Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề TRIẾT học CON NGƯỜI, các NHÂN, xã hội, VAI TRÒ của QUẦN CHÚNG NHÂN dân và LÃNH tụ TRONG LỊCH sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.48 KB, 13 trang )

CON NGƯỜI, CÁ NHÂ, XÃ HỘI – VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN
VÀ CÁ NHÂN LÃNH TỤ TRONG LỊCH SỬ
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CON NGƯỜI

3

1.1. Một số quan điểm ngoài mácxít về nguồn gốc, bản chất con người

3

1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất con người

3

2. QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI

7

2.1. Khái niệm cá nhân và xã hội

7

2.2. Mối quan hệ cá nhân và xã hội


7

3. VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CÁ NHÂN LÃNH
TỤ TRONG LỊCH SỬ

3.1. Vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử

9
9

3.2. Vai trò của cá nhân lãnh tụ

12

3.3. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ

13

KẾT LUẬN

14


2
LỜI NÓI ĐẦU

Vấn đề con người là nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nói
chung, triết học Mác - Lênin nói riêng. Nghiên cứu vấn đề con người trong
triết học Mác - Lê nin, người học không chỉ được trang bị những nội dung cơ
bản về con người, mà còn là cơ sở để quán triệt chiến lược con người của

Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới. Tài liệu nghiên cứu các nội dung cơ
bản về bản chất con người, quan hệ cá nhân và xã hội, mối quan hệ quần
chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ trong lịch sử, từ đó vận dụng đối với mối
quan hệ giữa người chỉ huy và tập thể đơn vị.
1. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CON NGƯỜI

1.1. Một số quan điểm ngoài mácxít về nguồn gốc, bản chất con người

Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã từng tồn tại rất nhiều quan điểm về
nguồn gốc, bản chất con người. Tuy nhiên, do sự khác nhau về thế giới quan
hoặc lập trường giai cấp, cho nên họ đưa ra những quan điểm rất khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau và chưa giải đáp một cách thực sự khoa học về vấn
đề này. Các tôn giáo đều quan niệm con người do thần thánh, Thượng đế sinh
ra, cuộc sống con người do đấng tối cao an bài, sắp đặt...
Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: Họ qui đặc trưng bản chất của con
người vào lĩnh vực ý thức tư tưởng, cảm giác hoặc là cái có sẵn từ lực lượng siêu
tự nhiên. Chẳng hạn, trong hệ thống triết học duy tâm của Hêghen con người được
xem như là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”. Đúng như V.I.Lênin nhận xét:
Hêghen biến con người thành con người của tự ý thức, mà lẽ ra phải biến tự ý
thức thành tự ý thức con người, của con người thực, tức là con người sống trong
thế giới hiện thực. Trong triết học duy tâm của phương Đông còn có thuyết coi
trời và người cùng hoà hợp với nhau (thiên nhân hợp nhất), tư tưởng này khá phổ
biến. Thuyết này cho rằng trời và người tác động lẫn nhau theo cùng một tính
chất…
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác mà đại biểu là Phoiơbắc
quan niệm rằng: Con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của tự nhiên.
Ông khẳng định: Ý thức cũng như tư duy của con người chỉ là sản phẩm của
khí quan vật chất nhục thể, tức là bộ óc, rằng vật chất không phải là sản phẩm
của tinh thần mà chính tinh thần là sản phẩm tối cao của vật chất. Tuy nhiên,



3
Phoiơbắc khơng giữ được quan điểm duy vật của mình khi đi vào phân tích
những vấn đề về bản chất con người. Ơng xem xét con người tách rời với hoạt
động thực tiễn, khơng thấy được bản chất xã hội của con người cũng như tính
năng động sáng tạo của nó trong nhận thức và cải tạo thế giới. Quan điểm
của Phoiơbắc chỉ dừng lại ở con người sinh vật. Do đó, con người trong triết
học của Phoiơbắc cũng hết sức trừu tượng, phi lịch sử.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nguồn gốc, bản chất con người

Kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa triết học nhân loại, chủ
nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: Con người là một thực thể sinh vật - xã hội
(một sinh vật xã hội) có ý thức, biết lao động và có ngơn ngữ.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: con người là một
thực thể sinh vật - xã hội. Nghĩa là, phân biệt rõ hai mặt trong khái niệm con
người, mặt sinh vật ln gắn bó với mặt xã hội trong một quan hệ thống nhất
khơng tách rời. Xét về mặt sinh vật, con người là một động vật cao cấp, là sản
phẩm của q trình tiến hố lâu dài của thế giới vật chất, bộ óc của con người
là sản phẩm cao nhất của vật chất. C.Mác chỉ rõ: “Về mặt thể xác, con người
chỉ sống bằng sản phẩm tự nhiên ấy, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên
liệu, quần áo, nhà ở… về mặt thực tiễn, tính phổ biến của con người biểu hiện
ra chính ở cái tính phổ biến nó biến tồn bộ giới tự nhiên thành thân thể vơ cơ
của con người”1. Sự tồn tại bản tính tự nhiên (mặt tự nhiên) trong con người
là một tất yếu khách quan, với tất cả những đặc điểm sinh lý, cấu trúc cơ thể
và đều phải chịu sự chi phối nghiêm ngặt bởi những quy luật sinh học như:
đồng hố và dị hố, di truyền và biến dị, thích nghi với mơi trường, trao đổi
chất. Đồng thời để tồn tại và phát triển con người cũng có đầy đủ những nhu
cầu thiết yếu như bất kỳ một động vật nào như: ăn, uống, đi lại, sinh đẻ con
cái. Tuy nhiên, khi xem xét con người, triết học Mác khơng chỉ xem xét mặt
tự nhiên (sinh vật) của con người, mà còn chỉ rõ chỗ khác biệt căn bản giữa

con người và con vật là ở mặt xã hội. Tức là, con người có tính xã hội, tồn tại
của con người là tồn tại mang tính xã hội. Bởi, bản thân hoạt động sản xuất
của con người là hoạt động mang tính xã hội. Trong hoạt động sản xuất, con
người khơng thể tách khỏi xã hội. Tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 42, tr.135.


4
người khác con vật. Hoạt động của con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của
nó, còn hoạt động của con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội.
Xã hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của
con người thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội. Hoạt động của con người
không phải theo bản năng như động vật mà là hoạt động có ý thức. Tư duy
của con người phát triển trong hoạt động và giao tiếp xã hội, trước hết là
trong hoạt động lao động sản xuất. Trong quá trình lao động sản xuất thì ngôn
ngữ ra đời, mà ngôn ngữ chính là cái vỏ vật chất của tư duy. Vì vậy, ngôn ngữ
xuất hiện có ý nghĩa quan trọng trong quá trình lao động sản xuất cũng như
trong phát triển của tư duy, của tình cảm và ý thức con người.
Về bản chất con người, C.Mác chỉ rõ: “Trong tính hiện thực của nó
bản chất của con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”1.
Con người mà C.Mác đề cập ở đây không phải là con người chung
chung trừu tượng, mà là con người cụ thể, sống, hoạt động trong một xã hội
nhất định, trong một thời điểm lịch sử nhất định với một xã hội nhất định. Bản
chất con người chỉ được hình thành và bộc lộ ra trong toàn bộ những quan hệ
xã hội cụ thể. Đó là quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với
chính bản thân mình.
Trong quan hệ với tự nhiên, con người là chủ thể tái sản xuất ra giới tự
nhiên thông qua lao động sản xuất. Con người không phải là một sinh vật

thuần tuý mà là một thực thể sinh vật có ý thức, có khả năng sáng tạo theo
nhu cầu của mình, sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt của mình - đây là hoạt
động lịch sử đầu tiên để phân biệt con người và con vật. Ở con vật là sự kiếm
ăn những cái có sẵn trong tự nhiên. Còn ở con người để thoả mãn nhu cầu của
mình, con người đã sáng tạo ra những tư liệu sinh hoạt. Hoạt động lao động
sản xuất của con người là một hoạt động sáng tạo, không những chỉ là phương
tiện để duy trì sự sống mỗi cá nhân, mà còn là phương thức biểu hiện nội
dung sống, hoạt động sáng tạo của con người. Vì vậy, trong quan hệ với tự
nhiên, con người bằng hoạt động thực tiễn của mình, không chỉ cải tạo tự
nhiên mà con tái sản xuất ra tự nhiên. C.Mác khẳng định: “Con vật chỉ tái sản
xuất ra bản thân nó, còn con người tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”2.
1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.11.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 42, tr.137.



6
Về vai trò của con người: Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, con
người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, khả năng sáng tạo, cải
tạo thế giới của con người là rất to lớn. Nếu không có giới tự nhiên, không có
lịch sử xã hội thì không tồn tại con người, do đó, con người là kết quả của quá
trình tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh, đồng thời vừa là sản phẩm của lịch sử.
Ngược lại, với tư cách là thực thể xã hội, con người không thụ động trước
giới tự nhiên, mà bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người không ngừng
tác động vào tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên phục vụ ngày càng tốt hơn cuộc
sống của con người. Quán triệt vấn đề con người trong triết học Mác -Lênin là
cơ sở khoa học để giai cấp vô sản, nhân dân lao động tiến bộ trên thế giới

không ngừng đề ra chiến lược giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột để
tiến lên xây dựng một xã hội thực sự văn minh, dân chủ và nhân đạo.
2. QUAN HỆ CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI

2.1. Khái niệm cá nhân và xã hội

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin: Cá nhân là khái niệm chỉ
con người cụ thể, sống trong một xã hội nhất định, trong một giai đoạn lịch
sử cụ thể.
Cá nhân chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định với tư
cánh là một cá thể, một thành viên của xã hội ấy. Con người ngay từ khi sinh
ra đã có tiềm tàng trong đó những điều kiện và khả năng để trở thành cá nhân
như cấu tạo cơ thể, hệ thần kinh và các giác quan… Nhưng con người được
xem như là một cá nhân khi đã đạt đến trình độ trưởng thành về mặt thể lực,
trí tuệ, trưởng thành về mặt xã hội. Con người là một cá nhân trong mối quan
hệ với xã hội và chính thông qua mối quan hệ với xã hội để khẳng định cái
“tôi” có bản sắc riêng, đặc điểm riêng. Bởi mỗi cá nhân có đời sống riêng, có
quan hệ xã hội riêng của mình không hoàn toàn giống quan hệ của cá nhân
khác, có kinh nghiệm, nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng riêng. Tuy vậy, các cá
nhân trong một xã hội nhất định dù khác biệt nhau đến đâu đều mang cái
chung, họ đều là thành viên của xã hội mang bản chất xã hội và không thể
sống ngoài xã hội.


7
Chủ nghĩa Mác - Lê nin cũng chỉ rõ: Xã hội là một bộ phận của giới tự
nhiên, là một kết cấu vật chất đặc thù và là nấc thang cao nhất của sự vận
động của vật chất.
Theo nghĩa hẹp, xã hội được xác định trong từng giai đoan lịch sử cụ
thể, một hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong lịch sử. Ví dụ như hình thái

kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa... Như vậy, xã hội hiểu theo nghĩa rộng là một bộ phận của thế giới vật
chất nằm trong lòng tự nhiên, theo nghĩa hẹp thì đó là những xã hội trong
những giai đoạn lịch sử cụ thể.
2.2. Mối quan hệ cá nhân và xã hội

Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng không
tách rời, không có cá nhân tồn tại tách rời xã hội và cũng không có xã hội nếu
không có sự kết hợp giữa các cá nhân. Bởi vì, quan hệ giữa cá nhân và xã hội
là khách quan, tất yếu, là qui luật tồn tại và phát triển của con người. Có con
người mới có xã hội loài người. Cá nhân là những con người lịch sử cụ thể
hoạt động trong một xã hội nhất định đều mang bản chất xã hội. Xã hội chính
là môi trường, xã hội tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát triển. Cá nhân phát
triển trong lòng xã hội, cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển trong mối
quan hệ biện chứng với nhau, xã hội phát triển ở trình độ nào thì cá nhân phát
triển theo trình độ ấy. Mặt khác, trình độ phát triển của con người vừa phản
ánh, vừa chi phối đến trình độ phát triển của xã hội. Vai trò của cá nhân với
xã hội phụ thuộc vào sự phát triển của nhân cách, những nhân cách lớn ghi
dấu vào sự phát triển của mỗi dân tộc, quốc gia và quốc tế. Mỗi cá nhân là
một “cái tôi” sinh động gia nhập vào đời sống xã hội, nhưng không hoà tan
vào cái chung, chính trong mối quan hệ với tập thể, với xã hội, cá nhân tự
biểu hiện, tự khẳng định cái riêng, cái bản sắc độc đáo của mình. Do vậy, mọi
hoạt động của cá nhân đều tác động to lớn trở lại xã hội. Nếu hoạt động của
cá nhân là tích cực, phù hợp với quy luật khách quan sẽ góp phần thúc đẩy xã
hội phát triển. Ngược lại, nếu hoạt động của cá nhân có nhiều sai lầm, không
phù hợp với quy luật khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển xã hội.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là vấn đề có ý nghĩa to lớn. Nhận
thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là điều kiện



8
để xã hội và cá nhân cùng phát triển. Nếu không giải quyết tốt mối quan hệ
giữa cá nhân với tập thể xã hội thì tập thể xã hội sẽ không tránh khỏi trì trệ và
cá nhân cũng không phát triển toàn diện và hài hoà được.
Vận dụng trung thành và sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến con
người và giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Trong chiến
lược kinh tế - xã hội, Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm, giải
phóng lực lượng sản xuất, khơi dậy tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể
lao động và toàn thể cộng đồng dân tộc. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng một xã
hội dân chủ vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người với trình độ tri thức,
đạo đức, năng lực và thẩm mỹ ngày càng cao.
Nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, cần
chống những nhận thức sai trái chỉ thấy lợi ích cá nhân mà chà đạp lên lợi ích xã
hội, lợi ích tập thể hoặc chỉ coi trọng lợi ích cộng đồng mà không chú ý đến lợi
ích cá nhân. Trong Quân đội quán triệt quan điểm con người của chủ nghĩa Mác
- Lênin trong xây dựng đơn vị phải luôn chú trọng đến quyền lợi chính đáng của
mỗi quân nhân, chăm lo xây dựng đơn vị, tạo môi trường xã hội lành mạnh cho
sự phát triển nhân cách quân nhân. Mặt khác, tăng cường giáo dục ý thức trách
nhiệm cá nhân đối với đơn vị, góp phần xây dựng quân đội nói chung và đơn vị
nói riêng vững mạnh toàn diện.
3. VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CÁ NHÂN LÃNH TỤ
TRONG LỊCH SỬ

Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Sự vận động phát triển của xã hội

là một tiến trình lịch sử tự nhiên thông qua hoạt động của con người. Con
người làm nên lịch sử của mình, trong đó quần chúng nhân dân là lực lượng
quyết định sự vận động phát triển của xã hội, cá nhân lãnh tụ có vai trò to

lớn không thể thiếu được trong định hướng lãnh đạo, tổ chức quần chúng
nhân dân thực hiện các nhiệm vụ lịch sử đặt ra.
3.1. Vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử


9
Quần chúng nhân dân là đông đảo những người lao động chân tay và
lao động trí óc, lực lượng cơ bản trong hoạt động sản xuất vật chất và mọi hoạt
động xã hội khác.
Quần chúng nhân dân là những người lao động sản xuất (chân tay và trí
óc) mà trước hết và chủ yếu là chỉ khối quần chúng nhân dân lao động, các
giai cấp và các tầng lớp cách mạng, chứ không phải tất cả các giai cấp, các
tầng lớp dân cư trong xã hội. Đó là lực lượng xã hội, hoạt động của họ có vai
trò tích cực đối với tiến bộ xã hội. V.I.Lê nin viết: “Khi dùng danh từ “nhân
dân”, C.Mác không thông qua danh từ ấy xoá mờ mất sự khác biệt về giai
cấp, C.Mác đã gộp vào danh từ ấy những thành phần nhất định, có khả năng
làm cách mạng đến cùng”1. Khái niệm quần chúng nhân dân có tính lịch sử,
cụ thể. Ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, ở mỗi quốc gia dân tộc, trong các
hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, khái niệm quần chúng nhân dân bao gồm
những giai cấp, những tầng lớp xã hội nhất định cụ thể khác nhau.
Vai trò của quần chúng nhân dân: Là người sáng tạo chân chính ra lịch
sử, những hoạt động của họ tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần cho xã
hội, quyết định sự vận động và phát triển của xã hội trong suốt chiều dài lịch
sử xã hội loài người.
Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội. Bởi vì,
con người muốn sống, xã hội muốn tồn tại thì phải có thức ăn, vật dụng, nhà
ở... Để đáp ứng những nhu cầu đó con người phải lao động sản xuất. Sản xuất
vật chất là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Sản xuất vật chất, chế tạo và cải tiến công cụ lao động là hoạt động của
xã hội, chứ không phải của một số cá nhân. Lực lượng sản xuất cơ bản là đông

đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động
trí óc. Như vậy, lao động sản xuất của quần chúng nhân dân tạo ra của cải vật
chất nuôi sống toàn bộ xã hội đồng thời là động lực bên trong quy định sự biến
đổi xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
Quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản quyết định mọi cuộc cách
mạng xã hội. Bởi vì: trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp là động lực
phát triển của xã hội mà đỉnh cao là cách mạng xã hội, lực lượng đông đảo
1

V.I.Lê nin, Toàn tập, tập 11, bản tiếng việt, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. H1979, tr.159.


10
trong cuộc cách mạng ấy là quần chúng nhân dân, thể hiện sức mạnh to lớn lật
đổ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tiến bộ hơn. V.I.Lênin chỉ rõ: “Cách mạng
là ngày hội của những người bị áp bức bóc lột, không lúc nào mà quần chúng
nhân dân có thể tỏ ra là người tích cực sáng tạo ra những trật tự xã hội mới
như trong thời kỳ cách mạng, trong những thời kỳ như thế thì nhân dân có thể
làm được những kỳ công”1.
Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh
thần của nhân loại, là người sáng tạo ra giá trị văn hoá, tinh thần thông qua
lao động sản xuất và đấu tranh cách mạng, họ không những thưởng thức mà
còn đánh giá và bảo vệ những giá trị văn hoá qua các thời đại. Khi xã hội
chưa có các nhà sáng tác chuyên nghiệp thì nền văn học dân gian đã phát
triển, khi xã hội có sự phân chia giai cấp bên cạnh nền văn hoá chính thống
của giai cấp thống trị, nền văn học dân gian vẫn phát triển vừa ca ngợi những
thành quả lao động sản xuất vừa là vũ khí đấu tranh giai cấp sắc bén chống
bọn bóc lột trong xã hội. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Quần chúng nhân dân là
người sáng tạo, nhưng quần chúng nhân dân không chỉ sáng tạo ra những của
cải vật chất cho xã hội. Quần chúng nhân dân còn là những người sáng tạo ra

những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao rất hay. Các sáng tác ấy rất hay mà
lại ngắn chứ không trường thiên đại hải, dây cà ra dây muống... những sáng
tạo ấy là những viên ngọc quý”1. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống
nhất trong đa dạng nhưng chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ chấp nhận văn
hoá lai căng. Đó là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử của mình,
là người giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vai
trò đó thể hiện ở sức mạnh hoạt động thực tiễn, biến những tư tưởng tiến bộ,
nguyện vọng chân chính của họ thành hiện thực.
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân chứ không phải là của một cá nhân anh hùng nào”2. Đại hội Đảng lần IX
khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế, đi đôi với phát triển văn hoá giáo dục, xây
1

V.I.Lê nin, Toàn tập, tập 11, Nxb tiến bộ, Matxcơva. H1979, tr.131.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb ST. H 1960, tr. 698.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb. ST, H1982, Tr.183.
1


11
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc làm cho chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống
tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước”3. Đại hội Đảng X: “Phải gắn
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con người”4.
Là người cán bộ chỉ huy phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam
phải quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Trong hoạt động
thực tiễn phải luôn luôn tôn trọng và phát huy tốt vai trò của quần chúng nhân
dân trong các nhiệm vụ cách mạng, cũng như trong lãnh đạo, chỉ huy đơn vị
phải quan tâm, giáo dục cán bộ, chiến sĩ. Phát huy dân chủ, sức mạnh tập thể
đơn vị để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, coi đó là yếu tố quyết định
đến hiệu quả công tác. Đồng thời, luôn tích cực đấu tranh chống mọi biểu
hiện coi thường, xem nhẹ hoặc xa rời quần chúng nhân dân.
3.2. Vai trò của cá nhân lãnh tụ

Cá nhân lãnh tụ là những người ưu tú đứng đầu phong trào quần
chúng, lãnh đạo, quản lý một xã hội, là người tiêu biểu về đạo đức, tài năng
nổi lên trước những bước ngoặt của lịch sử, có cống hiến to lớn, được lịch sử
ghi nhận.
Như vậy, cá nhân lãnh tụ chính là người của phong trào quần chúng,
người ưu tú đứng đầu phong trào quần chúng cải tạo xã hội, đưa xã hội phát
triển. Đồng thời, là người tiêu biểu về đạo đức, tài năng, có tầm nhìn xa, trông
rộng, có khả năng nắm bắt quy luật và lãnh đạo, quản lý xã hội. Họ nổi lên
trong một giai đoạn lịch sử để giải quyết vấn đề lịch sử đặt ra. Công lao của
họ được lịch sử ghi nhận. Lênin chỉ rõ: “Trong lịch sử chưa hề có một giai
cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không tìm ra được trong hàng
ngũ của mình lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào”1
Cá nhân lãnh tụ có vai trò to lớn dẫn dắt, tổ chức lãnh đạo phong trào
quần chúng, đưa phong trào quần chúng hoạt động đúng quy luật phát triển của
3

Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H2001, Tr.88.
Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H2006, Tr.178.
1
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 4, Nxb. Sự thật. H, 1962, tr. 471.

4


12
xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển. Hoạt động của con người trên cơ sở nhận
thức và vận dụng quy luật vào hoạt động thực tiễn, nếu nhận thức và vận dụng
đúng quy luật thì thúc đẩy xã hội phát triển và ngược lại sẽ kìm hãm sự phát
triển của xã hội. Từ sự nhận thức đúng quy luật và xu thế vận động của thời
đại, định ra đường lối, mục tiêu, phương hướng cho quần chúng hoạt động. Tổ
chức quần chúng thực hiện nhiệm vụ lịch sử đặt ra. Mỗi giai đoạn lịch sử mang
dấu ấn các cá nhân lãnh tụ về sắc thái, tốc độ, bước đi, hình thức phát triển.
Nếu lãnh tụ sáng suốt thì phong trào phát triển mạnh, ngược lại sẽ đẩy phong
trào cách mạng của quần chúng, thụt lùi, thậm chí thất bại tan rã. Là người cán
bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị cần nắm chắc mọi tình hình, nhiệm vụ của đơn vị,
từ đó phân công công việc trong đơn vị phù hợp với mỗi cán bộ, chiến sĩ.
Sức mạnh của cá nhân lãnh tụ bắt nguồn từ phong trào quần chúng
nhân dân. Cá nhân lãnh tụ là người đại biểu lãnh đạo và có quan hệ mật thiết
với quần chúng, được quần chúng tin yêu, ủng hộ. Lãnh tụ xuất hiện là do yêu
cầu khách quan của lịch sử. Họ là con đẻ của phong trào quần chúng, được
nuôi dưỡng. Khi lịch sử cần người đó sớm muộn cũng sẽ xuất hiện.
Sức mạnh của lãnh tụ còn phụ thuộc vào sự hiểu biết, nắm quy luật
định ra đường lối, khả năng tổ chức thực hiện lãnh đạo phong trào, tinh thần
chịu đựng gian khổ. Đây là vấn đề nổi lên trước quần chúng, đảm đương được
sứ mệnh lịch sử giao cho họ.
3.3. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ

Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với cá nhân lãnh tụ là quan hệ
biện chứng, nhưng giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ có vai trò
khác nhau khi tác động vào lịch sử. Đó là tính thống nhất giữa quần chúng
nhân dân và cá nhân lãnh tụ: không có phong trào cách mạng của quần chúng

nhân dân, không có các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội của đông đảo quần
chúng nhân dân thì không thể xuất hiện cá nhân lãnh tụ. Những cá nhân ưu tú,
những lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm của thời đại, họ sẽ là nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng. Quần chúng nhân dân và cá
nhân lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình, quan hệ lợi ích là
cầu nối liền, là nội lực để liên kết quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ với
nhau thành một khối thống nhất về ý chí và hành động. Hay nói cách khác, sự


13
thống nhất giữa mục tiêu cách mạng, hành động cách mạng của quần chúng
nhân dân và cá nhân lãnh tụ là do quan hệ lợi ích quy định.
Sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ biểu hiện
trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Tuy cùng đóng vai trò
quan trọng đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội nhưng quần chúng
nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển còn cá nhân lãnh tụ là người
lãnh đạo, định hướng, dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Quán triệt quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, tôn
trọng và phát huy vai trò quần chúng trong sự nghiệp cách mạng, trong xây
dựng đơn vị. Phát huy vai trò người cán bộ chỉ huy phân đội trong lực lượng
vũ trang. Tập thể đơn vị phải tin yêu ủng hộ cán bộ, đồng thời người chỉ huy
phải biết tôn trọng gần gũi chiến sỹ xây dựng mối đoàn kết tốt để hoàn thành
mọi nhiệm vụ. Chống tư tưởng tuyệt đối hoá vai trò lãnh tụ, tệ sùng bái cá
nhân, chống quan liêu xa rời quần chúng.
KẾT LUẬN

Con người trong triết học Mác - Lênin là con người hoàn chỉnh phát
triển toàn diện trong hiên thực, đây chính là một bước chuyển biến về chất
trong nhận thức về con người của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nó là cơ sở nghiên
cứu những điều kiện, con đường đúng đắn để đi đến giải phóng con người.

Đồng thời lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ rõ mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội; Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ trong lịch
sử. Do vậy, là người cán bộ phân đội cần quán triệt và giải quyết tốt mối quan
hệ trong tập thể đơn vị, mối quan hệ giữa lãnh đạo và chỉ huy, giữa tập thể và
chỉ huy, không ngừng chăm lo tới lợi ích cá nhân, phát huy vai trò tính sáng tạo
của cá nhân, tạo sức mạnh xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.



×