Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề TRIẾT học các QUY LUẬT cơ bản của PHÉP BIỆN CHỨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.54 KB, 20 trang )

MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG
THÀNH NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI

3

1.1. Phạm trù chất và lượng

3

1.2. Nội dung cơ bản của qui luật

5

1.3. Các hình thức của bước nhảy

8

2. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP

9

2.1. Khái niệm mâu thuẫn biện chứng

9



2.2. Nội dung qui luật mâu thuẫn

10

2.3. Một số loại mâu thuẫn

14

3. QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH

15

3.1. Phủ định biện chứng và các đặc trưng cơ bản của nó

15

3.2. Nội dung cơ bản qui luật phủ định của phủ định

17

KẾT LUẬN

20


2
LỜI NÓI ĐẦU

Thế giới là một thể thống nhất của các sự vật, hiện tượng, chúng luôn

luôn vận động và phát triển không ngừng theo các quy luật nội tại của nó. Với
tư cách là một khoa học, phép biện chứng duy vật nghiên cứu các quy luật cơ
bản, phản ánh sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng dưới những
phương diện cơ bản nhất. Phạm vi nghiên cứu của tài liệu là nội dung các quy
luật cơ bản, nắm vững nội dung các quy luật của phép biện chứng duy vật có
ý nghĩa to lớn trong hoạt động thực tiễn.
1. QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG
THÀNH NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI

Qui luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi
về chất và ngược lại (gọi tắt là qui luật lượng - chất). Đây là một trong ba qui
luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Qui luật lượng - chất khái quát trạng
thái, cách thức vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan.
1.1. Phạm trù chất và lượng

Trong lịch sử triết học, khi bàn về phạm trù chất và lượng đã có nhiều
quan điểm, quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về vấn đề này. Trong
thời kỳ cổ đại, các nhà triết học Hy Lạp, thường đồng nhất vật chất với sự vật.
Từ đó, họ hiểu vật chất và các hình thức biểu hiện của nó từ phương diện chất
của sự vật. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Arixtốt xem chất là tất cả
những gì có thể phân ra thành những bộ phận cấu thành. Ông phân lượng
thành hai loại : số lượng (là loại lượng mang tính rời rạc, thí dụ: 3 cái bàn, 6
cái ghế…) và đại lượng (là loại lượng mang tính liên tục, chẳng hạn 4 mét
vải, 30 lít nước…). Ông cũng đạt được bước tiến đáng kể trong việc nghiên
cứu phạm trù “độ”, xem độ là cái thống nhất, cái không thể phân chia giữa
chất và lượng.
Thời trung cổ, quan niệm về chất và lượng được thể hiện trong học
thuyết mang tính kinh viện về "những chất bị che dấu" (những đặc tính nội
tại, bên trong được che phủ bởi những lực lượng siêu nhiên). Học thuyết đó

thể hiện ý muốn thâm nhập vào bản chất của sự vật, muốn làm sáng tỏ tính


3
xác định về chất nằm ở phạm vi bên trong của các hiện tượng. Song, do bị chi
phối bởi quan điểm duy tâm nên họ không giải quyết được vấn đề này.
Thời kỳ cận đại, đặc biệt trong triết học cổ điển Đức, Hêghen đã phân
tích một cách tỉ mỉ sự thống nhất biện chứng, mối quan hệ qua lại, sự chuyển
hoá lẫn nhau giữa chất và lượng, xem xét chất và lượng trong quá trình phát
triển không ngừng, từ “chất thuần tuý” đến “chất được xác định”, khi chất
phát triển đến tột độ thì ra đời lượng. Sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất
trong một khoảng nhất định hình thành phạm trù “độ”. Tuy nhiên, với tư cách
là một nhà triết học duy tâm Hêghen đã xem phạm trù chất, lượng, độ chỉ như
những nấc thang tự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”. Sự ra đời của phép biện
chứng duy vật đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong quan niệm
về chất và lượng. Quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Chất
là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự
vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính, làm cho nó là nó
mà không phải là cái khác.
Nói đến chất là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính. Sự thống nhất ở
đây không phải là sự cộng lại đơn thuần của các thuộc tính, hay sự thống nhất
một vài thuộc tính đơn lẻ, mà là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính trong sự
vật hiện tượng, từ đó nói lên sự vật hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với sự
vật hiện tượng khác.
Ví dụ: Một đơn vị quân đội có các thuộc tính như: sự giác ngộ chính trị
của cán bộ, chiến sỹ, thuộc tính kỷ luật, thuộc tính về trình độ kỹ chiến thuật,
thuộc tính về tổ chức trang bị vũ khí… Tổng hợp các thuộc tính trên nói lên
chất của đơn vị đó, làm cho nó khác với các tổ chức khác như công đoàn, các
tổ chức doanh nghiệp trong xã hội.
Các thuộc tính có vị trí, vai trò khác nhau, tổng hợp các thuộc tính cơ

bản tạo thành chất căn bản của sự vật. Ở mỗi một sự vật chỉ có một chất căn
bản, đó là loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay
mất đi của bản thân sự vật. Khi thuộc tính cơ bản thay đổi làm cho chất căn
bản của sự vật thay đổi. Các thuộc tính không cơ bản khi thay đổi chỉ gây ảnh
hưởng chứ chưa làm cho chất của sự vật thay đổi. Phạm trù chất rộng hơn


4
thuộc tính, bao hàm nhiều thuộc tính, chất là cái vốn có của sự vật, hiện
tượng, còn thuộc tính là biểu hiện của chất trong quan hệ nhất định.
Sự vật có thể có nhiều chất, tính nhiều chất của sự vật còn nói lên
những yếu tố giống nhau và khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng. Khi ta
xem xét chúng ở những quan hệ khác nhau thì biểu hiện chất khác nhau.
Ví dụ: Khi ta xét về sức khoẻ của một con người đó là chất, khi ta xét
về đạo đức đó là chất, hoặc xét về chất một quân nhân trong quân đội...
Sự đồng nhất và khác biệt của các sự vật không chỉ được xác định bởi
tính quy định về chất mà còn bởi tính quy định về lượng. Quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng chỉ rõ: Lượng là một phạm trù triết học chỉ tính qui
định vốn có của sự vật hiện tượng biểu thị bằng số lượng, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính
của nó.
Sự tồn tại của lượng là khách quan, vốn có của bản thân sự vật hiện
tượng, lượng biểu thị bằng số lượng, đại lượng… của các thuộc tính của chất
mà người ta có thể đo, đong, đếm được, lượng là lượng của một chất nhất định.
Ví dụ: Khi ta nói đến chất của một tổ chức quân đội thì trong đó các
thuộc tính như thuộc tính về tổ chức biên chế trang bị vũ khí được qui định cụ
thể như quân số của một tiểu đội, một trung đội hoặc một đại đội là bao nhiêu
người, biên chế mấy bộ phận, trang bị loại vũ khí nào, số lượng bao nhiêu. Đó
chính là lượng của thuộc tính tổ chức biên chế trang bị vũ khí của tổ chức
quân đội. Sự vật, hiện tượng càng phức tạp bao nhiêu thì các thông số về

lượng càng nhiều, phức tạp bấy nhiêu, việc nhận thức sự vật, hiện tượng càng
phức tạp hơn. Ví dụ: Khi ta nhận thức về cấu tạo của một khẩu súng trường sẽ
dễ hơn khi ta nhận thức về một khẩu súng cùng loại nhưng có thêm bộ phận
bắn tỉa. Rõ ràng sự vật càng phức tạp thì các thông số về lượng càng phức tạp.
Trong các mối quan hệ khác nhau, lượng có thể là nhân tố quy định bên
trong, có thể là mối quan hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
Lượng - chất đều tồn tại khách quan. Sự phân biệt lượng - chất chỉ có ý
nghĩa trong những mối quan hệ nhất định, ngoài ra chúng có thể chuyển hoá
cho nhau.
1.2. Nội dung cơ bản của qui luật


5
Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi
dần dần về lượng vượt q giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất
của sự vật thơng qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay
đổi của lượng. Như vậy, q trình vận động phát triển của các sự vật hiện
tượng trong thế giới đều diễn ra từ sự thay đổi dần dần về lượng, đến một
mức độ nhất định (điểm nút) vượt q “độ” sẽ xảy ra bước nhảy vọt về chất,
chất mới ra đời tạo điều kiện cho sự biến đổi tiếp tục về lượng, tạo nên sự vận
động khơng ngừng của thế giới vật chất.
Chất và lượng của sự vật liên hệ với nhau một cách biện chứng, đó là
hai mặt đối lập trong một thể thống nhất, một chất bao giờ cũng được qui định
bởi một lượng nhất định, ngược lại, lượng bao giờ cũng là lượng của một chất
nào đó. Sự thống nhất giữa chất và lượng được thể hiện ở “độ”. Độ là phạm
trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là khoảng giới
hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất, sự
vật vẫn là nó. Khi giới hạn về “độ” bị phá vỡ sự vật sẽ biến đổi về chất. Sự
biến đổi về chất gọi là bước nhảy trong sự vận động phát triển của sự vật, hiện
tượng. Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hố về

chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra. V.I.Lênin nhấn
mạnh: “tính tiệm tiến mà khơng có bước nhảy vọt, thì khơng giải thích được
gì cả”1. Tại thời điểm xảy ra sự biến đổi chất cũ sang chất mới gọi là điểm
“nút”. Ví dụ: Khi ta xét chất của sự vật với tư cách những trạng thái tồn tại
khác nhau của nước. Trong điều kiện áp suất tiêu chuẩn 760mHg (áp suất
bình thường) ở nhiệt độ dưới 0 0C là độ của nước ở thể rắn. Từ 0 0C đến 1000C
là độ của nước ở thể lỏng, nhiệt độ trên 100 0C là độ của nước ở thể hơi. Sự
chuyển hố của nước từ trạng thái rắn sang trạng thái lỏng, từ trạng thái lỏng
sang trạng thái hơi và ngược lại là những bước nhảy của sự vật và tại các thời
điểm 00C, 1000C là những “điểm nút”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng sự vận động phát
triển của sự vật diễn ra bằng cách: trước hết lượng biến đổi dần dần tới một
mức độ nhất định thì xảy ra sự biến đổi về chất, chất cũ mất đi chất mới ra
đời. Như vậy, sự vận động phát triển của sự vật phải đi từ sự thay đổi dần dần
1

V.I.Lê nin: Toàn tập, tập29, Nxb Tiến bộ, Matxcơva 1981, tr.133


6
về lượng, sự thay đổi đó diễn ra theo chiều tăng hoặc giảm khi sự biến đổi đó
vượt quá độ, phá vỡ độ thì chất cũ mất đi chất mới ra đời - kết thúc một giai
đoạn biến đổi về lượng. Đó là sự gián đoạn trong quá trình vận động của sự
vật chấm dứt một giai đoạn, một nội dung tồn tại về chất của sự vật. Tuy
nhiên không có nghĩa là chấm dứt sự vận động của sự vật mà là tạo điều kiện
cho sự vận động tiếp theo.
Sự vật mới, chất mới ra đời tạo điều kiện cho sự biến đổi tiếp tục về
lượng với tính chất qui mô nhịp điệu mới. Khi sự biến đổi về lượng đạt đến
điều kiện nhất định thì quá trình thay đổi chất lại tiếp tục diễn ra. Cứ như thế
tạo nên sự vận động vĩnh viễn vô tận của thế giới vật chất.

Ví dụ: Khi một học viên về trường học tập, để sau một thời gian học
tập đến khi tốt nghiệp ra trường trở thành người sĩ quan thì trong thời gian qui
định (tuỳ theo đối tượng đào tạo) học viên được học các môn học, được trang
bị kiến thức, đó là quá trình thay đổi về lượng (tích luỹ về lượng). Qua thời
gian học tập tích luỹ kiến thức, rèn luyện về mọi mặt sau kỳ thi cuối khoá,
học viên được công nhận hoàn thành nhiệm vụ học tập, được chứng nhận có
đủ phẩm chất, năng lực để thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Tại thời
điểm công nhận đó chính là điểm nút. Sự chuyển biến từ học viên trở thành
người sĩ quan trong lực lượng vũ trang đó là bước nhảy vọt trong sự vận động
phát triển của một quân nhân.
Như vậy, sự tác động biện chứng giữa lượng và chất của sự vật, hiện
tượng là sự thống nhất và đấu tranh của hai mặt đối lập lượng và chất. Lượng
biến đổi một cách từ từ, tiềm tàng khó thấy, sự thay đổi về chất được thực
hiện bằng những bước nhảy.
Qui luật chuyển hoá từ những thay đổi dần dần về lượng thành những
thay đổi về chất là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận trong hoạt động
thực tiễn xã hội và hoạt động quân sự. Muốn thúc đẩy sự vật, hiện tượng vận
động, phát triển thì phải kiên trì tích luỹ dần dần về lượng, tạo điều kiện cho
bước nhảy được thực hiện, thì mới có sự thay đổi về chất và sự phát triển.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã xác định: “Đổi mới tất cả các mặt của đời
sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp;
bảo đảm kết hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là


7
trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội”1. Trong xây dựng đơn vị cần phải chú trọng xây dựng một
cách toàn diện và phải xác định những nội dung trọng tâm, trọng điểm, những
khâu then chốt, từng bước từ thấp đến cao. Là người cán bộ phân đội cần phải
chuẩn bị đầy đủ các mặt: tư tưởng, ý chí quyết tâm, tâm thế sẵn sàng, trình độ

kỹ chiến thuật, kỷ luật, chăm lo cải thiện từng bước đời sống vật chất tinh
thần cho chiến sĩ. Xây dựng tốt các mặt hoạt động các tổ chức và con người
trong đơn vị, làm cho đơn vị chuyển biến về chất trở thành đơn vị vững mạnh
toàn diện, bảo đảm đơn vị có đủ sức mạnh, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ
trong mọi tình huống. Do đó, trong quá trình công tác cần chống những biểu
hiện nóng vội, chủ quan muốn có ngay sự thay đổi về chất khi chưa có sự tích
luỹ về lượng. Mặt khác, cũng cần chống những tư tưởng và biểu hiện hữu
khuynh không dám quyết đoán khi những điều kiện vật chất, tinh thần đã
chuẩn bị đầy đủ, nhưng do dự bỏ lỡ thời cơ dẫn đến không thể giành được
thắng lợi.
1.3. Các hình thức của bước nhảy

Bước nhảy là một hình thức tất yếu xảy ra trong quá trình phát triển của
sự vật, hiện tượng. Hình thức bước nhảy vô cùng phong phú tuỳ theo điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng sự vật, hiện tượng. Khi xem xét về qui mô
của bước nhảy có bước nhảy toàn bộ, có bước nhảy bộ phận, xét về nhịp độ
có bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ: Bước nhảy toàn bộ là bước
nhảy làm thay đổi toàn bộ chất của sự vật, hiện tượng. Bước nhảy cục bộ làm
thay đổi từng mặt riêng lẻ, những khâu nhất định của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Đối với người học viên đào tạo sỹ quan chỉ huy cấp phân đội
bậc học đại học, kết thúc năm thứ nhất, có khả năng làm tốt chức trách, nhiệm
vụ của một tiểu đội trưởng; đó là một giai đoạn có sự biến đổi về chất, là bước
nhảy bộ phận cục bộ, những bước làm thay đổi từng mặt, từng khâu nhất định
đối với người học viên trong quá trình đào tạo; là điều kiện tiền đề để dẫn tới
sự thay đổi toàn bộ về chất của học viên trong quá trình đào tạo bốn năm ở
nhà trường.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X. Nxb CTQG. H 2006. Tr.213



8
Thơng thường, để có được bước nhảy tồn bộ phải có những bước nhảy
bộ phận, sự thay đổi chất từng bộ phận là cơ sở điều kiện để dẫn đến thay đổi
chất tồn bộ sự vật. Tuy nhiên, dù là bước nhảy tồn bộ hay bước nhảy bộ
phận đều là kết quả của q trình thay đổi về lượng đến một giới hạn nhất
định mới tạo ra sự biến đổi về chất.
Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần: Bước nhảy đột biến là bước
nhảy diễn ra trong thời gian ngắn làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Bước
nhảy dần dần là bước nhảy diễn ra trong một thời gian dài bằng cách tích luỹ
dần những yếu tố cho chất mới. Ví dụ: Sự chuyển hố từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội. Nghiên cứu các hình thức của bước nhảy phải thấy được sự
khác nhau của các bước nhảy diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên và các hình
thức bước nhảy diễn ra trong lĩnh vực xã hội. Trong tự nhiên, các bước nhảy
diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, bước nhảy được thực hiện thơng
qua hành động có ý thức của con người. Trong xã hội bước nhảy khơng chỉ
phụ thuộc vào các điều kiện khách quan mà còn phụ thuộc vào vai trò chủ
quan của con người.
Trong quản lý, chỉ huy và xây dựng đơn vị cần vận dụng bước nhảy
một cách khoa học, biết tạo ra những bước nhảy cục bộ trên từng mặt, từng
lĩnh vực, từng nhiệm vụ cụ thể, để tiến tới thực hiện bước nhảy tồn bộ đưa
đơn vị phát triển về chất góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh tồn diện.
2. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP

V.I.Lênin viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học
thuyết về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Như thế là nắm
được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự
giải thích và một sự phát triển thêm” 1. Qui luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập (gọi tắt là qui luật mâu thuẫn) là một trong ba qui luật cơ bản

của phép biện chứng duy vật. Qui luật mâu thuẫn lý giải về nguồn gốc, động
lực, vận động, phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới.
2.1. Khái niệm mâu thuẫn biện chứng

Trong lịch sử triết học, ngay từ thời cổ đại đã có những phỏng đốn
thiên tài về sự tác động qua lại của các mặt đối lập và xem sự tác động qua lại
1

V.I.Lê nin: Toàn tập, tập 29, Nxb tiến bộ Matxcơ va.1981, tr. 240.


9
đó là cơ sở vận động của thế giới. Nhiều đại biểu triết học cổ đại phương
Đơng đã xem vận động do sự hình thành những mặt đối lập và các mặt đối lập
ấy cũng ln vận động. Nhà triết học Hy lạp cổ đại Hêracơlít - người được
V.I.Lênin coi là ơng tổ của phép biện chứng, cho rằng trong sự vận động biện
chứng vĩnh viễn của mình, các sự vật đều có khuynh hướng chuyển sang mặt
đối lập. Các nhà triết học theo quan điểm siêu hình khơng thừa nhận mâu
thuẫn tồn tại trong sự vật, hiện tượng. Theo họ, sự vật, hiện tượng là một cái
gì đó đồng nhất, quan điểm siêu hình chỉ thừa nhận sự xung đột giữa các sự
vật với nhau, nhưng đó khơng phải là mâu thuẫn. Khi nghiên cứu phép biện
chứng trong sự vận động và phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, Hêghen đã kịch
liệt phê phán quan điểm siêu hình về sự đồng nhất (quan điểm này cho rằng
đã đồng nhất thì loại trừ mọi sự khác biệt và mâu thuẫn). Theo ơng: bất kỳ sự
đồng nhất nào cũng bao hàm sự khác biệt và mâu thuẫn. Ơng khẳng định:
“mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sức
sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu
thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung lực và hoạt động”1. Song, do bị chi
phối bởi quan niệm duy tâm và bởi lợi ích giai cấp, Hêghen đã khơng phát
triển học thuyết mâu thuẫn biện chứng đến độ triệt để.

Kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu có giá trị trong
tồn bộ lịch sử hơn 2000 năm của triết học, dựa trên những thành tựu mới
nhất của khoa học hiện đại, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: mâu
thuẫn biện chứng là sự tác động qua lại giữa những mặt, những đặc điểm,
những thuộc tính, những khuynh hướng trái ngược nhau (đối lập nhau) cùng
tồn tại trong một thể thống nhất.
Mâu thuẫn biện chứng là một hiện tượng khách quan và phổ biến, là
nguồn gốc nội tại của mọi vận động và phát triển trong thế giới vật chất cũng
như tinh thần, tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng. Ph.Ăngghen viết: “nếu bản
thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa đựng mâu thuẫn, thì tất
nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự sống
hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng mâu

1

V.I.Lê nin: Toàn tập, tập 29, Nxb tiến bộ Matxcơ va.1981, tr.147-148.


10
thuẫn”2. Những yếu tố, bộ phận tồn tại trong sự vật đối lập nhau, có xu hướng
vận động phát triển ngược chiều nhau mới hình thành mâu thuẫn biện chứng.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau sẽ
hình thành mâu thuẫn biện chứng. Ví dụ: như giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ
trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông
dân trong xã hội phong kiến, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong xã hội tư
bản chủ nghĩa.
2.2. Nội dung cơ bản qui luật

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Sự tồn tại, vận động và phát
triển của các sự vật, hiện tượng là quá trình thống nhất và đấu tranh của các

mặt đối lập, thống nhất là tạm thời tương đối, đấu tranh là tuyệt đối, là nguồn
gốc, động lực vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.
Khi nói tới những nhân tố cấu thành mâu thuẫn biện chứng thì đó chính
là mặt đối lập. Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc
tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại
một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Bất kỳ sự vật hiện
tượng nào cũng chứa đựng những mặt đối lập (chứa đựng mâu thuẫn), triết
học Mác - Lênin gọi đó là sự thống nhất của các mặt đối lập. Sự thống nhất
của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt
đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Sự
thống nhất đó qui định sự vật là nó khác với sự vật khác, là điều kiện tồn tại
của sự vật, thông qua đó mà sự vật biểu hiện sự tồn tại của mình.
Ví dụ: Một cơ thể sống phải thông qua sự tồn tại thống nhất của hai
mặt đối lập là hấp thụ và bài tiết...
Từ quan điểm về sự thống nhất của các mặt đối lập, triết học Mác còn
chỉ rõ sự tồn tại của sự vật luôn diễn ra quá trình đấu tranh để giải quyết mâu
thuẫn. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng
bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập . Như vậy, không nên hiểu
đấu tranh của các mặt đối lập chỉ là sự thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đối lập,
mà chỉ là một trong những hình thức đấu tranh của các mặt đối lập. Sự thống
nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối, là điều kiện để tồn tại của sự
2

Ph.Ăngghen: ChốngÑuy rinh, Nxb Sự thật, H 1984,Tr.202.


11
vật, hiện tượng . Bởi vì, mỗi sự vật, hiện tượng chỉ tồn tại trong một thời gian,
không gian nhất định. Tính tương đối của “sự thống nhất” quy định trạng thái
đứng im tương đối của vật chất vận động. Sự thống nhất của các mặt đối lập

còn có ý nghĩa là “sự phù hợp”, “đồng nhất”, “tác dụng ngang nhau” của các
mặt đối lập. Nhờ sự thống nhất mà các mặt đối lập quan hệ với nhau, cùng tồn
tại trong sự vật, hiện tượng, khiến sự vật, hiện tượng chưa bị phá vỡ, chưa
biến thành cái khác, tồn tại tương đối trong thời gian, không gian nhất định.
Như vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối tạm thời, đóng vai trò
quan trọng trong cơ chế vận động của quy luật và là điều kiện tồn tại của sự
vật, hiện tượng là điều kiện của sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đấu lập,
làm cho sự vật, hiện tượng vừa tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối, vừa
vận động phát triển không ngừng. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt
đối, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Sự đấu tranh ấy là sự tác động
qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định, chuyển hoá lẫn nhau. Sự đấu tranh
của các mặt đối lập diễn ra trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, từ khi sinh
ra đến khi mất đi là hết sức phức tạp, lúc thấp, lúc cao, lúc không gay gắt, lúc
lại xung đột quyết liệt. Mỗi sự vật, hiện tượng mức độ đấu tranh diễn ra khác
nhau, tuỳ theo tính chất của mâu thuẫn, có những mâu thuẫn lúc đầu chỉ biểu
hiện ở sự khác nhau, dần dần trở thành các mặt đối lập, xung đột gay gắt đến
cực độ làm chuyển hoá lẫn nhau, khi đó mâu thuẫn được giải quyết. Mâu
thuẫn được giải quyết thì sự vật, hiện tượng sẽ chuyển hoá thành sự vật, hiện
tượng khác, tức là làm cho sự vật phát triển lên một trình độ cao hơn.
Ví dụ: Quá trình các học viên học tập, là quá trình giải quyết mâu thuẫn
giữa mục tiêu, yêu cầu đào tạo ngày càng cao về phẩm chất, năng lực của
người cán bộ quân sự với khả năng nhận thức có hạn của học viên. Khi mâu
thuẫn đó được giải quyết bản thân mỗi học viên có sự phát triển mới trở thành
một người cán bộ, sĩ quan trong lực lượng vũ trang.
Như vậy, đấu tranh giải quyết mâu thuẫn chính là nguồn gốc, động lực
của sự vận động phát triển. Từ nghiên cứu vị trí, vai trò của mâu thuẫn và quá
trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn, triết học Mác chỉ rõ giữa thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập quan hệ chặt chẽ với nhau: thống nhất là điều
kiện cho đấu tranh; đấu tranh giải quyết mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực, là



12
tiền đề của sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng trong thế giới vật
chất. Mâu thuẫn được giải quyết sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời; sự vật
mới ra đời lại chứa đựng trong lòng nó mâu thuẫn mới và q trình đấu tranh
giải quyết mâu thuẫn lại tiếp tục, cứ như thế làm cho sự vận động phát triển
khơng ngừng, sự vận động phát triển trong thế giới vật chất là vơ tận.
Nhận thức và cải tạo sự vật thực chất là xem xét phát hiện ra mâu thuẫn
và giải quyết mâu thuẫn. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “khi việc gì có mâu
thuẫn, khi phải tìm cách giải quyết, tức là có vấn đề. Khi đã có vấn đề, ta phải
nghiên cứu cho rõ cái gốc mâu thuẫn trong vấn đề đó là gì. Phải điều tra, phải
nghiên cứu cái mâu thuẫn đó. Phải phân tích rõ ràng và có hệ thống, phải biết
rõ cái nào là mâu thuẫn chính, cái nào là mâu thuẫn phụ. Phải đề ra cách giải
quyết”1. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh” 2. Mặt khác, cần “xố bỏ độc quyền và
đặc quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước”3, “xố bỏ mọi rào
cản, tạo tâm lý xã hội và mơi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình
doanh nghiệp của tư nhân phát triển khơng hạn chế quy mơ trong mọi ngành
nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền
kinh tế mà pháp luật khơng cấm”4.
Tuy nhiên, q trình giải quyết mâu thuẫn đó cần phải khắc phục
những biểu hiện khơng dám đấu tranh chỉ ra mâu thuẫn và đấu tranh giải
quyết mâu thuẫn, bởi nó tác động kìm hãm sự phát triển của sự vật. Chẳng
hạn, một tổ chức khi có mâu thuẫn về tư tưởng hoặc một vấn đề nào đó như
kinh tế, quyền lợi của các bộ phận trong đơn vị mà khơng dám đưa ra đấu
tranh giải quyết, thơng qua các buổi sinh hoạt phê bình và tự phê bình để làm
rõ đúng sai, càng che đậy giấu diếm thì càng làm cho mâu thuẫn càng tăng
đơn vị mất đồn kết, khả năng cơng tác thực hiện nhiệm vụ giảm sút. Để đơn

vị vững mạnh thống nhất cao người cán bộ phải chủ động phát hiện mâu
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H 2000, tr. 302.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại Hội Đại biểu tồn Quốc lần thứ X, Nxb CTQG. H 2006, tr. 83.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại Hội Đại biểu tồn Quốc lần thứ X, Nxb CTQG. H 2006, tr. 84.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại Hội Đại biểu tồn Quốc lần thứ X, Nxb CTQG. H 2006, tr. 86-87.
1
2


13
thuẫn và giải quyết mâu thuẫn đó. Trong quản lý, chỉ huy, xây dựng đơn vị
cần chú ý: khi có mâu thuẫn phải nhận thức và giải quyết mâu thuẫn, phải đấu
tranh chống tư tưởng sai trái, không chấp hành nghiêm kỷ luật, qui định của
đơn vị, Nhà trường. Mỗi đồng chí phải góp phần tích cực xây dựng tình đoàn
kết đồng chí, đồng đội, đoàn kết với đơn vị bạn, đoàn kết quốc tế.
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, nó tồn tại ở tất
cả các sự vật, hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật và
hiện tượng. Nhưng ở các sự vật, hiện tượng khác nhau, ở các giai đoạn phát
triển khác nhau của một sự vật, hiện tượng ở mỗi lĩnh vực, mỗi yếu tố cấu
thành một sự vật, hiện tượng sẽ có những mâu thuẫn khác nhau.


14
2.3. Phân loại mâu thuẫn

Thế giới vật chất tồn tại dưới dạng vô số các sự vật, hiện tượng khác
nhau, do đó mà mâu thuẫn cũng phong phú đa dạng. Triết học Mác - Lênin
khái quát nêu lên một số loại mâu thuẫn chính sau đây:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: Mâu thuẫn bên trong là

mâu thuẫn tạo nên do sự tác động giữa các mặt, các thuộc tính, các khuynh
hướng đối lập bên trong sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các
sự vật với nhau. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài có vai trò và
tác động khác nhau, mâu thuẫn bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định
là nguồn gốc, động lực vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn
bên ngoài có vai trò to lớn và quan trọng đối với sự vật, hiện tượng.
Vận dụng, nghiên cứu mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài,
người cán bộ chỉ huy phân đội trong công tác cần phải sâu sát bộ đội, kịp thời
phát hiện ra mâu thuẫn, đặc biệt là mâu thuẫn bên trong. Từ đó, giải quyết
mâu thuẫn một cách triệt để, đồng thời cũng không xem nhẹ giải quyết mâu
thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu: Mâu thuẫn cơ bản là mâu
thuẫn quyết định bản chất của sự vật, hiện tượng nó quyết định quá trình phát
triển của sự vật, hiện tượng từ khi sự vật, hiện tượng bắt đầu tồn tại cho đến
lúc kết thúc. Sự vật, hiện tượng nào cũng có mâu thuẫn cơ bản của nó, khi
mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật, hiện tượng có sự thay đổi về
chất. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu của mỗi giai đoạn
nhất định của quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn chủ yếu
chi phối và có tác dụng quyết định đối với các mâu thuẫn khác trong cùng
một giai đoạn của quá trình phát triển. Mâu thuẫn chủ yếu là hình thức biểu
hiện của mâu thuẫn cơ bản. Do đó, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn chủ yếu
cũng từng bước giải quyết mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng: đây là những
mâu thuẫn đặc thù chỉ có trong xã hội loài người. Mâu thuẫn đối kháng chỉ có
trong xã hội có giai cấp, là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng, lực lượng
xã hội có lợi ích căn bản đối lập nhau. Ví dụ: mâu thu ẫn giữa chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa tư bản; giữa giai cấp công nhân mâu thuẫn với giai cấp tư sản.


15

Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng, những
lực lượng xã hội có lợi ích căn bản thống nhất với nhau, còn mâu thuẫn chỉ là
tạm thời, cục bộ không căn bản. Ví dụ: mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và
giai cấp nông dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hay mâu thuẫn
giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn.
Do có sự khác nhau về bản chất cũng như xu hướng phát triển, cho nên
phương pháp giải quyết mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
cũng khác nhau căn bản. Mâu thuẫn đối kháng, giải quyết bằng đấu tranh cách
mạng. Mâu thuẫn không đối kháng phải giải quyết bằng biện pháp tổ chức,
giáo dục, thuyết phục, phê bình và tự phê bình.
3. QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH

Qui luật phủ định của phủ định là một trong ba qui luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Qui luật khái quát khuynh hướng, con đường vận động
phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
3.1. Phủ định biện chứng và những đặc trưng cơ bản của nó

Khắc phục tư duy siêu hình trong xem xét sự vận động phát triển của
sự vật, hiện tượng, với quan điểm duy vật biện chứng, triết học Mác thấy rõ
sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, sự
đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ
mất đi và sự vật mới ra đời, quá trình đó triết học Mác - Lênin gọi chung là sự
phủ định. Nhưng trong ý thức thông thường, khái niệm “phủ định” thường
được thể hiện bằng từ “không”; phủ định có nghĩa nói “không” bác bỏ một cái
gì đó. Trong phép biện chứng, phủ định được xem là nhân tố của sự phát
triển. Do vậy, khái niệm phủ định có ý nghĩa sâu sắc hơn so với cách sử dụng
trong đời thường. Để đặc trưng cho điều đó, người ta đưa ra khái niệm phủ
định biện chứng:
Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển,
là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với

cái bị phủ định.
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản, một là: phủ định biện
chứng mang tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển; hai là: phủ định
biện chứng mang tính kế thừa, là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới. Tính


16
khách quan của phủ định biện chứng do mâu thuẫn của sự vật quy định. Hơn
nữa, phương thức phủ định sự vật cũng khơng tuỳ thuộc ý muốn của con
người. Ví dụ: một hạt giống tốt được gieo xuống đất trong những điều kiện
thích hợp sẽ mọc thành cây. Phủ định biện chứng khơng phải là sự thủ tiêu, sự
phá huỷ hồn tồn cái bị phủ định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái mới,
q trình phủ định biện chứng bao hàm trong nó những nội dung tích cực của
cái bị phủ định. Do vậy, là sự phủ định mang tính kế thừa. Diễn đạt tư tưởng
đó, V.I.Lênin viết: “khơng phải sự phủ định sạch trơn, khơng phải sự phủ
định khơng suy nghĩ, khơng phải sự phủ định hồi nghi, khơng phải sự do dự,
cũng khơng phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện
chứng… mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của
sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định” 1. Giá trị của sự kế thừa biện
chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra đời của cái mới. Cái mới
khơng ra đời từ hư vơ, nhờ việc giữ lại nhân tố tích cực của cái bị phủ định
mà cái mới có tiền đề cho sự xuất hiện của mình.
Ví dụ: Chế độ xã hội chủ nghĩa phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa,
nhưng cũng giữ lại, kế thừa và tiếp tục phát triển những giá trị tích cực mà
lồi người đã tạo ra dưới chủ nghĩa tư bản. Đó là lực lượng sản suất, nền khoa
học kỹ thuật, phương pháp tổ chức quản lý sản xuất và những mặt hoạt động
khác của xã hội.
Tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về phủ định biện chứng
chúng ta cần phải kiên quyết đấu tranh chống những người theo quan điểm
siêu hình, coi sự phủ định như sự bác bỏ, loại bỏ sạch trơn hồn tồn sự vật

cũ, khi khơng ưa thích một cái gì họ loại bỏ tất cả. Ngược lại với quan điểm
phủ định sạch trơn một số người có tư tưởng kế thừa một cách ngun xi,
khơng có chọn lọc, khơng có cải tạo phát triển lên một tầm cao mới. Như vậy,
cả hai khuynh hướng trên đều là sai lầm, cần phải đấu tranh loại bỏ.
Nắm chắc những nội dung cơ bản của phủ định biện chứng có một ý
nghĩa rất quan trọng với người cán bộ trong lực lượng vũ trang, là cơ sở khoa
học xây dựng cho mỗi chúng ta phương pháp cơng tác, biết kế thừa, trân trọng

1

V.I.Lê nin: Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Matxcơva1981, tr. 245.


17
những giá trị vật chất, tinh thần, tiến bộ mà nhân loại tạo ra. Đồng thời tránh
được những quan điểm siêu hình trong công tác và hoạt động quân sự.
3.2. Nội dung cơ bản qui luật

Qui luật phủ định của phủ định khái quát tính chất, xu hướng vận động
phát triển tiến lên của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, nhưng quanh co
phức tạp, thông qua những lần phủ định biện chứng liên tục mang tính chu kỳ
với hai lần phủ định cơ bản. Đó là quá trình cái mới phủ định cái cũ, cái mới
vừa gạt bỏ cái cũ vừa kế thừa những tinh hoa trong lòng cái cũ theo chiều
hướng tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến ngày càng hoàn thiện hơn, cái mới là cái tất thắng.
Như vậy, qui luật phủ định của phủ định là sự khái quát quá trình tự
thân vận động của sự vật, hiện tượng, khái quát quá trình phủ định biện
chứng. Đó là quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn trong lòng sự vật, hiện
tượng khi mâu thuẫn được qiải quyết, có nghĩa là sự vật, hiện tượng cũ mất đi
sự vật, hiện tượng mới ra đời và mâu thuẫn mới xuất hiện và quá trình đấu

tranh giải quyết mâu thuẫn lại tiếp tục. Tuy nhiên, sự phủ định biện chứng của
sự vật, hiện tượng mang tính chu kỳ lặp lại và thông qua những lần phủ định
biện chứng, làm cho khuynh hướng chung của sự vận động, của sự vật, hiện
tượng là phát triển, tiến bộ. Tính qui luật chung của sự vận động thể hiện:
Mọi sự vật, hiện tượng trải qua hai lần phủ định cơ bản mới thể hiện sự phát
triển đầy đủ, mới tái lập được sự vật ban đầu và trên cơ sở cao hơn sự vật ban
đầu. Trong hai lần phủ định cơ bản, lần phủ định cơ bản thứ nhất làm cho sự
vật mới ra đời trở thành cái đối lập với sự vật ban đầu. Tuy nhiên nó vẫn là
cái tiến bộ hơn.
Giả sử ta có sự vật A, trong quá trình tồn tại của nó xuất hiện mặt đối
lập với A dần dần phát triển, nó chiến thắng mặt đối lập A mâu thuẫn được
giải quyết, sự vật A mất đi sự vật B ra đời thay thế nó. Lần phủ định biện
chứng thứ nhất đã được thực hiện. Sự vật B ra đời là cái đối lập với sự vật
ban đầu.
Nếu gọi sự vật A là cái khẳng định thì sự vật mới ra đời tức B là cái
phủ định đối với A. Như vậy, lần phủ định cơ bản thứ nhất được thực hiện
đây là lần phủ định tạo tiền đề cho lần phủ định tiếp theo.


18
Lần phủ định thứ hai: Khi sự vật A (cái khẳng định) bị cái B phủ định.
Sự vật mới ra đời tức sự vật B lại chứa đựng trong lòng nó những mâu thuẫn
mới và mặt đối lập với B sẽ dần dần phát triển trong khi cái B ngày càng trở
nên lỗi thời lạc hậu đi. Khi hai mặt đối lập đã phủ định B thì sự vật mới ra
đời. Qua hai lần phủ định biện chứng ta thấy sự vật dường như đã lặp lại sự
vật ban đầu (cái khẳng định A) nhưng nó không hoàn toàn là cái khẳng định
mà là một sự vật mới có sự phát triển cao hơn sự vật ban đầu. Như vậy qua
hai lần phủ định cơ bản thì sự vật thể hiện được một chu kỳ phát triển. Tuy
nhiên sự phát triển đó không phải là một sự dễ dàng, một đường thẳng mà con
đường của sự phát triển quanh co phức tạp. Ví dụ: sự phủ định của hạt lúa khi

có điều kiện thuận lợi, hạt lúa chuyển hoá nảy mầm thành cây mạ (lúa), đó là
lần phủ định thứ nhất. Khi cây lúa trưởng thành trổ bông cho những hạt lúa
mới, đó là lần phủ định thứ hai.
Như vậy, qua một chu kỳ phủ định của hạt lúa, mới nói lên sự phát
triển. Hạt lúa mới ra đời có sự phát triển hơn cả về số lượng và chất lượng tức
là khả năng thích ứng môi trường cũng có sự phát triển.
Triết học Mác - Lênin chỉ ra sự vận động phát triển của xã hội đã, đang
thể hiện và tuân theo qui luật phủ định của phủ định. Ban đầu xã hội loài
người là xã hội không có giai cấp (xã hội cộng sản nguyên thuỷ) trong quá
trình phát triển của nó bị xã hội có giai cấp phủ định, trong sự tồn tại phát
triển của các xã hội có giai cấp tất yếu nó sẽ bị một xã hội mới không có giai
cấp phủ định, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu (giai đoạn
thấp) là chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, thế giới vật chất tồn tại dưới vô số các sự vật, hiện tượng
do đó sự phủ định cũng diễn ra rất phong phú muôn vẻ. Các sự vật, hiện
tượng ngoài việc tuân theo hai lần phủ định cơ bản có thể có những lần phủ
định không cơ bản khác, số lần phủ định có thể ít hoặc nhiều tuỳ loại các sự
vật, hiện tượng khác nhau. Ví dụ: xã hội loài người ngoài sự tuân theo hai lần
phủ định cơ bản thì có những lần phủ định không cơ bản. Xã hội mới ra đời
thay thế xã hội cũ vẫn giống xã hội cũ về bản chất của chế độ xã hội tức là xã
hội dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư lệu sản xuất, sự áp bức bóc lột đó
là các xã hội: Chiến hữu nô lệ; phong kiến; tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên xã


19
hội mới ra đời có sự phát triển cao hơn xã hội trước đó trên nhiều mặt của xã
hội từ vật chất đến đời sống tinh thần.
Sự phát triển của xã hội loài người thể hiện sự vận động phát triển tuân
theo qui luật. Sự xuất hiện của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa là
tất yếu là hợp qui luật và nhất định chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản sẽ

thay thế chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới. Đây cũng là điều đang đặt ra cho
các dân tộc chậm phát triển trong cuộc đấu tranh giành độc lập, dân tộc và
hướng sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là sự phát
triển hợp qui luật.
Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin cũng chỉ rõ: Mặc dù con đường của sự
vận động, phát triển là quanh co phức tạp nhưng cái mới cái tiến bộ hợp qui
luật, là cái tất thắng. Trong quá trình vận động, trong sự đấu tranh của các mặt
đối lập, cái mới lúc đầu còn là cái mầm mống, còn non yếu, trong khi cái cũ
đã lỗi thời lạc hậu nhưng nó còn có sức mạnh nhất định. Do đó, có lúc cái mới
tạm thời bị cái cũ lấn át, tạm thời thất bại. Song, vì cái mới là cái tiến bộ, cái
hợp qui luật, do đó, nó nảy sinh phát triển và ngày càng lớn mạnh, trong khi
cái cũ do không hợp qui luật nên ngày càng suy tàn đi và đến một lúc nào đó
cái mới sẽ chiến thắng cái cũ.
Ví dụ: trong xã hội có giai cấp, cuộc đấu tranh của giai cấp bị áp bức,
bóc lột, chống lại giai cấp bóc lột, không phải bao giờ cũng giành được thắng
lợi. Có khi giai cấp bị bóc lột, phong trào cách mạng bị thất bại tạm thời.
Song, cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân bị bóc lột không vì thế mà
chấm dứt, trái lại phong trào cách mạng cũng phát triển cả về phạm vi, quy
mô… những cuộc đấu tranh xuất hiện, phong trào đấu tranh phát triển chế độ
bóc lột, lỗi thời được thay thế bằng một xã hội mới tiến bộ hơn.
Khái quát qui luật phủ định của phủ định V.I.Lênin đã chỉ ra sự vận
động phát triển của thế giới diễn ra theo hình “xoáy ốc”. Hình “xoáy ốc” ở
đây là sự mô hình hoá của V.I.Lênin, nó vừa thể hiện tính chu kỳ, tính vô tận
trong sự vận động phát triển của thế giới vật chất; sự kết thúc của một chu kỳ
lại là điểm khởi đầu mở ra một chu kỳ mới, đồng thời chỉ rõ khuynh hướng
chung của sự vận động là phát triển tiến lên, nhưng theo con đường quanh co,
phức tạp.


20

Qui luật phủ định của phủ định là qui luật chung trong sự vận động,
phát triển của thế giới. Nghiên cứu qui luật này cho ta cơ sở để xây dựng thế
giới quan, phương pháp luận khoa học trong nhận thức và trong hoạt động
thực tiễn, mà trước hết là xây dựng tinh thần lạc quan cách mạng, tin vào
thắng lợi của cuộc đấu tranh chống lại những lực lượng phản động vì sự tiến
bộ xã hội, vì quyền chân chính của con người. Đồng thời, xây dựng lập
trường kiên định cách mạng không dao động trước mọi khó khăn, trước
những thất bại tạm thời. Chúng ta cần lưu ý rằng cái mới nhất định sẽ thay thế
cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ thắng cái lạc hậu, cái mới ra đời từ cái cũ, nó
kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Do đó, cần chống thái độ phủ định
sạch trơn. Trong công tác, đặc biệt trong hoạt động quân sự phải biết phát
hiện và quý trọng cái mới, phải tin tưởng vào tương lai phát triển của cái mới,
phát huy cái mới, tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ. Phải biết quý trọng
những giá trị tư duy truyền thống hàng ngàn năm tồn tại, phát triển của dân
tộc và những kinh nghiệm trong đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Đây là cơ sở giúp ta nhận thức và giải quyết đúng những vấn đề quân
sự hiện đại.
Người cán bộ phân đội trước hết xây dựng lòng tin tuyệt đối vào sự
nghiệp cách mạng và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, vào con đường mà Bác
Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, giáo dục cho bộ đội, giúp đỡ bộ đội
khắc phục mọi khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Biết phân tích và ủng hộ sự ra đời của cái mới, góp phần xây dựng quân đội ta
ngày càng vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa.
KẾT LUẬN

Mỗi quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật đề cập một phương
diện của quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong thực
tế, sự vận động và phát triển của bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào cũng là
sản phẩm tác động tổng hợp của tất cả các quy luật của phép biện chứng duy
vật. Trong quá trình tích luỹ về lượng để tiến tới thay đổi về chất cũng phải

chú ý phát hiện ra mâu thuẫn và tìm ra phương thức để giải quyết mâu thuẫn.
Bước nhảy được thực hiện, mâu thuẫn được giải quyết cũng tức là sự phủ
định biện chứng được hoàn thành, cái mới ra đời sẽ là cái chiến thắng.



×