới nhất, tiên tiến nhất của khoa học và
công nghệ; tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản chỉ có
như vậy mới chiến thắng được hoàn toàn và triệt để chủ nghĩa tư bản. Nó phải
thể hiện được những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ ở mức có
thể đảm bảo sử dụng mọi nguồn lao động trong xã hội, bảo đảm những nhu cầu
vật chất cho toàn xã hội phù hợp với trình độ phát triển cao của lực lượng sản

xuất mà nhân loại đã đạt được. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là quá
trình tạo ra nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật đó cho chủ nghĩa xã hội.
Các nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lực lượng sản xuất còn
kém phát triển; quan hệ sản xuất mới còn non yếu; kiến trúc thượng tầng chưa
hoàn thiện, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nghèo nàn và lạc hậu,…
Để xây dựng xã hội - xã hội chủ nghĩa văn minh hơn, tốt đẹp hơn nhất thiết
phải tiến hành công nghiệp hoá đất nước nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa.
- Xuất phát từ đặc điểm của nền kinh tế nước ta.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
nền kinh tế chậm phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến, cơ sở vật chất kỹ thuật
nghèo nàn, lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, quan hệ sản xuất
mới xã hội chủ nghĩa mới thiết lập chưa được hoàn thiện… Vì vậy, tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là đòi hỏi khách quan để từng bước xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và là cơ sở để
xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, mỗi
bước phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tác động làm cho quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa từng bước được củng cố, hoàn thiện và mở rộng trên cả ba
mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ tổ chức quản lý; quan hệ
phân phối sản phẩm xã hội. Sự phát triển và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ sở đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Đồng
thời, tạo những điều kiện kinh tế - xã hội vững chắc cho chế độ xã hội chủ
nghĩa phát triển.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện kinh tế để củng cố và
phát triển khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông


6
dân và đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vai trò

lãnh đạo của giai cấp công nhân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội được
nâng cao, quan hệ về kinh tế giữa các dân tộc, vùng miền của đất nước ngày
càng phát triển. Đặc biệt là góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đảm bảo
cho Nhà nước có đủ sức mạnh vật chất cần thiết để điều tiết, định hướng xã
hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường, đảm bảo và nâng cao đời sống nhân dân.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ tạo ra điều kiện vật chất để xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát triển văn hoá, xã hội, củng cố quốc
phòng an ninh và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mỗi bước tiến của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ là mỗi bước tạo ra diện mạo mới cho
các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá nghệ thuật, thể dục, thể thao,…
Cùng với tiến trình phát triển của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
sẽ đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn với chất lượng cao hơn những yêu cầu về
trang bị kỹ thuật, hậu cần… cho quân đội và nền quốc phòng toàn dân. Từng
bước nâng cấp và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của nền quốc phòng như hệ thống
giao thông vận tải, thông tin liên lạc, năng lượng, công trình quốc phòng…
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ thúc đẩy và tạo điều kiện để hiện đại hoá vũ
khí, trang bị kỹ thuật chiến đấu của quân đội và lực lượng vũ trang, cung cấp
cho nền quốc phòng toàn dân, quân đội nhân dân những công dân đại diện cho
lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại với tính xã hội hoá cao, có lòng yêu Tổ
quốc, lao động sáng tạo, có tri thức tiên tiến, hiện đại, có tính tổ chức và kỷ
luật. Những điều đó thực sự cần thiết, phù hợp với yêu cầu xây dựng củng cố
nền quốc phòng toàn dân, xây dựng “quân đội nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.
Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình có tác dụng nhiều
mặt, là con đường phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội, là điều kiện đảm bảo cho sự thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội ở một nước có điểm xuất phát thấp như nước ta.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một tất

yếu khách quan. Chính vì vậy, khi bước vào thời kỳ quá độ, ngay từ Đại hội III


7
(1960), Đảng Lao động Việt Nam đã xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ. Thực tiễn, nước ta đã xây dựng cơ cở vật chất
kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất ở miền Bắc, trở thành hậu phương lớn chi
viện sức người, sức của cho giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trong
công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước Đảng ta xác định công nghiệp hoá phải
gắn với hiện đại hoá. Đặc biệt, trong điều kiện thành tựu khoa học công nghệ
phát triển, thế giới đang bước vào thời kỳ phát triển kinh tế tri thức, Đảng ta đã
chủ trương “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế
tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ”. Chính sự vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện đất nước,
hoàn cảnh khu vực và thế giới đã tạo điều kiện cho nước ta đạt được “những
thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử” trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua được Đại
hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X đánh giá: Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá
nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ
rệt,… chính trị xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, quan hệ
đối ngoại có bước phát triển mới…
2. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM VÀ NỘI DUNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN
ĐẠI HOÁ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

2.1. Mục tiêu và những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá

- Mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
Mục tiêu lâu dài là xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hiện

đại, có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, dựa trên một nền khoa
học và công nghệ tiên tiến, tạo ra lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất
ngày càng tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, củng cố quốc phòng an
ninh, nâng cao khả năng hợp tác phát triển với bên ngoài, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


8
Mục tiêu trước mắt là sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển; phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
- Quan điểm chỉ đạo quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng.
Để thực hiện mục tiêu trên Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những quan
điểm chỉ đạo như sau:
+ Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế. Dựa vào nguồn lực
trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài trên cơ sở
xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh
về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước
sản xuất có hiệu quả.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân của mọi
thành phần kinh tế trong đó thành phần kinh tế nhà nước là chủ đạo.
+ Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần, kiệm xây dựng đất nước,
không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn liền
với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
+ Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi

nhanh vào công nghệ hiện đại ở những khâu quyết định.
+ Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương
án phát triển lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác
tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới ưu tiên quy mô vừa và
nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh. Đồng thời, xây
dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả.
+ Kết hợp chặt chẽ và toàn diện phát triển kinh tế với củng cố, tăng
cường nền quốc phòng an ninh của đất nước.
Nhằm đáp ứng những yêu cầu mới trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, Đảng ta nhấn mạnh: “Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình


9
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của
nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá”1.
Những quan điểm nêu trên phản ánh tư duy mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện hiện nay. Đó chính là sự tổng kết kinh nghiệm từ những thành
công và thất bại của quá trình tiến hành công nghiệp hoá ở Việt Nam trước
đây và những mô hình khác nhau trên thế giới.

2.2. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam

- Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trước hết bằng việc cơ khí hoá
nền sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng những thành tựu cách mạng khoa học
và công nghệ.
Cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến lao động thủ công,

lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt năng suất lao
động xã hội cao. Muốn vậy, phải thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá và tự
động hoá sản xuất trước hết là cơ khí hoá một cách phổ biến. Cơ khí hoá lao
động thay thế lao động thủ công là một trong những phương hướng chủ yếu
của tiến bộ kỹ thuật trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và là
một nhân tố quan trọng hàng đầu ở nước ta hiện nay trong việc nâng cao năng
suất lao động, giảm nhẹ điều kiện lao động, nâng cao trình độ văn hoá và kỹ
thuật của người lao động.
Đó là bước chuyển đổi rất căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền
kinh tế công nghiệp. Đi liền với cơ khí hoá là điện khí hoá và tự động hoá sản
xuất từng bước và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải xây dựng phát triển mạnh mẽ các ngành công
nghiệp trong đó then chốt là ngành chế tạo tư liệu sản xuất nhằm bảo đảm cải
tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

1

Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X, Đảng CSVN, Nxb CTQG, H. 2006 tr 87


10
Hơn nữa, đối tượng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tất cả các
ngành kinh tế quốc dân, trong đó các ngành công nghiệp chế tạo tư liệu sản
xuất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì các ngành này giữ vị trí then chốt trong
việc thúc đẩy sự phát triển của những ngành khác. Việc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá các ngành công nghiệp, công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm
cũng có vị trí quan trọng, nhất là trong giai đoạn đầu khi bắt đầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, khi phải giải quyết những vấn đề
bức bách như tạo việc làm, tăng cường khả năng xuất khẩu… Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá các ngành các khâu của nền kinh tế đòi hỏi phải được tiến

hành đồng bộ, cân đối có như vậy mới tạo điều kiện cho nền sản xuất xã hội
phát triển thuận lợi, đạt tốc độ nhanh, đồng thời mới phát huy được hiệu quả
của chính quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quy mô, cơ cấu, tỷ trọng của các ngành công nghiệp phải phù hợp với
điều kiện, tiềm năng, yêu cầu của nền kinh tế và phù hợp với khả năng, trình
độ tham gia vào phân công lao động quốc tế của đất nước trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định. Hơn nữa, mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
còn là sử dụng kỹ thuật công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại nhằm đạt
năng suất lao động xã hội cao. Tất cả điều đó chỉ có thể thực hiện được trên
cơ sở một nền khoa học công nghệ phát triển đến một trình độ nhất định.
Ngày nay, khoa học công nghệ của thế giới đang có sự phát triển như vũ bão,
trong đó khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và công nghệ trở
thành nhân tố quyết định chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất cũng như khả
năng cạnh tranh của hàng hoá, hiệu quả của sản xuất kinh doanh thì khoa học
công nghệ phải là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phát triển khoa học công nghệ trong điều kiện Việt Nam hiện nay cần
chú ý tới những vấn đề sau:
Thứ nhất: phải xác định được những phương hướng đúng đắn cho sự
phát triển khoa học công nghệ trong điều kiện đội ngũ cán bộ khoa học công
nghệ của Việt Nam còn nhỏ bé, chất lượng thấp, khả năng về vốn, phương
tiện nghiên cứu hạn hẹp… Phương hướng chung là: phát huy những lợi thế
của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến đặc
biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày


11
càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa
học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Thứ hai: phải tạo dựng được những điều kiện cần thiết cho sự phát triển
khoa học công nghệ như; đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có số lượng đủ

lớn chất lượng cao, đầu tư ở mức cần thiết, các chính sách kinh tế xã hội phù
hợp với con đường và biện pháp thực hiện đó là: phát triển năng lực nội sinh
thông qua việc ứng dụng khoa học công nghệ. Chọn giải pháp khoa học và
công nghệ phù hợp với điều kiện Việt Nam vừa tận dụng các cơ sở hiện có
vừa đầu tư mới theo chiều sâu. Cải tiến, nâng cấp, hiện đại hoá các công nghệ
truyền thống, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
và nông dân. Tranh thủ công nghệ tiên tiến đặc biệt với các dự án đầu tư nước
ngoài, giám định nghiêm ngặt việc nhập khẩu thiết bị công nghệ. Bảo vệ môi
trường sinh thái trong chuyển giao công nghệ. Nâng cao năng lực khoa học
công nghệ, đổi mới và làm chủ công nghệ nhập, sáng tạo công nghệ mới.
Tăng cường đầu tư vốn cho phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý và hiệu quả.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng là quá trình chuyển đổi
cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả. Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là cấu tạo
hay cấu trúc của nền kinh tế bao gồm các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các
thành phần kinh tế… và mối quan hệ hữu cơ giữa chúng. Trong cơ cấu của
nền kinh tế thì cơ cấu ngành kinh tế là quan trọng nhất quyết định các hình
thức cơ cấu kinh tế khác. Cơ cấu kinh tế hợp lý là điều kiện để nền kinh tế
tăng trưởng phát triển. Vì vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải xây
dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý tiến bộ khi tỷ
trọng khu vực công nghiệp và xây dựng đặc biệt là tỷ trọng khu vực dịch vụ
ngày càng tăng, tỷ trọng khu vực nông lâm ngư nghiệp và khai khoáng ngày
càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm xã hội.
Cơ cấu kinh tế hợp lý trong một nền kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi
công - nông nghiệp - dịch vụ phát triển mạnh mẽ và đồng bộ. Kinh tế dịch vụ
phát triển tạo điều kiện phục vụ tốt hơn cho sự phát triển các ngành công
nghiệp và nông nghiệp.



12
Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu
sau đây: Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng, công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ phải tăng dần về tỷ trọng. Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến
bộ phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra
như vũ bão trên thế giới; cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước,
của các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế; thực hiện phân công và
hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hoá. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt
Nam trong những năm trước mắt cần thực hiện theo định hướng chung đó là:
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh
của đất nước tăng sức cạnh tranh gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài
nước, nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng, an ninh. Tạo thêm sức mua của
thị trường trong nước và mở rộng thị trường ra nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu.
Về cơ cấu kinh tế ngành: đây là cốt lõi của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn theo hướng
phát triển nông – lâm – ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng
nông thôn mới, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu hiện nay. Đó cũng là
cơ sở để xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo cho tính
bền vững của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Cùng với
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn là tăng tốc tỷ trọng của công
nghiệp. Phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong
nước và đẩy mạnh xuất khẩu trước hết là công nghiệp chế biến và công
nghiệp tiêu dùng, chọn lọc phát triển một số ngành công nghiệp nặng, các
ngành công nghệ cao. Phát triển và nâng cao chất lượng ngành dịch vụ trước
hết là thương mại, tài chính, vận tải, bưu chính viễn thông.
Đảng ta xác định: “Về cơ cấu ngành trong GDP năm 2010: tỷ trọng nông
nghiệp 15 – 16%, công nghiệp và xây dựng 43 – 44%, dịch vụ 40 – 41%”1.
Về cơ cấu kinh tế vùng: Phát huy vai trò đầu tầu của các vùng kinh tế
trọng điểm. Đầu tư thích đáng vào ba vùng kinh tế trọng điểm Bắc – Trung –
Nam và một số khu đô thị lớn, khu đô thị vệ tinh gắn với tạo điều kiện cho các

vùng đều phát triển, giảm sự chênh lệch về nhịp độ phát triển giữa các vùng.

1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Đảng CSVN, Nxb. Chính trị guốc gia. H, 2006 tr,188.


13
Về cơ cấu thành phần kinh tế: Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
theo quan điểm Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng có 5 thành
phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nhằm giải phóng
sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, đồng thời giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta, chính là quá trình thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo đó, tỷ trọng và số
lao động trong nông nghiệp giảm dần. Tỷ trọng và số lao động trong công
nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Tỷ trọng lao động có hàm lượng trí tuệ
ngày càng tăng, chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã
hội. Tốc độ tăng lao động trong các ngành dịch vụ nhanh hơn tốc độ tăng lao
động trong các ngành sản xuất vật chất.
Tóm lại, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải thực hiện hai nội dung cơ bản. Hai nội
dung này có quan hệ chặt chẽ vừa là tiền đề, vừa là điều kiện cho nhau. Do
đó, không nên tuyệt đối hoá nội dung này mà xem nhẹ nội dung kia. Hơn nữa,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là nhằm xây dựng chủ
nghĩa xã hội chứ không phải là để xây dựng chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, phải
củng cố và tăng cường địa vị chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa,
tiến tới xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong

toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cái đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân phát
triển theo hướng của chủ nghĩa xã hội là ở chỗ cùng với việc phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất thì đồng thời phải xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa mà nền tảng là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, có
như vậy mới tạo cơ sở kinh tế để thực hiện quyền làm chủ vững chắc của
người lao động.
2.3. Định hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát
triển kinh tế tri thức trong những năm tới.

Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông
thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.


14
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình
chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra
giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường,
thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học
kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng
và sức cạnh tranh, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng địa phương.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn,
bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp, xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân ở nông thôn.
Đây là vấn đề lớn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bởi vì
công nghiệp hoá là quá trình thu hẹp nông nghiệp, nông thôn và gia tăng công
nghiệp, xây dựng, dịch vụ. Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, nguyên
liệu cho công nghiệp và thành thị, là thị trường rộng lớn của công nghiệp và
dịch vụ. Nông thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm khi bắt đầu công nghiệp
hoá,… Ở nước ta, trong những năm qua, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn được đặt ở vị trí quan trọng. Hơn nữa, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cũng nhằm xây dựng khối
liên minh công – nông - trí thức ngày càng vững chắc đảm bảo lực lượng cách
mạng hùng hậu cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng, sự
nghiệp cách mạng của Đảng nói chung. Đây là vấn đề lớn, có tầm quan trọng
cho sự phát triển đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả.
Chính vì vậy, Đảng ta đã ra Nghị quyết chuyên đề về “nông nghiệp, nông
dân, nông thôn” coi đây là nhiệm vụ rất quan trọng, có ý nghĩa to lớn cả trước
mắt và lâu dài, đây luôn là nhiệm vụ chiến lược của Đảng ta. Trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
nông nghiệp, nông thôn tiếp tục giữ vị trí quan trọng: nông nghiệp là cơ sở,
nông thôn là địa bàn, nông dân là lực lượng đông đảo góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, ổn định chính trị xã hội và đảm bảo an ninh - quốc phòng.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải hỗ trợ mạnh mẽ cho nông
nghiệp, nông dân, nông thôn và: “trong mối quan hệ đó thì nông dân là chủ
thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với các cơ sở công


15
nghiệp, dịch vụ, phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản, hiện đại hoá
nông nghiệp là khâu then chốt”1.
Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân phải dựa trên cơ
sở phát huy cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều
kiện địa lý của từng vùng của nước ta, giải phóng và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực xã hội trước hết là đất đai, lao động, rừng và biển, phát huy sức
mạnh hội nhập quốc tế đồng thời tăng mạnh sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước,
kết hợp ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ, phát triển nguồn
nhân lực. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn là nhiệm vụ
của cả hệ thống chính trị, phải huy động sức mạnh của cả nước, phát huy nỗ
lực to lớn trong cư dân nông thôn, xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà

thuận, dân chủ có đời sống văn hoá phong phú làm động lực cho quá trình
phát triển. “Mục tiêu tổng quát của quá trình này là không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, xây dựng nền nông nghiệp
phát triển toàn diện theo hướng hiện đại. Đến năm 2020 lao động trong nông
nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, lao động nông thôn qua đào tạo đạt
trên 50%, số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.”2
Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế
tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp hỗ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo
nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu
kinh tế mở và đặc khu kinh tế. Phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng
theo hướng hiện đại.
Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Tạo bước chuyển
vượt bậc của các ngành dịch vụ nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm
năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ cao
hơn tốc độ tăng trưởng GDP.
Ba là, phát triển kinh tế vùng.
Phát triển các vùng trong cả nước và tạo sự liên kết giữa các vùng, nội
vùng; thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực, tác động
1
2

Đảng CSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương khoá X, H 2008, tr 124
Đảng CSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương khoá X, H 2008, tr125, 126


16
lan toả đến các vùng khác đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh hơn cho
các vùng kinh tế đang còn nhiều khó khăn.

Bốn là, phát triển kinh tế biển.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 được
Nghị quyết Trung ương IV khoá X xác định: Đến năm 2020 phấn đấu đưa
nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững
chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo góp phần quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh.
Để phát triển bền vững và thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì phát triển
kinh tế nói chung và phát triển kinh tế biển nói riêng phải gắn chặt chẽ với bảo
đảm quốc phòng an ninh và ngược lại phải bảo đảm phát triển kinh tế bền vững,
xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, toàn diện trên vùng biển, đảo.
Năm là, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ (đến 2010 tỉ lệ
lao động trong khu vực nông nghiệp còn dưới 50% lực lượng lao động xã hội.)
Sáu là, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện
môi trường tự nhiên.
3. NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ THỰC HIỆN THẮNG LỢI SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một cuộc cải biến cách mạng từ xã
hội nông nghiệp trở thành một xã hội công nghiệp. Đó cũng là cuộc cải biến
cách mạng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, thực hiện thành
công sự nghiệp này đòi hỏi phải có những điều kiện, tiền đề cần thiết. Xuất
phát từ thực trạng kinh tế, văn hoá, xã hội của Việt Nam để đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải không ngừng tạo dựng
những tiền đề sau:
3.1. Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả

Đây là tiền đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và trình độ
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Vốn để công nghiệp hoá, hiện đại hoá có hai nguồn: nguồn vốn trong

nước và nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong nước được tích luỹ từ nội
bộ nền kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở hiệu quả sản xuất, là lao động thặng


17
dư của tất cả các thành phần kinh tế. Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề
tích luỹ vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hoá sản xuất. Biện pháp để tăng nguồn
vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội để tạo nên nguồn vốn cho
tích luỹ, khai thác và sử dụng tốt quỹ lao động, tập trung sức phát triển nông
nghiệp, công nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Ngoài ra, cần khuyến
khích tiết kiệm và đấu tranh triệt để chống nạn tham nhũng, lãng phí…
Nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định vì nó là nhân tố bên trong
bảo đảm cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, là tiền đề để huy
động và sử dụng nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả… Do đó việc đề cao nội
lực là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn.
Bên cạnh đó, cần phải tận dụng mọi khả năng để thu hút các nguồn vốn
từ bên ngoài. Đây là nguồn vốn có vai trò quan trọng không những giúp các
nước nghèo khắc phục một phần khó khăn về vốn trong thời kỳ đầu mà còn
góp phần nâng cao trình độ quản lý và công nghệ, tạo việc làm cho người lao
động. Tranh thủ nguồn vốn bên ngoài là một nhân tố đẩy nhanh thành công của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sử dụng nguồn vốn nước
ngoài là cần thiết nhưng cần cân nhắc và lựa chọn. Trong điều kiện nền kinh tế
thị trường hiện nay, việc huy động được nguồn vốn là rất cần thiết song vấn đề
có ý nghĩa quyết định lại là nguồn vốn đó được sử dụng ra sao, có hiệu quả hay
không. Vốn nếu không được đầu tư đúng hướng, hiệu quả sẽ gây lãng phí, ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế xã hội thậm chí dẫn đến khủng hoảng,
suy thoái nền kinh tế quốc dân. Thực tiễn trên thế giới cũng như ở nước ta
trong thời gian vừa qua đã cho thấy rõ vấn đề này. Việc đầu tư vào các “dự án
treo”; đầu tư vào bất động sản, nguồn vốn cam kết nước ngoài hàng năm nhiều

nhưng số vốn thực thi lại không đáng kể và hiệu quả,… Tất cả những điều đó
đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói
riêng, quá trình phát triển kinh tế xã hội đất nước nói chung đòi hỏi chúng ta
cần phải quan tâm giải quyết.
3.2. Đào tạo nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định tốc độ và chất lượng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.


18
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ đòi hỏi phải có vốn, kỹ thuật,
tài nguyên,… mà còn phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con
người sử dụng những phương tiện đó. Nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm những con người có đức, có tài, ham học
hỏi, thông minh, sáng tạo làm việc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh
của Tổ quốc, được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo
về kỹ năng nghề nghiệp, năng lực sản xuất kinh doanh, về điều hành vĩ mô
nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa học kỹ thuật vươn lên ngang tầm
thế giới. Trong nguồn nhân lực mới ấy, việc xây dựng giai cấp công nhân là
một nhiệm vụ trọng tâm, vì chỉ với một giai cấp công nhân trưởng thành về
chính trị, có trình độ, tổ chức, kiến thức kỹ năng nghề nghiệp cao, có trình độ
làm chủ khoa học công nghệ mới, mới có thể là nòng cốt để liên minh với
nông dân và đội ngũ trí thức, tập hợp và đoàn kết với các thành phần khác,
phấn đấu đưa sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến thành công.
Để có nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá phải coi việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo thực sự trở thành quốc sách
hàng đầu. Tạo ra một cơ cấu nhân lực đồng bộ trên các lĩnh vực khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, nghiên cứu và triển khai công nghệ. Việc xây dựng
nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tiến hành với tốc độ,

quy mô thích hợp, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đi đôi với việc đào tạo, bồi dưỡng phải bố trí, sử
dụng nguồn nhân lực có hiệu quả, cần có cơ chế phát huy đầy đủ khả năng, sở
trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của họ để tạo ra năng suất, chất lượng
và hiệu quả kinh tế cao đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
3.3. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất

Khoa học và công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển
kinh tế - xã hội và công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, muốn tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công phải đẩy mạnh nghiên cứu khoa
học kỹ thuật ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Trong những năm
tới phát triển khoa học công nghệ cần tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:


19
Phát triển khoa học công nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của
cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức. Đi ngay vào công nghệ hiện
đại ở một số lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế.
Phát triển khoa học xã hội hướng vào việc tiếp tục góp phần làm sáng tỏ
những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Giải đáp những vấn đề mới của kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn mới.
Phát triển khoa học tự nhiên theo hướng tập trung nghiên cứu cơ bản
định hướng ứng dụng đặc biệt những lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu và thế
mạnh. Phát triển khoa học công nghệ kết hợp đẩy mạnh việc nhập khẩu công
nghệ tiên tiến kết hợp với công nghệ nội sinh nhanh chóng nâng cao trình độ
công nghệ của các ngành có lợi thế cạnh tranh, có tỷ trọng lớn trong GDP,
phát triển công nghệ cao nhất, là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và

công nghệ vật liệu mới.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu để đánh giá chính xác tài nguyên quốc
gia, nắm bắt công nghệ cao cùng những thành tựu mới của khoa học công
nghệ… từ đó đề xuất một chiến lược đúng đắn cho việc ứng dụng những
thành tựu khoa học vào các ngành kinh tế xã hội một cách nhanh chóng và
khai thác sử dụng hợp lý, bảo vệ tốt tài nguyên quốc gia.
Mở rộng hợp tác khoa học công nghệ với các nước và các tổ chức quốc
tế nhằm tiếp cận, kế thừa những thành tựu khoa học công nghệ trên thế giới,
tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của quốc tế.
Đẩy mạnh các hình thức đào tạo và sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
chú trọng đào tạo lớp chuyên gia đầu đàn, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật
cho các ngành khoa học và công nghệ.
3.4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại

Đây là một giải pháp quan trọng và là một tiền đề không thể thiếu của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong xu thế quốc tế hoá hiện nay.
Quan hệ kinh tế đối ngoại càng rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng nhanh chóng và thuận lợi bấy
nhiêu. Thực chất của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút vốn


20
nước ngoài, tiếp thu kỹ thuật công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến và mở
rộng thị trường cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá được thuận lợi.
Ngoài ra, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại còn tạo môi trường hoà bình,
ổn định cho quá trình phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước

Đây là tiền đề quan trọng quyết định thắng lợi của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước tự bản thân nó đã là một cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân ta.
Đặt trong sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn cách
mạng mới, đấu tranh trên các mặt kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội… cho độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước càng là một cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ và phức tạp.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân nhưng đó lại là sự
nghiệp mang tính tự giác, phải có một Đảng tiên phong, dày dạn kinh nghiệm
chiến đấu, biết tự đổi mới không ngừng lãnh đạo và một nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, trong sạch vững mạnh, có hiệu lực quản lý thì
công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có thể thành công.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước coi đó là nhân
tố trực tiếp quyết định sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền
kinh tế quốc dân.
KẾT LUẬN

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt ở các nước còn trong tình trạng kém
phát triển. Muốn nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, góp phần vào tiến bộ chung của nhân loại,
Việt Nam phải không ngừng đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước với những hình thức và bước đi phù hợp với điều kiện hoàn
cảnh của đất nước mình.
Với tư cách là lực lượng nòng cốt của nền Quốc phòng toàn dân, Quân
đội nhân dân Việt Nam không chỉ có nhiệm vụ bảo vệ công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước mà còn là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá


21
trình đó. Quân đội tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là

một tất yếu khách quan bắt nguồn từ lịch sử, lôgic phát triển của quân đội
cách mạng kiểu mới. Với những tiềm năng đáng kể về nhân lực, khoa học,
công nghệ quân đội là một nguồn lực trong số những nguồn lực của quốc gia
có thể và cần phải huy động để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ chính trị trung tâm mà toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân phải hướng vào thực hiện. Do đó, theo chức trách
của mình mọi cán bộ, chiến sĩ phải tích cực học tập, rèn luyện nâng cao trình
độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại. Cần sử dụng có hiệu quả trang thiết bị, vật tư, khí
tài, đồng thời tích cực tham gia phát triển kinh tế trên địa bàn đóng quân.



×