Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề TRIẾT học NGUỒN gốc, bản CHẤT của NHÀ nước và TÍNH tất yếu của một CUỘC CÁCH MẠNG xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.79 KB, 23 trang )

NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA MỘT
CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. NHÀ NƯỚC

3

1.1. Nguồn gốc, bản chất của nhà nước

3

1.2. Đặc trưng và chức năng cơ bản của nhà nước

6

1.3. Các kiểu và hình thức nhà nước

9

1.4. Nhà nước xã hội chủ nghĩa (nhà nước vô sản) và sự vận dụng của
Đảng ta

10

2. CÁCH MẠNG XÃ HỘI



13

2.1. Bản chất và vai trò của cách mạng xã hội

13

2.2. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội

17

2.3. Hình thức và phương pháp cách mạng

18

2.4. Cách mạng vô sản một kiểu cách mạng xã hội đặc thù

20

KẾT LUẬN

23


2
LỜI NÓI ĐẦU

Nhà nước và cách mạng xã hội là vấn đề lí luận và thực tiễn phức tạp,
nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các giai cấp. Lý luận về
nhà nước và cách mạng xã hội là nội dung quan trọng của chủ nghĩa duy vật

lịch sử - một trong hai tấm thép đúc thành triết học Mác. Với thế giới quan,
phương pháp luận khoa học, chủ nghĩa Mác - Lênin đã giải quyết đúng đắn,
triệt để những vấn đề cơ bản mà lý luận và thực tiễn về Nhà nước và cách
mạng xã hội đặt ra. Trong thời đại hiện nay, vấn đề nhà nước và cách mạng xã
hội đang là một trong những tâm điểm quan trọng của cuộc đấu tranh giai cấp.
Nghiên cứu, nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và
cách mạng xã hội có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
1. NHÀ NƯỚC

1.1. Nguồn gốc, bản chất của nhà nước

- Nguồn gốc của nhà nước:
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại có nhiều quan niệm khác nhau về vấn
đề nhà nước. Các trường phái triết học ngoài mácxít, do sự khác nhau về thế
giới quan và lập trường giai cấp nên họ có những cách lý giải khác nhau về
nguồn gốc của nhà nước. Nhưng tự trung lại có hai xu hướng chính. Xu
hướng thứ nhất cho rằng, nhà nước là tổ chức được áp đặt từ bên ngoài vào để
duy trì trật tự xã hội. Xu hướng thứ hai coi, nhà nước xuất hiện như một hiện
tượng tự nhiên gắn liền với đời sống xã hội và nhằm điều hoà các mâu thuẫn
trong xã hội. Nghĩa là, họ khẳng định nhà nước là một hiện tượng tự nhiên
gắn liền với mọi thời đại.
Đối lập với những quan điểm trên, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định,
nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật
tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác. Nhà nước ra đời
trong phương thức sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất và đối kháng giai cấp không thể điều hoà được. Nguồn gốc sâu xa, xét
đến cùng của sự ra đời nhà nước là nguồn gốc kinh tế, đó là do sự phát triển
của lực lượng sản xuất đưa tới sự xuất hiện của chế độ chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất. Nguồn gốc trực tiếp là sự xuất hiện giai cấp và mâu thuẫn
giai cấp không thể điều hoà.



3

Lịch sử cho thấy, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chưa có nhà
nước. Sự cố kết cộng đồng một cách tự nhiên trong các thị tộc, bộ lạc, bộ tộc
liên hệ với nhau bằng quan hệ huyết thống. Điều hành công việc là những tù
trưởng, tộc trưởng, thủ lĩnh quân sự, hoặc hội đồng các trưởng tộc. Các tổ
chức của xã hội nguyên thuỷ không mang tính chính trị, họ duy trì hoạt động
bằng uy tín cá nhân, bằng dư luận. Xã hội lúc đó không cần đến bất kỳ một tổ
chức cưỡng bức nào, nhưng xã hội vẫn tồn tại trong vòng trật tự... Đánh giá
về thể chế tổ chức xã hội thời kỳ này, Ph.Ăngghen viết: “với tất cả tính ngây
thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao;
không có quân đội hiến binh và cảnh sát, không có quí tộc, vua chúa, tổng
đốc, chưởng quan, quan toà, không có nhà tù, không có các vụ xử án thế mà
mọi việc đều trôi chảy”1.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, đưa tới sự xuất hiện chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất, xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng. Từ đó,
quan hệ người áp bức, bóc lột người thay thế quan hệ bình đẳng, hợp tác,
tương trợ. Mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột, thống trị và giai cấp bị bóc lột, bị
thống trị ngày càng sâu sắc. Cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đó không ngừng
diễn ra và không thể điều hoà được. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp đó
chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để bảo vệ lợi
ích ích kỷ của giai cấp thống trị, đàn áp sự phản kháng của giai cấp bị trị, giai
cấp thống trị đã lập ra một cơ quan quyền lực đặc biệt đó là nhà nước. Nhà
nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, ra đời trong cuộc
đấu tranh không thể điều hoà giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Tiếp đến
là nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản, cũng xuất hiện từ mâu thuẫn đối
kháng vốn có của từng xã hội. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Nhà nước là sản phẩm
và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ

ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn
giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự
tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể
điều hoà được”2. Những vấn đề như nhu cầu về chống thiên tai, chiến tranh,
chỉ là tiền đề đẩy nhanh hơn việc hoàn thiện và củng cố quyền lực nhà nước
1
2

C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn Tập, Nxb CTQG, H 1995, Tập 21,, Tr 147.
V.I.Lênin: Toàn Tập, Nxb TB M 1976, Tập 33, Tr 9.


4

chứ không phải nguồn gốc của sự xuất hiện nhà nước (một số nhà nước ở
châu Á).
Như vậy, sự ra đời của nhà nước không phải là hiện tượng tự nhiên gắn
liền với đời sống xã hội, không phải là của mọi xã hội, mọi thời đại mà từ nguồn
gốc kinh tế - xã hội khách quan, và gắn liền với các cuộc đấu tranh giai cấp trong
lịch sử. Nhà nước chỉ tồn tại ở những giai đoạn lịch sử nhất định và sẽ mất đi khi
cơ sở kinh tế, xã hội sinh ra nó không còn. Nhà nước là một phạm trù lịch sử.
Nghiên cứu quan điểm triết học Mác - Lênin về nguồn gốc của nhà nước là cơ sở
lý luận khoa học để tiếp cận một cách đúng đắn vấn đề bản chất của nhà nước và
đấu tranh chống các quan điểm duy tâm, phản động xung quanh vấn đề này.
- Bản chất của nhà nước:
Các nhà xã hội học tư sản cho rằng, nhà nước là người trọng tài công
minh bảo vệ lợi ích cho mọi người, là tổ chức phi giai cấp và mãi mãi cần cho
xã hội. Quan điểm của họ đã xoá nhoà mâu thuẫn giai cấp, biện hộ cho sự
thống trị và bóc lột của giai cấp nắm trong tay bộ máy nhà nước.
Khác về bản chất với quan điểm của các nhà xã hội học tư sản, chủ

nghĩa Mác - Lênin khẳng định, nhà nước là bộ máy thống trị của giai cấp này
đối với giai cấp khác, là tổ chức để thực hiện quyền lực, ý chí của giai cấp
thống trị về kinh tế đối với toàn xã hội.
Nhà nước là bộ máy thống trị, là công cụ để giai cấp thống trị thực hiện
quyền lực của mình đối với toàn xã hội. Ph.Ăngghen đã viết: “Nhà nước
chẳng qua chỉ là bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai cấp
khác”1. Để bảo vệ lợi ích ích kỷ của giai cấp mình, đàn áp sự phản kháng của
giai cấp bị trị và bắt họ phải phục tùng, tuân theo những trật tự do mình đặt ra,
giai cấp thống trị đã lập ra một cơ quan quyền lực đặc biệt đó là nhà nước.
Nhà nước do giai cấp thống trị tổ chức ra, là bộ máy thống trị của giai cấp.
Bởi vậy, nhà nước mang bản chất giai cấp sâu sắc, mang bản chất của giai cấp
đã tổ chức và lãnh đạo nó. Bản chất giai cấp của nhà nước được biểu hiện ở
quan điểm tư tưởng, mục đích hoạt động, tổ chức thiết chế và ở chức năng
của nhà nước.

1

C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn Tập, Nxb CTQG, H 1995, Tập 22,, Tr 290-291.


5

Thực tế lịch sử đưa lại nhiều bằng chứng nói lên rằng, dù được che đậy
dưới hình thức tinh vi như thế nào, dù có bị khúc xạ qua những lăng kính
phức tạp ra sao, nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là
công cụ bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị và cũng chỉ là “một cơ
quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với
một giai cấp khác”1.
Với tư cách là bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai cấp
khác, nhà nước của giai cấp bóc lột không phải là kẻ công bằng, bảo vệ lợi ích

cho các giai cấp, cả lợi ích của giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Mà nó là
một bộ máy, một tổ chức chặt chẽ, tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội
do giai cấp thống trị lập ra nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức của
giai cấp thống trị đối với quần chúng lao động. Trong hệ thống tổ chức thiết
chế xã hội, nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng
trong xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội do
nhà nước tiến hành, xét đến cùng đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống
trị. Ph.Ăngghen đã khẳng định: nhà nước, nói chung chỉ là sự phản ánh, dưới
hình thức tập trung những nhu cầu kinh tế của giai cấp thống trị trong sản
xuất. Ở nhiều nước tư bản hiện nay, với sự tồn tại của nhiều giai cấp, nhiều
đảng phái chính trị, nhà nước cũng chưa bao giờ là công cụ của mọi giai cấp,
là nhà nước chung của mọi giai cấp. Nhà nước Mỹ có thể do đảng Dân chủ
hoặc đảng Cộng hoà lãnh đạo, nhưng thực chất cũng là đảng của giai cấp tư
sản, nhà nước ấy vẫn là nhà nước của giai cấp tư sản. Nhà nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, mang
bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam. Xuất phát từ sự thống nhất về lợi
ích căn bản của giai cấp công nhân Việt Nam với lợi ích căn bản của quần
chúng nhân dân trong xã hội nên Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Tóm lại, nguồn gốc sâu xa ra đời của nhà nước là nguồn gốc kinh tế.
Nguồn gốc trực tiếp là sự phân chia giai cấp và mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hoà. Nhà nước là công cụ chuyên chính của một giai cấp; không có và

1

V.I.Lênin: Toàn Tập, Nxb TB M 1976, Tập 33, Tr 10.


6


không thể có nhà nước chung của mọi giai cấp hoặc nhà nước phi giai cấp.
Nhà nước chỉ là của giai cấp này hoặc là của giai cấp khác.
1.2. Đặc trưng và chức năng cơ bản của nhà nước

- Đặc trưng cơ bản của nhà nước:
Các nhà nước được tổ chức một cách khác nhau. Song, bất cứ nhà
nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau:
Quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Đây là đặc trưng làm
rõ sự khác biệt của nhà nước với các hình thức tổ chức thị tộc, bộ lạc. Thị tộc,
bộ lạc hình thành trên cơ sở quan hệ huyết thống còn nhà nước được hình
thành trên cơ sở phân chia dân cư theo địa bàn lãnh thổ mà họ cư trú. Về
nguyên tắc, quyền lực nhà nước có hiệu lực đối với mọi thành viên sinh sống
trên địa bàn ấy. Do đó biên giới quốc gia xuất hiện.
Có một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng
chế đối với mọi thành viên trong xã hội. Đây là đặc trưng quan trọng nhất.
Những đội vũ trang đặc biệt bao gồm quân đội nhà nghề, cảnh sát vũ trang, nhà
tù và những cơ quan cưỡng bức, cơ quan hành chính… Những cơ quan này
thực hiện chức năng cai trị, trấn áp, buộc mọi người phải phục tùng ý chí của
giai cấp cầm quyền. V.I.Lênin khẳng định: "quân đội thường trực và cảnh sát
là những công cụ vũ lực chủ yếu của quyền lực nhà nước"1. Bởi vậy, phải tìm
đặc trưng của nhà nước trong những cơ quan thuần tuý trấn áp của nó.
Hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.
Bộ máy cai trị tồn tại được là nhờ sự cung cấp của nhân dân bằng con đường
cưỡng bức hay tự nguyện hoặc phối hợp cả cưỡng bức và tự nguyện.
- Chức năng cơ bản của nhà nước:
Bản chất giai cấp của nhà nước được thể hiện ở chức năng cơ bản của
nó. Song, từ những góc độ tiếp cận khác nhau, chức năng của nhà nước được
phân chia khác nhau.
Khi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà
nước có chức năng là công cụ thống trị chính trị của giai cấp và thực hiện

chức năng xã hội mà giai cấp thống trị buộc phải làm. Chức năng thống trị
chính trị của giai cấp thể hiện ở việc nhà nước sử dụng mọi công cụ, biện
1

V.I.Lênin: Toàn Tập, Nxb TB M 1976, Tập 33, Tr 12.


7

pháp, phương tiện để bảo vệ và thực hiện mục đích chính trị, quyền và lợi ích
của giai cấp thống trị. Chức năng xã hội thể hiện ở việc nhà nước thực hiện
quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thoả mãn một số nhu
cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Như
thực hiện các phúc lợi chung, phòng chống thiên tai, dịch bệnh, y tế, giáo dục,
bảo hiểm, thất nghiệp… Hai chức năng này có quan hệ chặt chẽ và tác động
qua lại với nhau. Trong đó, chức năng thống trị chính trị của giai cấp chi phối
phương hướng và mức độ thực hiện chức năng xã hội của nhà nước. Mặt
khác, việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề chung của xã hội sẽ tạo điều
kiện để duy trì xã hội trong vòng trật tự, theo quan điểm và lợi ích của giai
cấp cầm quyền, là phương thức, điều kiện để nhà nước thực hiện vai trò thống
trị của mình với toàn xã hội. Khi xã hội không còn giai cấp thì những nội
dung thuộc chức năng xã hội do xã hội đảm nhiệm và khi đó chế độ tự quản
của nhân dân được xác lập. Ph.Ăngghen đã viết: "chức năng xã hội là cơ sở
của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng
nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó "1.
Khi xem xét ở góc độ phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ở tầm
vĩ mô (là một tổ chức đại biểu cho chủ quyền quốc gia), thì nhà nước có chức
năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội: Đó là việc nhà nước
giải quyết các công việc trong nước; duy trì trật tự kinh tế, chính trị, xã hội và
những trật tự khác hiện có trong xã hội theo mục đích, lợi ích của giai cấp

cầm quyền. Chức năng đối ngoại: Bảo vệ lãnh thổ quốc gia và quan hệ với
các quốc gia khác vì lợi ích của giai cấp thống trị. Hai chức năng này quan hệ
chặt chẽ với nhau, phản ánh bản chất giai cấp của nhà nước, nó đều xuất phát
từ lợi ích của giai cấp thống trị. Trong đó, đối nội là chức năng chủ yếu giữ
vai trò chi phối chức năng đối ngoại, bởi lẽ nhà nước ra đời, tồn tại do cơ cấu
giai cấp bên trong mỗi quốc gia qui định, sự thống trị ở mỗi quốc gia được
thực hiện trước hết trên mỗi quốc gia dân tộc, lợi ích giai cấp thống trị chủ
yếu cai trị nhân dân trong nước. Mặt khác, chức năng đối ngoại tác động
mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trước
xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá đời sống kinh tế và một số lĩnh vực của đời
1

C.M ác-Ph.Ăngghen: Toàn Tập, Nxb CTQG, H 1994, Tập 20,, Tr 253.


8

sống xã hội, chức năng đối ngoại càng có vị trí quan trọng. Các nhà nước
không thể không có quan hệ với các nhà nước và quốc gia khác, cũng như
không thể né tránh, thờ ơ, đứng ngoài những vấn đề toàn cầu. Quan hệ quốc
tế và việc tham gia giải quyết những vấn đề toàn cầu có tác động không nhỏ
đến những vấn đề trong nước, nó có thể trực tiếp thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh ở mỗi nước.
Đảng ta chỉ rõ: Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh (đối nội). Mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương, đa dạng
hoá vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực nhằm phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội thực hiện
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước (đối ngoại).
1.3. Các kiểu và hình thức nhà nước


Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về
giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở kinh tế nào và tương ứng với hình thái kinh tế
- xã hội nào. Nói đến kiểu nhà nước là nói đến tổng thể các dấu hiệu cơ bản,
thể hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội và những điều kiện phát sinh, tồn tại,
phát triển của nhà nước đó trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Kiểu
tổ chức quyền lực nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của nó, bởi tính
chất và trình độ phát triển của sản xuất, của kinh tế… Học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội của C.Mác, là cơ sở để xác định các kiểu nhà nước trong lịch
sử. Trong lịch sử, tương ứng với 3 kiểu hình thái kinh tế xã hội có đối kháng
giai cấp và giai đoạn đầu của hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa, xã hội đã
tồn tại bốn kiểu nhà nước. Đó là: nhà nước chiếm hữu nô lệ; nhà nước phong
kiến; nhà nước tư bản chủ nghĩa; nhà nước xã hội chủ nghĩa - kiểu nhà nước
đặc thù, là nhà nước kiểu mới, nhà nước không còn nguyên nghĩa, nó tồn tại
trong thời kỳ quá độ từ xã hội có nhà nước sang xã hội không còn nhà nước.
Mỗi kiểu nhà nước lại có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Hình
thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức
thực hiện quyền lực nhà nước; nói cách khác đó là hình thức cầm quyền của
giai cấp thống trị. Hình thức tổ chức quyền lực nhà nước bị quy định bởi bản
chất giai cấp của nhà nước, bởi tương quan so sánh lực lượng giữa các giai cấp,


9

bởi cơ cấu xã hội - giai cấp, bởi đặc điểm truyền thống chính trị của đất nước.
Chính vì vậy mà nhà nước rất phong phú về hình thức. Hình thức chính thể,
gồm có chính thể quân chủ (quân chủ chuyên chế; quân chủ hạn chế; quân chủ
lập hiến) và chính thể cộng hoà (cộng hoà quí tộc; cộng hoà tổng thống; cộng
hoà dân chủ; cộng hoà xô viết; cộng hoà dân chủ nhân dân). Hình thức cấu trúc
(lãnh thổ): nhà nước liên bang và nhà nước đơn nhất.

Nhà nước chiếm hữu nô lệ, kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử, tồn tại
dưới hai hình thức, đó là hình thức nhà nước quân chủ và hình thức nhà nước
cộng hoà dân chủ. Các hình thức này chỉ khác nhau về cách thức và cơ chế
hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước, còn bản chất của chúng đều là nhà
nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện sự chuyên chính đối với nô lệ.
Nhà nước phong kiến, tồn tại dưới hai hình thức cơ bản, đó là hình thức
nhà nước phong kiến phân quyền và hình thức nhà nước phong kiến tập quyền.
Nhưng dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, nhà nước phong kiến cũng chỉ là
cơ quan bảo vệ những đặc quyền phong kiến, là công cụ của giai cấp địa chủ
phong kiến dùng để áp bức, thống trị nông nô.
Nhà nước tư sản, tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nói
chung chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hoà (cộng hoà đại
nghị; cộng hoà tổng thống) và hình thức quân chủ lập hiến. Nhưng, dù tồn tại
dưới hình thức nào, nhà nước tư sản vẫn là nhà nước của giai cấp tư sản. Bản
chất, nó vẫn là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức, thống trị giai cấp
vô sản và quần chúng lao động, bảo vệ lợi ích và quyền thống trị của giai cấp
tư sản. Đúng như V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Những hình thức của nhà nước tư sản
thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả
những hình thức nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền
chuyên chính tư sản”1.
Tóm lại, các hình thức nhà nước không làm thay đổi bản chất giai cấp
của nhà nước.
1.4. Nhà nước xã hội chủ nghĩa (nhà nước vô sản) và sự vận dụng của
Đảng ta.

1

V.I.Lênin: Toàn Tập, Nxb TB M 1980, Tập 33, Tr 44.



10

- Sự ra đời và tồn tại của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách
quan, phù hợp qui luật vận động phát triển của xã hội loài người. Đấu tranh
giai cấp của giai cấp vô sản tất yếu giai cấp vô sản giành được chính quyền và
trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Tuy nhiên, việc giai cấp vô sản giành
được chính quyền mới chỉ là bước đầu, mục tiêu cuối cùng của giai cấp vô sản
là xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản - một xã hội không còn giai cấp,
không còn bóc lột; giai cấp tư sản và các thế lực thù địch mặc dù đã bị đánh
đổ nhưng vẫn còn tiềm lực và tìm mọi cách chống phá cách mạng một cách
quyết liệt… Bởi vậy, giai cấp vô sản cần có chính quyền nhà nước làm công
cụ chủ yếu của mình để trấn áp kẻ thù, xoá bỏ những cản trở đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đặc biệt là xoá bỏ chế độ bóc lột dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất; phát huy và hoàn thiện không ngừng nền
sản xuất xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ tính tích cực sáng tạo của nhân
dân; xây dựng và củng cố lực lượng quốc phòng, chống sự xâm lược của chủ
nghĩa đế quốc, bảo vệ thành quả cách mạng; mở rộng giao lưu để tiếp thu và
tận dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật của nền văn minh nhân loại phục
vụ sự nghiệp xây dựng thành công xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
C.Mác đã chỉ rõ: “Giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một
thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ
ấy là một thời kỳ quá độ chính trị mà nhà nước của thời kỳ ấy không thể là
cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”1.
Như vậy, tổ chức ra nhà nước xã hội chủ nghĩa là qui luật phổ biến đối
với tất cả các dân tộc thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch
sử, là nhà nước kiểu mới, nhà nước “nửa” nhà nước. Thể hiện ở những đặc
trưng cơ bản của nó, đó là:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của quần chúng lao động, nhà

nước của dân, do dân, vì dân; là tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (đây là đặc trưng cơ bản
nhất phân biệt với nhà nước của các giai cấp bóc lột).
1

C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn Tập, Nxb CTQG, H 1995, Tập 19,, Tr 47.


11

Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan cưỡng chế, đồng thời là cơ
quan quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội, cùng một lúc nó thực hiện hai chức
năng đó là trấn áp kẻ thù và tổ chức xây dựng xã hội mới; trong đó chức năng
xây dựng là cơ bản, chủ yếu nhất.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân
tộc và tính quốc tế.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước tự tiêu vong.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, như
nhà nước vô sản kiểu Công xã, nhà nước vô sản kiểu Xô viết, nhà nước dân
chủ nhân dân. Dù tồn tại dưới hình thức nào thì nhà nước vô sản cũng là
chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân.
- Lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa
học để Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Sự ra đời và tồn tại nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là một tất yếu lịch sử, là kết quả và đòi hỏi của quá trình đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng; đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam mà ta xây dựng là nhà nước của dân, do dân, vì dân; là trụ cột của hệ
thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng

sản Việt Nam.
Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”… “Bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực
nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp…”1.
Bản chất và đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được thể hiện:
Một là: Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân.

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb, CTQG 2006, Tr126.


12

Hai là: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch
và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Ba là: Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp và
pháp luật; trong đó hiến pháp và pháp luật luôn giữ vị trí tối thượng trong
điều chỉnh tất cả các mối quan hệ xã hội.
Bốn là: Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, thực hành dân chủ và tăng cường kỷ cương, pháp luật.
Năm là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, chịu sự giám sát của nhân dân, sự phản biện của
mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.
Để thực hiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam với những đặc trưng trên Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật; xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát; đổi mới
hoạt động của quốc hội; đẩy mạnh cải cách hành chính; xây dựng cơ quan tư
pháp vững mạnh; nâng cao chất lượng hội đồng nhân dân; chấn chỉnh bộ máy
và quy chế hoạt động của cơ quan cán bộ, công chức.
Bằng việc thực hiện tổng hợp và đồng bộ những nhiệm vụ đó, chúng ta
sẽ từng bước hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để
xây dựng thành chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. CÁCH MẠNG XÃ HỘI

2.1. Bản chất và vai trò của cách mạng xã hội

- Khái niệm cách mạng xã hội:
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính bước ngoặt và
căn bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương
thức chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế
- xã hội cao hơn.
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã
lỗi thời, thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn.
Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, giành chính quyền vẫn là vấn đề cơ
bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Bởi vì, chỉ khi nào giành được chính


13

quyền, giai cấp cách mạng mới xác lập được nền chuyên chính của mình, tiến
tới bảo đảm được quyền lực của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi xã hội có giai cấp thì có
đấu tranh giai cấp mà biểu hiện cao nhất của đấu tranh giai cấp là cách mạng
xã hội, bước nhảy vọt vĩ đại trong sự phát triển của xã hội. V.I.Lênin: "Việc

chuyển chính quyền từ tay giai cấp này sang tay giai cấp khác là dấu hiệu cơ
bản đầu tiên của cách mạng cả ý nghĩa khoa học cũng như ý nghĩa chính trị
thực tiễn của khởi nghĩa".
Cần phải phân biệt cách mạng xã hội với:
Tiến hoá xã hội: cũng là hình thức phát triển của xã hội. Nhưng nó khác
với cách mạng xã hội, nó là quá trình phát triển diễn ra một cách tuần tự, dần
dần với những biến đổi cục bộ trong một hình thái kinh tế - xã hội. Song tiến
hoá xã hội và cách mạng xã hội quan hệ mật thiết với nhau, tiến hoá xã hội
tạo điều kiện tiền đề cho cách mạng xã hội, cách mạng xã hội lại mở đường
cho tiến hoá xã hội.
Cải cách xã hội: Cũng tạo nên sự thay đổi về chất nhất định trong đời sống
xã hội. Nhưng khác về nguyên tắc với cách mạng xã hội, vì cải cách xã hội chỉ tạo
nên sự biến đổi riêng lẻ bộ phận trong khuôn khổ một xã hội. Nếu cải cách xã hội
phù hợp thúc đẩy quá trình tiến hoá dẫn tới cách mạng xã hội và ngược lại.
Đảo chính: là thủ đoạn giành chính quyền, quyền lực nhà nước của một
cá nhân hoặc một nhóm người, nhằm xác lập một chế độ xã hội có cùng bản
chất. Đảo chính không động đến chế độ xã hội và nó không phải là phong trào
của quần chúng nhân dân. Cho nên đảo chính khác hoàn toàn với cách mạng xã
hội.
- Nguyên nhân của cách mạng xã hội:
Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong một phương thức sản xuất, lực lượng sản
xuất là yếu tố năng động, cách mạng còn quan hệ sản xuất ổn định tương đối.
Lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì quan hệ sản xuất
cũ trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của các lực lượng sản xuất. “Từ chỗ
là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ sản
xuất ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu


14


thời đại một cuộc cách mạng xã hội”1. Như vậy, quá trình phát triển của lực
lượng sản xuất là nguyên nhân xét đến cùng thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Theo Ph.Ăngghen: nguyên nhân kinh tế là nguyên nhân tối hậu.
Nguyên nhân trực tiếp của cách mạng xã hội là do mâu thuẫn gay gắt
giữa giai cấp và lực lượng cách mạng với giai cấp và lực lượng phản cách
mạng, phản động. Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai
cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất mới với giai cấp thống trị
dùng mọi thủ đoạn, đặc biệt là sử dụng công cụ nhà nước có trong tay để bảo
vệ, duy trì quan hệ sản xuất lỗi thời. Đây là mâu thuẫn đối kháng về mặt lợi
ích đòi hỏi phải giải quyết bằng cách mạng xã hội nhằm lật đổ chế độ chính
trị, xã hội lỗi thời, thiết lập chế độ chính trị tiến bộ hơn.
Như vậy, để thay thế quan hệ sản xuất cũ, bằng quan hệ sản xuất mới cao
hơn và làm cho nó trở thành quan hệ sản xuất thống trị, nhằm giải phóng mình,
giai cấp cách mạng phải tiến hành đấu tranh chống lại giai cấp thống trị, phải tổ
chức thành bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng, giành lấy
chính quyền nhà nước. Do vậy, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai
cấp và là bước nhảy vọt tất yếu trong sự phát triển của xã hội có giai cấp; vấn đề
chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Tóm lại, cách mạng xã hội nổ ra từ các nguyên nhân kinh tế - xã hội, bản
chất của nó là giải quyết mâu thuẫn kinh tế - xã hội nhằm đưa xã hội tiến lên.
- Vai trò của cách mạng xã hội:
Cách mạng xã hội có vai trò to lớn trong đời sống xã hội, là động lực to
lớn của tiến bộ xã hội. Chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển; mới thay thế được hình thái kinh tế xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã
hội mới, cao hơn. Cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ đại trong đời sống
xã hội về kinh tế - chính trị - văn hoá - tư tưởng. Trong các thời kỳ cách mạng
xã hội năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy một cách cao

độ, như C.Mác đã từng nói, cách mạng xã hội là đầu tàu của lịch sử.

1

C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn Tập, Nxb CTQG, H 1993, Tập 13, Tr.15.


15

Thực tiễn lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của
cách mạng xã hội qua bốn cuộc cách mạng xã hội, đưa nhân loại trải qua bốn
hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao và đang bước sang hình
thái kinh tế - xã hội thứ năm, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó
là cuộc cách mạng xã hội thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản nguyên thuỷ lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; cuộc cách
mạng chuyển chế độ nô lệ lên chế độ phong kiến; cuộc cách mạng tư sản lật đổ
chế độ phong kiến, xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa; cuộc cách mạng vô sản cách mạng xã hội chủ nghĩa, lật đổ chủ nghĩa tư bản, xác lập chế độ xã hội chủ
nghĩa và tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Đây là một kiểu cách mạng xã hội mới về
chất. Nếu như tất cả các cuộc cách mạng xã hội trước chỉ là sự thay thế hình
thức của chế độ chiếm hữu tư nhân, thay thế hình thức người bóc lột người, thì
cách mạng vô sản nhằm xây dựng xã hội mới không có giai cấp để giải phóng
triệt để con người. Do đó, cách mạng vô sản - cách mạng xã hội chủ nghĩa là
cuộc cách mạng triệt để nhất trong lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh đã nói: "Chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ "1.
- Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội:
Tính chất của một cuộc cách mạng xã hội là dấu hiệu đặc trưng để phân
biệt các cuộc cách mạng khác nhau trong lịch sử. Tính chất của một cuộc cách
mạng xã hội được xác định bởi nhiệm vụ giải quyết mâu thuẫn kinh tế (mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất) và mâu thuẫn xã hội tương

ứng (mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột với giai cấp bị bóc lột). Xem xét tính
chất của một cuộc cách mạng xã hội phải thấy được cuộc cách mạng đó giải
quyết những mâu thuẫn giai cấp nào, xoá bỏ chế độ xã hội nào, xác lập chế độ
xã hội nào. Ví dụ, cuộc cách mạng 1789 ở Pháp là cuộc cách mạng tư sản vì
giai cấp tư sản và các tầng lớp lao động do giai cấp tư sản lãnh đạo đã thực
hiện nhiệm vụ lật đổ giai cấp địa chủ phong kiến, xây dựng chế độ tư bản. Từ
xác định tính chất của các cuộc cách mạng xã hội, thấy rõ thực chất tính cách
mạng và tiến bộ, tính sâu sắc và toàn diện, tính quần chúng của mỗi cuộc cách

1

Hồ Chí Minh: Vì độc lập dân tộc và CNXH. Nxb CTQG, H 1970, Tr229.


16

mạng xã hội để từ đó xác định thái độ của từng chủ thể nhận thức, chủ thể
hành động đối với các kiểu cách mạng xã hội.
Tính chất của một cuộc cách mạng xã hội, quy định lực lượng và động
lực của cuộc cách mạng xã hội ấy.
Lực lượng của cách mạng xã hội là các giai tầng xã hội có lợi ích ít
nhiều gắn bó với cách mạng và thúc đẩy cách mạng phát triển. Lực lượng của
cách mạng do tính chất của cách mạng quyết định, mặt khác còn do những
điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi cuộc cách mạng xã hội quyết định.
Động lực của cách mạng xã hội là những giai cấp, lực lượng xã hội có
lợi ích căn bản gắn bó chặt chẽ và lâu dài đối với cách mạng.
Lực lượng cách mạng có sự thay đổi tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể. Vì thế cần có quan điểm lịch sử, cụ thể khi xem xét.
Vai trò lãnh đạo trong cách mạng xã hội thuộc về giai cấp đứng ở vị trí
trung tâm của thời đại, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới, là

giai cấp tiến bộ nhất trong các giai cấp đang tồn tại.
2.2. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội

- Điều kiện khách quan của cách mạng là sự vận động tổng hợp của các
yếu tố, các mâu thuẫn khách quan hợp thành một hoàn cảnh hiện thực, đưa tới
tình thế cách mạng.
Sự vận động tổng hợp của các yếu tố, các mâu thuẫn khách quan trong
đời sống xã hội của một chế độ xã hội cụ thể, đẩy xã hội vào cuộc khủng
hoảng toàn diện. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đến
mức độ cao, những mâu thuẫn trong đời sống chính trị xã hội đã chín muồi;
Tình thế giai cấp thống trị không duy trì được nền thống trị, nỗi khổ của giai
cấp bị áp bức nặng nề hơn, tính tích cực quần chúng nâng cao. Khi điều kiện
khách quan chín muồi thì tình thế cách mạng xuất hiện.
Tình thế cách mạng là sự chín muồi của mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, của mâu thuẫn giai cấp trong xã hội, dẫn tới những
đảo lộn trong nền tảng kinh tế - xã hội, tạo nên một cuộc khủng hoảng chính
tri sâu sắc khiến cho việc thay thế thể chế chính trị đó bằng một thể chế chính
trị khác tiến bộ hơn như là một thực tế không thể đảo ngược. Đây là trạng thái
đặc biệt của điều kiện khách quan. Lúc này, khủng hoảng chính trị đạt đến


17

cực điểm; đời sống giai cấp bị áp bức và nhân dân lao động cùng quẫn hơn
mức bình thường; tính tích cực của giai cấp cách mạng được nâng cao… nhờ
đó cách mạng có thể nổ ra và giành thắng lợi. Ví dụ như trong cách mạng
tháng Tám năm 1945, tình thế xuất hiện khi Nhật - Pháp bắn nhau ngày
9/3/1945; trước tình hình đó, Trung ương Đảng Chỉ thị là “Nhật Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta”.
- Nhân tố chủ quan của cách mạng là những phẩm chất về trình độ nhận

thức, ý chí năng lực hoạt động của chủ thể bao gồm giai cấp lãnh đạo cách
mạng, quần chúng nhân dân trong việc tiến hành cách mạng.
Nhân tố chủ quan của cách mạng thể hiện ở trình độ, năng lực nhận
thức, tổ chức, vận động quần chúng của các giai cấp lãnh đạo; khả năng hoặch
định đường lối nắm bắt thời cơ và chớp thời cơ và thể hiện ở tính tích cực tự
giác của quần chúng…
Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng có quan hệ
biện chứng với nhau trong đó vai trò quyết định xét đến cùng thuộc về điều
kiện khách quan. Nhưng, khi điều kiện khách quan đã chín muồi thì thành bại
của cách mạng phụ thuộc vào nhân tố chủ quan. Sự tác động giữa điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng đưa tới thời cơ cách mạng.
Thời cơ của cách mạng chính là thời điểm thuận lợi nhất trong tình thế
cách mạng. Là sự hội tụ các điều kiện khách quan, chủ quan chín muồi đảm
bảo cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi.
Thời cơ của cách mạng thường xuất hiện trong thời gian ngắn. Việc
nắm và tạo thời cơ là vấn đề rất quan trọng của cách mạng xã hội.
Ví dụ chớp thời cơ để giành chính quyền trong cách mạng Tháng tám.
Tóm lại, cách mạng xã hội chỉ có thể nổ ra và giành thắng lợi khi xã hội
xuất hiện những điều kiện khách quan và sự chín muồi của nhân tố chủ quan,
đó là qui luật trong đấu tranh cách mạng. Cách mạng xã hội không thể nổ ra
và giành thắng lợi khi điều kiện khách quan không cho phép; nhưng, giai cấp
cách mạng không thể thụ động ngồi chờ, mà phải chuẩn bị lực lượng và phải
tác động làm cho điều kiện khách quan chín muồi. Khi điều kiện khách quan
đã chín muồi, tình thế cách mạng xuất hiện thì giai cấp cách mạng phải kịp
thời chớp lấy thời cơ, phát động quần chúng đúng lên làm cách mạng, giành


18

chính quyền về tay nhân dân. V.I.Lênin đã từng chỉ rõ, người mácxít chân

chính phải biết kết hợp “tính sáng suốt khoa học hoàn toàn trong việc phân
tích tình hình khách quan và sự tiến hoá khách quan, với việc thừa nhận một
cách hết sức dứt khoát tác dụng của nghị lực cách mạng, tính sáng tạo cách
mạng và tính chủ động cách mạng của quần chúng, và dĩ nhiên là cả của
những cá nhân, những tập đoàn, những tổ chức và những chính đảng biết phát
hiện ra và thực hiện sự liên kết với những giai cấp này hoặc giai cấp khác”1.
2.3. Hình thức và phương pháp cách mạng

Cách mạng xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau,
nhưng dù dưới hình thức nào, cách mạng cũng không thể đạt tới thắng lợi nếu
không sử dụng phương pháp mang tính phổ biến là cách mạng bạo lực.
Cách mạng bạo lực là hành động cách mạng của quần chúng dưới sự
lãnh đạo của giai cấp cách mạng, vượt qua giới hạn pháp luật của giai cấp
thống trị đương thời nhằm lật đổ nhà nước lỗi thời, xác lập nhà nước của giai
cấp cách mạng.
Nếu cách mạng bạo lực được hiểu là phương pháp để giai cấp cách
mạng giành chính quyền, thì bạo lực cách mạng được dùng để chỉ tính chất
của bạo lực trong cuộc đấu tranh để giành, giữ và bảo vệ chính quyền. Với ý
nghĩa đó, bạo lực cách mạng đối lập với bạo lực phản cách mạng.
Cách mạng bạo lực là tất yếu. Bởi vì, giai cấp thống trị, không bao giờ
từ bỏ những đặc quyền của chúng. Khi bị xâm phạm lợi ích, chúng sử dụng
quyền lực của nhà nước với bộ máy bạo lực để đàn áp phong trào cách mạng.
Do đó, để lật đổ giai cấp thống trị và giành chính quyền, xoá bỏ quan hệ sản
xuất cũ (quan hệ sản xuất đang được bọn phản cách mạng dùng mọi thủ đoạn
để duy trì, bảo vệ sự tồn tại của nó) và thiết lập quan hệ sản xuất mới, giai cấp
cách mạng không có cách nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng. C.Mác
cho rằng, bạo lực là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới,
bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và
đập tan những hình thức chính thức cứng đờ và chết.
Phân tích đặc điểm của nhà nước tư sản trong thời đại đế quốc chủ

nghĩa, V.I.Lênin đi tới kết luận về tính tất yếu phổ biến của cách mạng bạo
1

V.I.Lênin: Toàn Tập, Nxb TB M 1976, Tập 16, Tr 29.


19

lực: “Nhà nước tư sản bị thay thế bởi nhà nước vô sản (chuyên chính vô sản)
không thể bằng con đường tiêu vong được, mà chỉ có thể, theo quy luật
chung, bằng một cuộc cách mạng bạo lực thôi”1.
Trong lịch sử nhân loại, chưa có giai cấp cách mạng nào giành được
chính quyền nhà nước bằng con đường từ bỏ bạo lực. Ngay cả khi cách mạng
được thực hiện dưới hình thức tương đối hoà bình, do giai cấp thống trị lỗi thời
không còn đủ khả năng sử dụng sức mạnh để giữ nhà nước của nó, thì giai cấp
cách mạng vẫn phải dùng bạo lực làm hậu thuẫn, làm điều kiện để sẵn sàng đập
tan sự phản kháng của giai cấp thống trị, nếu nó dùng bạo lực để chống lại.
Phương pháp hoà bình, đây là phương pháp quí và hiếm. Phương pháp
hoà bình là phương pháp tránh được những sự hy sinh, mất mát tính mạng, tài
sản của con người, không phá huỷ lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, nó là
phương pháp rất hiếm, vì kẻ thù không chịu từ bỏ lợi ích, chúng luôn dùng
bạo lực phản cách mạng để đàn áp phong trào. Khi chúng hoàn toàn bất lực
(trường hợp đặc biệt) trước sức mạnh của phong trào cách mạng thì phương
thức hoà bình mới trở thành hiện thực. Nhận thức vấn đề này, một mặt khẳng
định cách mạng bạo lực là qui luật phổ biến trong đấu tranh cách mạng nhưng
mặt khác không được tuyệt đối hoá nó, vì bạo lực không phải là nguyên nhân
của mọi sự biến đổi lịch sử, nó chỉ là phương tiện thủ đoạn mà giai cấp cách
mạng cần có để giành thắng lợi cho cách mạng.
Quan điểm Mác - Lênin về giành thắng lợi bằng phương pháp hoà bình
khác hẳn luận điểm sai lầm của chủ nghĩa cơ hội xét lại, hữu khuynh về “quá độ

hoà bình”, dùng dân chủ để giành chính quyền, đấu tranh nghị trường. Phương
pháp hoà bình theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin không hề tách rời
cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh cách mạng mang tính chất qui luật chung.
Hơn nữa, lực lượng cách mạng càng mạnh mẽ bao nhiêu thì khả năng đưa
cách mạng xã hội tiến lên bằng phương pháp hoà bình, kể cả việc sử dụng
“con đường nghị trường” càng đến gần bấy nhiêu.
Lý luận về bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở để
các Đảng Cộng sản vận dụng vào xây dựng và sử dụng các lực lượng, phương
pháp trong đấu tranh cách mạng. Chống quan điểm quy “cách mạng bạo lực” chỉ
1

V.I.Lênin: Toàn Tập, Nxb TB M 1976, Tập 33, Tr 27.


20

về hình thức giành chính quyền bằng đấu tranh vũ trang, hoặc cho “bạo lực cách
mạng” chỉ là lực lượng vũ trang hoặc lực lượng chính trị. Hiện nay, tình hình thế
giới có nhiều thay đổi, xu thế đối đầu sang đối thoại, nhưng không vì thế mà mơ
hồ mất cảnh giác cho rằng chủ nghĩa đế quốc đã thay đổi bản chất, do đó không
cần sử dụng bạo lực cách mạng - phủ nhận bạo lực cách mạng. Trên cơ sở đó,
đối với mỗi chúng ta, cần phải nắm chắc quan điểm của Đảng ta trong việc điều
chỉnh chiến lược quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Kết hợp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới,
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận lòng dân…
2.4. Cách mạng vô sản một kiểu cách mạng xã hội đặc thù

Cách mạng vô sản do giai cấp vô sản lãnh đạo, đây là giai cấp bị áp
bức, bóc lột cuối cùng trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Đặc trưng của cách mạng vô sản là xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản

xuất, xoá bỏ mọi hình thức bóc lột, xây dựng xã hội mới không có áp bức bóc
lột, không còn đối kháng giai cấp và không còn giai cấp; trong cách mạng vô
sản, giành chính quyền mới là bước đầu, bảo vệ và xây dựng chính quyền là
bước tiếp theo, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới là công việc
nặng nề phức tạp; cách mạng vô sản tiến hành vì lợi ích nhân dân lao động
cho nên nó lôi cuốn được đông đảo lực lượng tham gia; cách mạng vô sản đòi
hỏi vai trò to lớn của đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi.
Ngày nay cách mạng dân tộc dân chủ phát triển lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa là một tất yếu. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ là cuộc cách mạng
có nhiệm vụ đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến và chủ nghĩa đế quốc nhằm
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Cội nguồn của áp bức dân tộc chính
là áp bức giai cấp. Trong thời đại hiện nay, vấn đề dân tộc chỉ có thể được
giải quyết trên lập trường giai cấp vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản - cách mạng dân
tộc dân chủ tất yếu phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng dân
tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Tuy tính chất nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng
xã hội chủ nghĩa là khác nhau. Song, chúng đều nằm trong một quá trình
thống nhất, đều do giai cấp vô sản lãnh đạo. Cách mạng dân tộc dân chủ là


21

tiền đề, điều kiện để thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngược lại cách
mạng xã hội chủ nghĩa mới làm cho độc lập dân tộc và dân chủ thực sự.
Tuy nhiên, để thực hiện bước chuyển cách mạng từ cách mạng dân tộc
dân chủ phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa cần có những điều kiện như:
quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
phải được giữ vững trong quá trình chuyển biến sang cách mạng xã hội chủ
nghĩa; khối liên minh công - nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản phải

được củng cố không ngừng; nền chuyên chính dân chủ cách mạng của công nông phải chuẩn bị mọi mặt cho nền chuyên chính vô sản. Các điều kiện trên
có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó điều kiện lãnh đạo của giai cấp vô sản
thông qua chính đảng của nó là điều kiện cơ bản quan trọng nhất.
Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý luận Mác - Lênin về cách
mạng dân tộc dân chủ phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa vào điều kiện
cụ thể của cách mạng Việt Nam. Sau khi giành thắng lợi trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất
của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Đây là
sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc Việt Nam, phù hợp với sự phát triển của
lịch sử nhân loại. Đại hội X nhấn mạnh trong công cuộc đổi mới đó là: "Đổi
mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa
xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và xây dựng có hiệu quả hơn"1.
Tóm lại, lý luận về cách mạng xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin là học
thuyết khoa học về thực chất, nguồn gốc, vai trò của cách mạng xã hội nói
chung, và cách mạng xã hội chủ nghĩa nói riêng. Trong thời đại hiện nay,
trước sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sự biến đổi phức
tạp của các trào lưu cách mạng, đặc biệt là tình trạng tạm thời khủng hoảng
của chủ nghĩa xã hội, các nhà lý luận tư sản đã lớn tiếng bác bỏ lý luận cách
mạng xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tuy nhiên, dù các lý luận gia tư sản có bác bỏ thế nào đối với lý luận
cách mạng xã hội của chủ nghĩa Mác thì cũng không bác bỏ được tính quy
luật vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là phải thông qua
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb, CTQG 2006, Tr126.


22


các cuộc cách mạng xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa không
thể là hình thái kinh tế - xã hội vĩnh viễn của lịch sử, nó tất yếu sẽ bị phủ định
bởi sự ra đời của một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn là hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa và điều đó chỉ có được nhờ vào cuộc cách mạng vô
sản. Những biến đổi to lớn trong thời đại hiện nay, không những càng chứng
minh tính tất yếu của các cuộc cách mạng, mà còn cho thấy cuộc cách mạng
vô sản trong thời đại hiện nay chỉ có thể thành công nếu giai cấp cách mạng
tìm được những hình thức và phương pháp thích hợp.


23
KẾT LUẬN

Lý luận về nhà nước và cách mạng xã hội là những nội dung hết sức
quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trước hết, nó đem lại cho giai cấp
cách mạng và quần chúng nhân dân lao động những hiểu biết khoa học về quy
luật vận động phát triển của xã hội loài người và hiểu biết về một tổ chức đặc
biệt của xã hội có giai cấp, đó là Nhà nước. Đồng thời, từ cơ sở nhận thức đó,
lý luận mácxít về nhà nước và cách mạng xã hội trang bị cho quần chúng cách
mạng một phương pháp khoa học trong nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa; là vũ
khí lý luận để đấu tranh chống lại những nhận thức sai trái những quan điểm
phản động, cơ hội, xét lại. Đối với mỗi học viên đại học quân sự, nghiên cứu,
nắm vững lý luận mácxít về nhà nước và cách mạng xã hội, có thêm cơ sở lý
luận cho niềm tin khoa học vào sự tất thắng của cách mạng Việt Nam, đặc biệt
là thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Qua đó, củng cố nhiệt
huyết cách mạng, nâng cao trách nhiệm đối với nhiệm vụ học tập, công tác.
Cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.




×