Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TIỂU LUẬN: Đánh giá ưu và nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO so với cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ ASEAN. Đưa ra các ví dụ về các vụ việc thực tế để chứng minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.22 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

BÀI TẬP LỚN CUỐI KỲ
Môn: Luật Thương mại quốc tế
ĐỀ TÀI SỐ 06: “Đánh giá ưu và nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh
chấp trong khuôn khổ WTO so với cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ
ASEAN. Đưa ra các ví dụ về các vụ việc thực tế để chứng minh”

Họ và tên: ĐẶNG CHÍ NGUYỆN
MSSV

: 1453801010182

Lớp

: K2I

Hà Nội 2017

1


MỤC LỤC

2


A.

MỞ ĐẦU
Tổ chức thương mại thế giới WTO (World Trade Oganization) được thành



lập và hoạt động kể từ ngày 1/1/1995. Việc WTO hoạt động có ý nghĩa vô cùng
to lớn trong việc thiết lập và duy trì một nền thương mại toàn cầu tự do, thuận
lợi và minh bạch. Vai trò to lớn của WTO được thể hiện qua bốn nhiệm vụ chính
là thúc đẩy việc thực hiện các hiệp định và cam kết đã đạt được trong khuôn khổ
WTO; tạo diễn đàn để các thành viên tiếp tục đàm phán, ký kết những hiệp định,
cam kết mới về tự do hàng hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại; giải
quyết các tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên; và rà soát định
kỳ các chính sách thương mại của các thành viên. Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á ASEAN (Association of Southeast Asian Nation) được thành lập ngày 8
tháng 8 năm 1967 tại Bangkok (Thái Lan). Sau 50 năm thành lập và phát triển,
ASEAN ngày càng hoàn thiện và vững mạnh hơn, góp phần giữ vững an ninh chính trị cũng như phát triển kinh tế ở các nước khu vực Đông Nam Á.
Trong quá trình hợp tác cùng nahu phát triển, các thành viên của WTO và
ASEAN khó có thể tránh khỏi những tranh chấp. Để đảm bảo quyền lợi cho các
bên khi xảy ra tranh chấp, cũng như trước sự phát triển nhanh chóng của hoạt
động hợp tác kinh tế trong khuôn khổ của mình, WTO và ASEAN đã xây dựng
riêng cho mình một cơ chế giải quyết tranh chấp. Với mỗi tổ chức, cơ chế giải
quyết tranh chấp đều có ưu và ược điểm khác nhau. Việc nghiên cứu, đánh giá,
so sánh những ưu và nhược điểm trong cơ chế giải quyết tranh chấp của các tổ
chức này giúp tạo thuận lợi cũng như tìm ra giải pháp tốt nhất cho các quốc gia
Đông Nam Á hay các quốc gia là thành viên WTO trong việc giải quyết tranh
chấp. Vì lý do đó em xin chọn đề tài “Đánh giá ưu và nhược điểm của cơ chế
giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO so với cơ chế giải quyết tranh chấp
trong khuôn khổ ASEAN. Đưa ra các ví dụ về các vụ việc thực tế để chứng
minh” nhằm hiểu rõ hơn về những khía cạnh này.

3


B.


NỘI DUNG
1. Sơ lược về WTO và ASEAN
1.1 Tổ chức thương mại thế giới WTO
Tổ chức thương mại thế giới WTO (World Trade Oganization ) chính thức

ra đời thừ ngày 1/1/1995 là kết quả của vòng đàm phán Urugoay (1986-1995)
với tiền thân là hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1947).
WTO được coi như là một thành công đặc biệt trong sự phát triển thương mại và
pháp lí cuối thế kỷ XX với một hệ thống đồ sộ các hiệp định, thỏa thuận, danh
mục nhượng bộ thuế quan điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ thương mại giữa
các quốc gia thành viên. WTO được thành lập với bốn nhiệm vụ chủ yếu là:
-

Thúc đẩy việc thực hiện các Hiệp định và cam kết đã đạt được trong

-

khuôn khổ WTO và những cam kết trong tương lai nếu có;
Tạo diễn đàn để các thành viên tiếp tục đàm phán, ký kết những Hiệp
định, cam kết mới về tự do hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho thương

-

mại;
Giải quyết các tranh chấp thuơng mại phát sinh giữa các thành viên

-

WTO;

Rà soát định kỳ các chính sách thương mại của các thành viên.

Tính đến ngày 26/6/2014, tổ chức này có 160 thành viên. Thành viên của
WTO là các quốc gia như Hoa kỳ, Việt Nam,... hoặc các vùng lãnh thổ tự trị về
quan hệ ngoại thương như EU, Đài Loan, Hồng Kông,...
WTO có cơ cấu tổ chức bao gồm Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng, các
Hội đồng và Ban Thư ký.
-

Hội nghị Bộ trưởng bao gồm các bộ trưởng thương mại – kinh tế đại
diện cho tất cả các nước thành viên, họp 2 năm một lần để quyết định

-

các vấn đề quan trọng của WTO.
Đại hội đồng bao gồm đại diện tất cả các thành viên, thực hiện chức
năng của Hội nghị Bộ trưởng trong khoảng giữa hai kỳ hội nghị của cơ
quan này. Đại hội đồng cũng đóng vai trò là Cơ quan giải quyết tranh
chấp (DSB) và Cơ quan rà soát các chính sách thương mại.
4


-

Các Hội đồng Thương mại hàng hóa, Thương mại dịch vụ, các vấn đề
sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại; các Ủy ban, Nhóm công tác là
các ơ quan được thành lập để hỗ trợ hoạt động của Đại hội đồng trong
từng lĩnh vự; tất cả các thành viên WTO đều có thể cử đại diện tham

-


gia các cơ quan này.
Ban thư ký bao gồm Tổng giám đốc WTO, 03 phó tổng giám đốc và
các Vụ, Ban giúp việc với khoảng 500 nhân viên, làm việc độc lập
không phụ thuộc vào bất kỳ chính phủ nào.

WTO hoạt động và phát triển với mục tiêu thiết lập và duy trì một nền
thương mại toàn cầu tự do, thuận lợi mà minh bạch.
1.2

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN (Association of Southeast
Asian Nation) được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 tại Bangkok (Thái Lan)
bởi Bộ trưởng ngoại giao các nước sáng lập là Indonesia, Malaysia, Philippines,
Thái Lan và Singapore. Hiện nay ASEAN đã phát triển với 10 thành viên chính
thức, một ứng của viên và một quan sát viên.
ASEAN được thành lập với mục tiêu “thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế,
tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực thông qua các nỗ lực chung
trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm tăng cường cơ sở cho một cộng đồng
các nước Đông Nam Á hòa bình và thịnh vượng.”1
Ngoài ra, Hiến chương ASEAN ngày 15/12/2009 còn bổ sung thêm các
mục tiêu mới nhằm phù hợp với tình hình phát triển của khu vực cũng như là
tình hình chung trong quá trình hội nhập với Thế giới. Trong đó bao gồm các
mục tiêu như duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh và ổn định và tăng cường hơn
nữa các giá trị hướng tới hòa bình trong khu vực; nâng cao khả năng tự cường
khu vực thông qua đẩy mạnh hợp tác, chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa – xã
hội; duy trì Đông Nam Á là một khu vực không có Vũ khĩ hạt nhân và các loại
vũ khí hàng loạt khác; giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển trong
11 Tuyên bố Bangkok (Tuyên bố của hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN – 8/8/1967)


5


ASEAN thông qua hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau; duy trì vai trò trung tâm và chủ
động của ASEAN như là động lực chủ chốt trong quan hệ và hợp tác với các đối
tác bên ngoài trong một cấu trúc khu vực mở, minh bạch và thu nạp;...
Theo hiến chương ASEAN, bộ máy hoạt động của ASAEAN bao gồm các
cơ quan sau: Hội nghị cấp cao ASEAN (Asean Summit); Hội đồng Điều phối
ASEAN (ASEAN Coordinating Council); Các Hội đồng cộng đồng ASEAN
(ASEAN Community Councils) gồm hội đồng cộng đồng Chính trị - An ninh
ASEAN và Hội đồng Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN; Các Hội nghị Bộ
trưởng chuyên ngành (ASEAN Sectoral Ministerial Bodies); Tổng Thư ký
ASEAN và Ban thư ký ASEAN (Secretary-General of ASEAN /ASEAN
Secretariat); Ủy ban Đại diện thường trực bên cạnh ASEAN (Committee Of
Permanent Representatives to ASEAN); Ban thư ký ASEAN quốc gia (ASEAN
National Secretariats); Ủy ban liên chính phủ ASEAN về Nhân quyền (AICHR);
Quỹ ASEAN (ASEAN Foundation).
2.

Cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO vs ASEAN
2.1 Cơ chế giải quyết trong khuôn khổ WTO

Mục tiêu căn bản của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là nhằm
“đạt được một giải pháp tích cực cho tranh chấp”, và ưu tiên những “giải pháp
được các bên tranh chấp cùng chấp thuận và phù hợp với các Hiệp định liên
quan” . Xét ở mức độ rộng hơn, cơ chế này nhằm cung cấp các thủ tục đa
phương giải quyết tranh chấp thay thế cho các hành động đơn phương của các
quốc gia thành viên vốn tồn tại nhiều nguy cơ bất công, gây trì trệ và xáo trộn sự
vận hành chung của các qui tắc thương mại quốc tế. Cơ chế giải quyết tranh

chấp của WTO thể hiện qua các đặc điểm về cơ sở pháp lý, nguyên tắc, cơ quan
giải quyết tranh chấp và trình tự, thủ tục.

a.

Về cơ sở pháp lý
6


Trên cơ sở các quy định rời rạt về giải quyết tranh chấp trong GATT,
WTO đã thiết lập một cơ chế pháp lý đầy đủ nhằm tạo thuận lợi trong việc giải
quyết tranh chấp giữa các thành viên. Đó là Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ
tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU).
Ngoài ra, cơ chế này còn viện dẫn đến một số quy định riêng biệt trong các văn
bản khác như:
-

Điều XXII và XXIII GATT 1947 (Điều 3.1 DSU)
Các qui tắc và thủ tục chuyên biệt hoặc bổ sung về giải quyết tranh
chấp tại các Hiệp định trong khuôn khổ WTO (Ví dụ: Điều 11.2 Hiệp
định về các Biện pháp Kiểm dịch Thực vật; Điều 17.4 đến 17.7 GATT

-

1994…)
“Quyết định về các Thủ tục giải quyết tranh chấp đặc biệt” GATT
1966: bao gồm các qui tắc áp dụng cho việc giải quyết các tranh chấp
giữa một nước kém phát triển và một nước phát triển (Điều 3.12 DSU)
và các thủ tục đặc biệt áp dụng cho tranh chấp có một bên là nước kém


b.

phát triển nhất (Điều 2.4 DSU)
Về nguyên tắc
Việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữ các nước thành viên WTO phải

tuân thủ các nguyên tắc cơ bản nhất, đó là nguyên tắc không phân biệt đối xử,
nguyên tắc công khai và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, nguyên tắc bảo hộ
thông qua thuế quan , nguyên tắc tiếp cận thị trường, nguyên tắc bảo hộ, phòng
ngừa bất trắc.
Ngoài các nguyên tắc nói trên, khi giải quyết tranh chấp, cơ quan có thẩm
quyền dựa trên những nguyên tắc cụ thể sau:
Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng giữa các nước thành viên tranh chấp.
Các nước thành viên tranh chấp dù là nước lớn hay nước nhỏ, phát triển hay
chậm phát triển đều bình đẳng như nhau trong việc giải quyết tranh chấp phát
sinh.

7


Thứ hai, nguyên tắc bí mật. Các cuộc họp của Ban hội thẩm, của Cơ quan
phúc thẩm là các cuộc họp kín, không công khai. Các bên tranh cấp chỉ được
mười tham dự khi cần thiết. Nguyên tắc bí mật phần nào cũng thể hiện trong gia
đoạn tham vấn, đó là nội dung tham vấn giữa các nước thành viên tranh chấp
không được thông báo cho các nước thành viên WTO biết.
Thứ ba, nguyên tắc “đồng thuận phủ quyết”. Nguyên tắc này còn được
gọi là nguyên tắc “đồng thuận nghịch”. Theo Điều 2.4, Điều 6.1, Điều 16.4 và
điều 17.14, việc ra quyết định thành lập Ban hội thẩm, thông qua các báo cáo
của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm đều dựa trên nguyên tắc đồng thuận
phủ quyết (hay đồng thuận nghịch), nghĩa là trong mọi trường hợp, Ban hội

thẩm sẽ được thành lập để giải quyết tranh chấp và các báo cáo của Ban hội
thẩm, của Cơ quan phúc thẩm sẽ được thông qua trừ khi DSB (Cơ quan giải
quyết định trên cơ sở đồng thuận không thành lập Ban hội thẩm hay không
thông qua các báo cáo này.2
Thứ tư, nguyên tắc đối xử ưu đãi đối với các nươc thành viên đang phát
triển và chậm phát triển nhất. Việc đối xử ưu đãi với các nước đang phát triển
chỉ thể hiện ở chỗ Ban thư ký dành hỗ trợ về mặt pháp lý cho các nước này, có
thể kéo dài một số thời hạn trong quá trình giải quyết tranh chấp, quyền lợi và
tình hình kinh tế của các nước này sẽ được chú ý tới trong giai đoạn của quá
trình giải quyết tranh chấp.
c.

Về cơ quan giải quyết tranh chấp
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong WTO được thực hiện bởi các cơ quan

khác nhau, mỗi cơ quan có chức năng riêng biệt, tạo nên tính độc lập trong hoạt
động điều tra và thông qua quyết định trong cơ chế này.3

2 Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Đại học Luật Hà Nội, nxb Công an nhân dân năm 2013, Tr 186
3 Giới thiệu cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO – cơ quan giải quyết tranh chấp tại được giới thiệu tại
website

8


Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB): Cơ quan này thực chất là Đại hội
đồng WTO, bao gồm đại diện của tất cả các quốc gia thành viên.
Ban hội thẩm (Panel): Ban Hội thẩm bao gồm từ 3 - 5 thành viên có
nhiệm vụ xem xét một vấn đề cụ thể bị tranh chấp trên cơ sở các qui định WTO
được quốc gia nguyên đơn viện dẫn.

Cơ quan Phúc thẩm (SAB): Cơ quan Phúc thẩm là một thiết chế mới
trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, cho phép báo cáo của Ban hội
thẩm được xem xét lại (khi có yêu cầu), đảm bảo tính đúng đắn của báo cáo giải
quyết tranh chấp. Sự ra đời của cơ quan này cũng cho thấy rõ hơn tính chất xét
xử của thủ tục giải quyết tranh chấp mới.
d.

Trình tự thủ tục của cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO
Tham vấn (Consultation)
Thủ tục tham vấn chỉ là thủ tục được tiến hành giữa các Bên với nhau.

DSB được thông báo về thủ tục này và có trách nhiệm thông báo cho các quốc
gia thành viên về yêu cầu tham vấn nhưng cơ quan này không trực tiếp tham gia
vào thủ tục tham vấn. Các quốc gia khác có thể xin tham gia vào việc tham vấn
này nếu Bên bị tham vấn thừa nhận rằng các quốc gia này có “quyền lợi thương
mại thực chất” trong việc tham vấn này.
Giải quyết tại Ban hội thẩm
Giai đoạn giải quyết tranh chấp tại Ban hội thẩm được khởi động khi
nguyên đơn gửi đơn đề nghị thành lập Ban hội thẩm đến chủ tịch DSB. Đơn đề
nghị phải được làm bằng văn bản, trong đó nêu rõ các bên đã tiến hành tham vấn
hay chưa, xác định rõ các biện pháp cụ thể đang được bàn cãi và cung cấp ngắn
gọn các cơ sở pháp luật cho việc khởi kiện (điều 16.4)
Giai đoạn kháng cáo và phúc thẩm
Các bên tranh chấp có thể kháng cáo các vấn đề pháp lý trong Báo cáo
của Ban hội thẩm (yêu cầu phúc thẩm) trên cơ sở yêu cầu chính thức bằng văn
bản. Khi có yêu cầu này thủ tục phúc thẩm sẽ được bắt đầu. Cơ quan phúc thẩm
9


chỉ xem xét những vấn đề pháp lý đề cập trong báo cáo của Ban Hội thẩm mà

không mở rộng phạm vi của vụ tranh chấp. Giải quyết ở giai đoạn phúc thẩm sẽ
được bắt đầu khi một bên tranh chấp thông qua DSB về quyết định kháng cáo
của mình.
Giai đoạn thi hành phán quyết
Trong vòng 30 ngày kể từ ngày DSB thông qua báo cáo của Ban hội thẩm
hoặc cơ quan phúc thẩm, tại cuộc họp của DSB, thành viên liên quan phải thông
báo cho DSB các dự định của mình đối với việc thực hiện các khuyến nghị và
phán quyết của DSB.
Cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ ASEAN
Cơ sở pháp lý
2.2

a.

Việc giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ ASEAN dựa trên cơ sở quy
định của “Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp
ngày 29/1/2004”. Nghị định thư này được ký kết với mong muốn thay thế Nghị
định thư 1996 về DSM bằng Nghị định thư về tăng cường cơ chế giải quyết
tranh chấp ASEAN.
b.

Cơ quan giải quyết tranh chấp
Theo “Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh

chấp” thì SEOM sẽ là cơ quan giải quyết tranh chấp cũng như là giám sát thi
hành Nghị định thư này. Theo đó, SEOM có quyền thành lập Ban Hội thẩm,
thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm, giám sát việc thi
hành các kết luận và khuyến nghị trong báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan
Phúc thẩm đã được SEOM thông qua và cho phép tạm ngừng ưu đãi và các
nghĩa vụ khác theo các hiệp định liên quan.

c.

Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp
Theo Nghị định thư 2004 thì thì thủ tục giải quyết tranh chấp trong khuôn

khổ ASEAN bao gồm bốn giai đoạn là tham vấn, hội thẩm, phúc thẩm và thi
hành phán quyết.
10


Giai đoạn tham vấn
Trong trường hợp có bất đồng về việc áp dụng, giải thích hay thực hiện
các thỏa thuận kinh tế của ASEAN, các quốc gia thành viên sẽ dành cơ hội thích
đáng cho thủ tục tham vấn để hoà bình, hữu nghị giải quyết tranh chấp. Nếu các
nước thành viên cho rằng theo quy định của bất kì thỏa thuận kinh tế nào của
ASEAN, những lợi ích mà họ trực tiếp hay gián tiếp được hưởng đang bị hủy bỏ
hoặc bị tổn hại hoặc mục tiêu của thỏa thuận đó bị cản trở do một nước thành
viên khác không thực hiện nghĩa vụ của mình quy định trong thỏa thuận thì có
thể khiếu nại tới thành viên đó. Nước thành viên nhận được khiếu nại sẽ phải trả
lời trong vòng 10 ngày sau khi nhận được yêu cầu và phải bước vào tham vấn
trong vòng 30 ngày sau khi nhận được yêu cầu nhằm đạt được giải pháp thỏa
đáng giữa các bên.
Giải quyết tại ban hội thẩm
Ban hội thẩm phải đệ trình báo cáo và kết luận vụ việc lên SEOM trong
vòng 60 ngày kể từ ngày thành lập. Trong những trường hợp ngoại lệ, ban hội
thẩm có thể có thêm 10 ngày để trình những tài liệu này lên SEOM. Trước khi
đệ trình, ban hội thẩm sẽ dành cơ hội thích đáng cho các bên tranh chấp xem lại
báo cáo của ban hội thẩm. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày ban hội thẩm trình
báo cáo, SEOM sẽ xem xét báo cáo của ban hội thẩm và đưa ra phán quyết theo
nguyên tắc đồng thuận phủ quyết.

Giai đoạn kháng cáo và phúc thẩm
Các nước thành viên là các bên tranh chấp nếu không thỏa mãn báo cáo
của ban hội thẩm có quyền yêu cầu đưa vụ việc giải quyết tại ban phúc thẩm.
Phạm vi "phúc thẩm" chỉ áp dụng đối với những kết luận và giải thích pháp lí
được đưa ra trong báo cáo của ban hội thẩm. Trong vòng 60 ngày và tối đa
không quá 90 ngày, ban phúc thẩm phải đệ trình báo cáo lên SEOM để thông
qua. Việc thông qua báo cáo phúc thẩm cũng được thực hiện theo nguyên tắc
đồng thuận phủ quyết. Các bên tranh chấp có nghĩa vụ thực hiện phán quyết của
SEOM.
11


Giai đoạn thi hành phán quyết
Bên thua kiện có nghĩa vụ thực hiện các phán quyết của SEOM trong
vòng 60 ngày kể từ khi báo cáo của Ban hội thẩm hoặc báo cáo của cơ quan
phúc thẩm được SEOM thông qua, trừ khi các bên thỏa thuận một khoảng thời
gian dài hơn. Hết thời hạn thi hành phán quyết mà bên vị phạm đã thua kiện
không chịu thi hành phán quyết, bên thắng kiện được yêu cầu bồi thường và việc
bồi thường được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên.
3.

Đánh giá ưu điểm và nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp
trong khuôn khổ WTO so với cơ chế giải quyết tranh chấp trong
khuôn khổ ASEAN
3.1 Ưu điểm

Thứ nhất, về cơ quan giải quyết tranh chấp. Trong cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO thì DSB là cơ quan có thẩm quyền, các ban hội thẩm sẽ được cơ
quan này lập ra để đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ kiện. Trong khi đối với cơ
chế giải quyết tranh chấp củaASEAN thì có hai cơ quan cùng tham gia là hội

nghị bộ trưởng kinh tế AEM và hội nghị quan chức kinh tế SEOM giải quyết
tranh chấp.
Nếu như các cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO là những cơ quan
hoạt động chuyên trách, những cơ quan có sự độc lập riêng biệt khi giải quyết
tranh chấp, tạo tính linh hoạt mềm dẻo khi giải quyết tranh chấp. Thì khi giải
quyết tranh chấp tại ASEAN, những cơ quan giải quyết này đều hoạt động kiêm
nhiệm và khi thấy cần thiết thì thành lập một cơ quan giúp việc là ban hội thẩm
Panel. Điều này dẫn đến rất nhiều hạn chế cho cơ chế giải quyết tranh chấp của
ASEAN như tính không linh hoạt và mềm dẻo. Dựa vào sự tổ chức của cơ quan
chuyên trách cũng như kinh nghiệm giải quyết tranh chấp có thể thấy cơ quan
giải quyết tranh chấp của WTO có tính chuyên trách hơn, trình độ năng lực cao
hơn.

12


Thứ hai, kể từ khi thành lập, trải qua hơn 20 năm, WTO đã giải quyết trên
500 vụ tranh chấp thương mại. Trong khi đó, Từ khi Nghị định thư 2004 ra đời
đến nay, chưa có quốc gia nào lựa chọn giải quyết tranh chấp thông qua cơ chế
của ASEAN4. Có thể thấy, WTO đã có bề dày kinh nghiệm giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế ở đa ngành đa lĩnh vực thông qua các phán quyết và các vụ
việc mà tổ chức này đã giải quyết. Còn đối với ASEAN, việc giải quyết tranh
chấp cơ bản chỉ còn nằm trên lý thuyết, chưa có vụ việc thực tế nào được giải
quyết bởi tổ chức này, do đó WTO sẽ có nhiều lợi thế và sự tin cậy hơn.
Thứ ba, thủ tục giải quyết tranh chấp theo DSU tại WTO có hàng loạt các
quy định cụ thể trong việc giải quyết các vụ việc có liên quan đến các nước đang
phát triển. Ở đây cần phải hiểu rằng việc giải quyết những tranh chấp này không
phải là tuân theo một thủ tục riêng biệt, mà phải theo thủ tục chung của DSU và
trong từng giai đoạn có tính đến các lợi ích của các nước đang phát triển theo
quy định của các điều khoản có liên quan. DSU cũng như các qui định về giải

quyết tranh chấp trong các hiệp định riêng lẻ dành một số ưu tiên về thủ tục
dành cho các quốc gia đang phát triển. Việc ưu tiên này được thể hiện ở chỗ Ban
thư ký dành hỗ trợ về mặt pháp lý cho các nước này, có thể kéo dài một số thời
hạn trong quá trình giải quyết tranh chấp, quyền lợi và tình hình kinh tế của các
nước này sẽ được chú ý tới trong giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, WTO là một tổ chức hợp tác về kinh tế đơn thuần còn ASEAN là
một tổ chức hợp tác toàn diện. Do đó, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
mang tính chuyên môn hóa nhiều hơn, WTO có hệ thống các văn bản pháp lý
điều chỉnh đa ngành về kinh tế. Còn cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN bị
chi phối bởi các yếu tố như chính trị, an ninh – quốc phòng, văn hóa, xã hội. Vì
vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO mang tính chuyên nghiệp và hiệu
quả hơn.

4 Nguyễn Toàn Thắng, “Cơ chế giải quyết tranh chấp theo Hiến chương của ASEAN”, Tạp chí Luật học, số
9/2008, Tr 77

13


3.2

Về nhược điểm

Bên cạnh những điểm mạnh trong việc giải quyết tranh chấp của mình,
WTO còn có một số nhược điểm so với cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tếthương mại so với ASEAN.
Thứ nhất, có thể thấy cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại
của ASEAN vừa mang tính hòa giải vừa mang tính tài phán. Thủ tục được ghi
nhận trong nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp có nhiều điểm giống
với thủ tục tố tụng của cơ quan tài phán quốc tế, nhưng ASEAN luôn khuyến
khích các bên liên quan tự dàn xếp thỏa thuận để có thể đi đến một giải pháp mà

các bên đều chấp nhận được. Vì vậy, giai đoạn đầu tiên của quy trình giải quyết
tranh chấp là tham vấn và trong giai đoạn tiếp theo các bên vẫn có khả năng áp
dụng các biện pháp trung gian, môi giới, hòa giải để giải quyết tranh chấp. Điều
này khác với quy định trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, trong hệ
thống WTO, các thành viên không được phép giải quyết tranh chấp, yêu cầu bồi
thường mà không thông qua các cơ chế của WTO, buộc các thành viên phải áp
dụng và tuân thủ các thủ tục của WTO và loại trừ việc thông qua môi giới, trung
gian, hòa giải để giải quyết tranh chấp (5). Điều này cũng cho thấy sự linh hoạt
trong cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN trong lĩnh vực kinh tế- thương
mại, cho phép các quốc gia khác có thể lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp
phù hợp với yêu cầu của mình.
Thứ hai, Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN chủ yếu học hỏi từ Cơ
chế giải quyết tranh chấp của WTO. Hơn nữa, ASEAN còn kết hợp với một số
cơ chế giải quyết tranh chấp trên thế giới như EU. Điều này làm cho cơ chế của
ASEAN phần nào hoàn thiện hơn, nhất là sự hoàn thành về mặt pháp lý một cơ
chế giải quyết tranh chấp theo hướng chuyển đổi sang cơ chế xét xử mang tính
pháp lý hoàn toàn.

5 Xem bài “The ASEAN Dispute Settlement Mechanism and its Role in a Rules-Based Community: Overview
and Critical Comparison” - Paolo R. Vergano

14


Thứ ba,việc thực hiện biện pháp trả đũa của WTO không hiệu quả hơn so
với ASEAN. Có thể thấy, trình độ phát triển của các nước thành viên WTO là
không đồng đều nhau, từ đó dẫn tới việc một nước có thể chấp nhận thua kiện và
không thực hiện các phán quyết của trọng tài. Thậm chí các nươc này còn chấp
nhận các biện pháp trả đũa vì nước thắng kiện chỉ là nước nhỏ, kém phát triển và
không phải là đối tác quan trọng. Trong đa số các trường hợp đó, các nước áp

dụng biện pháp trả đũa do sức ép về chính trị, kinh tế, hoặc dù có tiếp tục trả đũa
cũng không có tác dụng tích cực gì cho họ mà các thành viên này không thể tiếp
tục biện pháp trả đũa. Trong khi đó, các nước trong khu vực ASEAN có trình độ
phát triển tương đồng nhau, do đó ít chịu áp lực về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội nên việc áp dụng các biện pháp trả đũa sẽ hiệu quả hơn so với WTO.
4.

Một số ví dụ thực tế

Trên thực tế, việc giải quyết tranh chấp theo cơ chế của WTO vẫn hiêu
quả và có nhiều ưu điểm hơn so với giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết
tranh chấp của ASEAN. Cụ thể có thể thấy các tranh chấp phát sinh giữa các
nươc thành viên ASEAN nhưng các bên lại chọn WTO để giải quyết tranh chấp.
Điển hình là vụ kiện của Việt Nam với Indonesia do đã áp thuế tự vệ thương mại
trong 3 năm (2014-2016) đối với mặt hàng tôn lạnh nhập khẩu từ Việt Nam.
Theo đó, Ngày 07/07/2014, Bộ Tài chính Indonesia ban hành Thông tư
137.1/PMK.011/2014, theo đó, quyết định áp thuế tự vệ thương mại trong 3 năm
(2014-2016) đối với mặt hàng tôn lạnh nhập khẩu từ Việt Nam với mức thuế rất
cao, khoảng gần bằng 50% xuất khẩu của sản phẩm này cho năm 2014, 46% cho
năm 2015 và 41% năm 2016, mà không qua tham vấn của Chính phủ Việt Nam.
Tập đoàn Tôn Hoa Sen và các doanh nghiệp xuất khẩu tôn lạnh khác đã chịu
thiệt hại nặng nề từ quyết định này của Indonesia do không thể tiếp tục xuất
khẩu được mặt hàng này. Việt Nam cho rằng Indonesia có một số dấu hiệu vi
phạm các điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ thương mại như: không chứng minh
được đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng, không có sự phân tích đầy đủ về
những diễn tiến không lường trước được, mối đe dọa nhân quả giữa việc nhập
15


khẩu sản phẩm tôn lạnh và thiệt hại của ngành công nghiệp nội địa, không có sự

phân tích đầy đủ về tác động của các yếu tố khác gây thiệt hại ngoài sự gia tăng
nhập khẩu.
Ngày 01/06/2015, Việt Nam yêu cầu tham vấn với Indonesia tại WTO
nhưng chưa đạt được kết quả mong muốn và tiếp tục yêu cầu Tổng giám đốc
WTO thành lập ban hội thẩm.
Có thế thấy, mặc dù đã hoàn thiện cơ bản về quy trình, nhưng cơ chế giải
quyết tranh chấp về thương mại – kinh tế vẫn không đủ sức thuyết phục để Việt
Nam gửi đơn kiện. Điều này thể hiện rõ ràng sự vượt trội về khả năng giải quyết
của WTO so với ASEAN.
WTO đã rất linh hoạt trong giải quyết tranh chấp nhờ vào bộ máy giải
quyết tranh chấp của mình. Giải quyết ở nhiều ngành, nghiều lĩnh vực khác nhau
như vu kiện Trung Quốc – Các biện pháp áp đặt thuế chống bán phá giá lên Ống
thép đúc không gỉ chất lượng cao (“HP – SSST”) từ Nhật Bản, vụ kiện Liên
minh châu Âu – Thuế chống bán phá giá đối với một số sản phẩm cồn béo nhập
khẩu từ Indonesia, vụ kiện Hoa Kỳ - Các biện pháp chống bán phá giá đối với
tôm nhập khẩu từ Thái Lan,...
Nhiều vụ việc được WTO giải quyết một cách nhanh chóng và mang lại
hiệu quả cao. Điển hình là vụ kiện “Hoa Kỳ - Biện pháp chống bán phá giá áp
dụng đối với tôm nhập khẩu từ Ecuador”6 vơi nguyên đơn là Ecuador và bị đơn
là Hoa Kỳ. Theo đó, Ngày 17/11/2005, Ecuador yêu cầu tham vấn với Hoa Kỳ
liên quan đến kết luận cuối cùng khẳng định về phá giá của Bộ Thương mại Hoa
Kỳ trong cuộc điều tra chống bán phá giá đối với tôm nước ấm đông lạnh
(frozen warmwater shrimp) nhập khẩu từ Ecuador. Quyết định này được đưa ra
ngày 23/12/2004, sửa đổi ngày 01/01/2005 và kèm theo đó là lệnh áp thuế chính
thức. Vấn đề mà Ecuador quan tâm chủ yếu là phương pháp tính toán biên độ
phá giá Zeroing mà Hoa Kỳ đã áp dụng dẫn đến kết luận cuối cùng và lệnh áp
6 Nguồn “Tóm tắt các vụ việc tranh chấp” tại

16



thuế trên. Ecuador cho rằng Hoa Kỳ đã vi phạm Điều VI của GATT 1994 và các
Điều , 2.1, 2.2, 2.4, 2.4.2, 5.8, 6.10, 9.2, 9.3, 9.4, và 18.1 của Hiệp định ADA.
Ấn Độ (ngày 28/11/2005) và Thái Lan (ngày 01/12/2005) yêu cầu tham gia vào
cuộc tham vấn với tư cách các bên thứ ba.
Tiếp theo, Tham vấn không thành công, ngày 08/06/2006, Ecuador yêu
cầu DSB thành lập Ban Hội thẩm giải quyết tranh chấp vụ việc ngày. Tại cuộc
họp ngày 19/06/2006, DSB đã trì hoãn việc thành lập Ban Hội thẩm. Tuy nhiên,
Ban Hội thẩm đã được thành lập sau đó tại cuộc họp của DSB ngày 19/07/2006.
Braxin, Trung Quốc, EC, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và sau đó là
Chi lê và Mexico yêu cầu tham gia vao vụ kiện với tư cách các bên thứ ba.
Ngày 26/09/2006, thành phần của Ban Hội thẩm đã được xác định.
Ngày 20/10/2006, các bên thông báo với DSB về một Thỏa thuận Thủ tục
cho vụ kiện này.
Ngày 20/01/2007, Ban Hội thẩm hoàn thành Báo cáo và gửi tới tất cả các
thành viên WTO. Ban Hội thẩm kết luận các phán quyết cuối cùng khẳng định
về phá giá của DOC đối với tôm nước ấm đông lạnh của Ecuador cũng như lệnh
áp thuế chính thức sau phán quyết này đã vi phạm Điều 2.4.2 của Hiệp định
ADA.
Ban Hội thẩm khuyến nghị DSB yêu cầu Hoa Kỳ sửa đổi các biện pháp
của mình cho phù hợp với các nghĩa vụ của nước này theo Hiệp định ADA.
Tại cuộc họp của ngày 20/02/2007, DSB đã thông qua Báo cáo của Ban
Hội thẩm.
Ngày 26/03/2007, các bên thông báo với DSB rằng, theo Điều 21.3(b) của
DSU, họ đã đạt được thỏa thuận về khoảng thời gian hợp lý để Hoa Kỳ thực thi
các phán quyết và khuyến nghị của DSB là 6 tháng, hết hạn ngày 20/08/2007.
Tại cuộc họp ngày 31/08/2007, Hoa Kỳ thông báo họ đã hoành thành đầy
đủ các phán quyết và khuyến nghị của DSB.
17



Có thể thấy trong vụ việc này, WTO đã giải quyết theo trình tự thủ tục cơ
bản. Thời gian từ khi nguyên đơn yêu cầu tham vấn (17/11/2005) cho đến khi
phía Hoa Kỳ hoàn thành đầy đủ phán quyết và khuyến nghị của DSB
(31/08/2007) là chưa đầy hai năm mặc dù vụ việc phức tạp, có liên quan đến
chính sách của Hoa Kỳ và có bên thứ ba liên quan. Điều này không chỉ có ý
nghĩa trong việc đảm bảo trật tự kinh tế mà còn đảm bảo tính công bằng trong
giải quyết tranh chấp của WTO.

18


C.

KẾT LUẬN
Trong hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO, giai đoạn tham vấn có giá

trị gia tăng ở chỗ nó cung cấp cho các bên tranh chấp một cơ hội để làm rõ sự
kiện pháp lý phát sinh và các yêu cầu của người khiếu nại để xua tan đi những
hiểu lầm có thể có là tính chất thực tế của biện pháp bị cáo buộc là vi phạm các
quy định của WTO. Điều này đã khiến cho hoạt động tham vấn trở nên hết sức
linh hoạt, đặt nền tảng để giải quyết các thủ tục tố tụng tiếp theo. Tính năng này
có thể được sử dụng bởi các nước thành viên ASEAN để làm cho cơ chế giải
quyết tranh chấp thương mại được linh hoạt hơn. Cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO dù có nhiều ưu điểm, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ một số nhược điểm
nhất định cần được khắc phục để cơ chế này càng ngày tối ưu, đáp ứng được yêu
cầu giải quyết tranh chấp của hầu hết các quốc gia thành viên, các quyền lợi
pháp lí và kinh tế của họ khi giải quyết tranh chấp được đảm bảo.
Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN đã có cả một quá trình xây
dựng, hoàn thiện và củng cố, được hình thành dựa trên cơ sở pháp lý vững chắc

đó là một loạt các văn bản pháp lý đã trình bày ở trên, tạo tiền đề cho việc giải
quyết các tranh chấp đã xảy ra, đang xảy ra và có khả năng xảy ra giữa các nước
thành viên trong khu vực. Về tổng quát có thể nói quá trình xây dựng, vận hành
và áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN luôn mang tính linh hoạt,
mềm dẻo trong từng bối cảnh cụ thể nhằm hướng tới đích cuối cùng là đảm bảo
hiệu quả các quan hệ hợp tác trong khối. Bên cạnh những thành tựu còn đạt
được, cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN vẫn chưa thật sự đạt được hiệu
quả như các quốc gia thành viên mong muốn, với một sự thật là hầu hết các cơ
chế giải quyết tranh chấp này mới chỉ dừng lại ở mặt văn bản pháp lý mà hầu hết
chưa được áp dụng trên thực tế. Chính vì vậy, trong tương lai, ASEAN cần phải
có những cố gắng hơn nữa để có thể xây dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp
của riêng mình, được tất cả các quốc gia thành viên tin tưởng lựa chọn, góp phần
xây dựng Cộng đồng ASEAN bền vững và phát triển.
19


Tóm lại, Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nhận được sự tin tưởng
hơn so với Co chế giải quyết của ASEAN nhờ những quy định chặt chẽ về trình
tự, thủ tục cũng như quy định về cơ quan giải quyết tranh chấp và kinh nghiệm
giải quyết tranh chấp của mình. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO không
những nhận được sự tín nhiệm của các nước thành viên trên thế giới mà còn
nhận được sự tin tưởng của các nước ASEAN mặc dù tổ chức này đã có một cơ
chế giải quyết tranh chấp hoàn thiện.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


Giáo trình Luật thương mại quốc tế trường Đại học luật Hà Nội, nhà xuất
bản Công an nhân dân, 2013, Nông Quốc Bình chủ biên.

2.

Nguyễn Toàn Thắng, “Cơ chế giải quyết tranh chấp theo Hiến chương
của ASEAN”, Tạp chí Luật học, số 9/2008.

3.

“The ASEAN Dispute Settlement Mechanism and its Role in a RulesBased Community: Overview and Critical Comparison”

- Paolo R.

4.

Vergano
“Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh

5.

chấp” (DSU).
“Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp”

6.

“Giới thiệu cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO – cơ quan giải quyết
tranh chấp” được giới thiệu tại website

7.

8.
9.

truy cập ngày 14/3/2017
truy cập ngày 14/2/2017
truy cập ngày 15/3/2017

21



×