Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ninh (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.64 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH PHƯƠNG

TÁI PHẠM, NGUY HIỂM THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số:

60 38 01 04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội.

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ

Phản biện 1: TS. Đặng Quang Phương
Phản biện 2: PGS.TS. Cao Thị Oanh

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học Xã hội vào lúc:
14 giờ 50, ngày 13 tháng 5 năm 2017


Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lần đầu tiên định nghĩa pháp lý về chế định tái phạm, tái
phạm nguy hiểm được các nhà làm luật ghi nhận trong bộ luật hình
sự năm 1985 với ý nghĩa vừa là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự trong phần chung vừa là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt
của nhiều loại tội trong phần riêng của Bộ Luật hình sự. Chế định này
tiếp tục kế thừa những nhân tố hợp lý và sửa đổi, bổ sung trong Bộ
luật hình sự năm 1999 cho phù hợp với sự phát triển của xã hội,
nhằm đáp ứng nhu cầu đấu tranh và phòng chống tội phạm. Vấn đề
tái phạm, tái phạm nguy hiểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
việc xác định trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt và cả đối với
việc ấn định chế độ thi hành hình phạt đối với người phạm tội. Vì
vậy, nó phụ thuộc rất lớn vào việc áp dụng pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng, đặc biệt là hoạt động xét xử của Tòa án.
Nguyên nhân của những sai sót này là chưa nhận thức đúng
bản chất của chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Mặt khác, do
chưa được hướng dẫn đầy đủ nên việc xác định cũng như việc áp
dụng chế định này còn nhiều vướng mắc, cần có sự hướng dẫn thống
nhất, vì vậy việc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa để làm sáng tỏ về
mặt khoa học và các quy đinh hiện hành của Bộ luật hình sự Việt
Nam về chế đinh tái phạm, tái phạm nguy hiểm và thực tiễn áp dụng,
đồng thời đưa ra các giải pháp hoàn thiện và đảm bảo áp dụng đúng
quy định của Bộ luật hình sự về tái phạm, tái phạm nguy hiểm có ý
nghĩa rất lớn về mặt lý luận và thực tiễn.
1



Đây là lý do tôi quyết định lựa chọn đề tài “Tái phạm, tái
phạm nguy hiểm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ninh” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm là vấn đề hết sức
quan trọng trong quyết định hình phạt đối với người phạm tội, việc
áp dụng chế định này trong thực tiễn không chỉ là hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng mà còn là hoạt
động của các cá nhân, tổ chức khác quan tâm, nghiên cứu của các
luật gia trong và ngoài nước nghiên cứu về chế định này như:
2.1. Các công trình đã viết thành sách
“Nghiên cứu về chế định đa (nhiều) tội phạm” trong sách
“Các nghiên cứu chuyên khảo của phần chung luật hình sự” tập IV,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội năm 2002 của TSKH Lê Cảm;
“Những vấn đề cơ bản trong khoa học học Luật hình sự”, phần
chung, chương IV, Nxb Đại học quốc gia Hà nội năm 2005 của
TSKH Lê Cảm; “Nhiều tội phạm” chương XV, giáo trình luật hình
sự Việt Nam” do PGS,TS. Võ Khánh Vinh chủ biên; “Nhiều tội
phạm”, Nxb Công an nhân dân năm 2010 của TS Lê Văn Đệ.
2.2. Các bài viết trên tạp chí
“Một vài ý kiến về chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm
theo quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam” - Tạp chí Tòa án số
4/2001 của tác giả Phạm Hồng Hải; “Quy định về tái phạm, tái phạm
nguy hiểm và những nội dung cần sửa đổi” - Tạp chí Tòa án nhân
dân số 14/2012 của tác giả Đỗ Văn Chỉnh.
2



2.3. Luận văn, Luận án
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái phạm theo Luật
hình sự Việt Nam” Luận văn thạc sĩ của tác giải Lê Thị Ngọc năm
2012; “Quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt” - Luận văn
thạc sĩ của tác giả Đặng Thị Thanh nswem 1998; “Quyết định hình
phạt trong Luật hình sự Việt Nam” - Luận văn tiến sĩ của tác giả Lê
Văn Đệ năm 2003; “Quyết đinh hình phạt trong Luật hình sự Việt
Nam” Luận án tiến sĩ của tác giả Dương Tuyết Miên năm 2003.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một cách
tương đối có hệ thống về mặt lý luận của chế định tái phạm, tái phạm
nguy hiểm, phân tích, đánh giá đúng thực trạng những quy định về
chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong Bộ luật hình sự hiện
hành thực tiễn áp dụng, xác định những vướng mắc trong thực tiễn để
trên cơ sở đó đề xuất hệ thống cá giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp
dụng pháp luật chế định này.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nghiên cứu trên tác giả Luận
văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
Về mặt lý luận: a) Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển
của vấn đề tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong Luật hình sự Việt
Nam từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, nghiên cứu làm
sáng tỏ khái niệm tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phân biệt chế định
này với chế định phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội, phạm tội có tính
3


chất chuyên nghiệp. b) Nghiên cứu quy định về tái phạm, tái phạm
nguy hiểm trong luật hình sự của một số nước trên thế giới, rút ra

những điểm hợp lý, chưa hợp lý trong Luật hình sự Việt Nam hiện
hành.
Về mặt thực tiễn: a) Khảo sát đánh giá thực trạng áp dụng
chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong thực tiễn tỉnh Quảng
Ninh, phân tích những tồn tại, hạn chế xung quanh việc quy định tái
phạm, tái phạm nguy hiểm trong luật hình sự Việt Nam hiện hành; b)
Đề xuất đưa ra các giải pháp áp dụng đúng các quy đinh về tái phạm,
tái phạm nguy hiểm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Tái phạm, tái phạm nguy hiểm có thể được nghiên cứu bởi
nhiều chuyên ngành khoa học pháp lý khác nhau: khoa học luật hình
sự, khoa học thi hành án hình sự, tội phạm học, khoa học xã hội học
hình sự. Trong luận văn này tác giả nghiên cứu tái phạm, tái phạm
nguy hiểm dưới gốc độ Luật hình sự tập trung vào các vấn đề lý luận
cơ bản về tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của Luận văn là lý luận và lịch sử nhà nước và
pháp luật; chủ nghĩa Mác - Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp, về chính sách đấu
tranh, phòng, chống tội phạm. Luận văn sử dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết
hợp với các phương pháp hệ thống, phân tích tổng hợp, lịch sử, lôgic,

4


thống kê, so sánh pháp luật, xã hội học để hoàn thành các nhiệm vụ
mà tác giả luận văn đã đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo,

đề cập một cách tương đối có hệ thống và đương đối toàn diện về chế
định tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong luật hình sự Việt Nam ở cấp
độ một luận văn thạc sĩ luật học.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng
đắn những điều kiện cụ thể trong việc áp dụng chế định tái phạm, tái
phạm nguy hiểm trong điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến
hành tố tụng, đưa ra các kiến nghị hoàn thiện chế định này ở khía
cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng trong thực tiễn, góp phần phân
hóa tội phạm, người phạm tội, phân hóa trách nhiệm hình sự, tăng
cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tái phạm, tái phạm nguy
hiểm theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 về tái phạm, tái phạm nguy hiểm và thực tiễn áp dụng
tại tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và đảm bảo áp dụng đúng
các quy đinh của Bộ luật hình sự về tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI PHẠM,
TÁI PHẠM NGUY HIỂM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
1.1.


Khái niệm và đặc điểm của tái phạm

1.1.1.

Khái niệm tái phạm

Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm tái phạm được sử dụng
trong nhiều ngành luật nhưng nội dung của khái niệm này lại được
giải thích hoặc được hiểu khác nhau. Trong luật hành chính “tái
phạm” được quy định với ý nghĩa là một tình tiết tăng nặng trách
nhiệm pháp lý. Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính đưa ra khái
niệm:
Tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị xử lý vi
phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa
bị xử lý vi phạm hành chính, kể từ ngày chấp hành xong
quyết địn xử phạt, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành
chính hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định này
mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử lý [37].
“Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích
mà lại phạm một tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng do vô ý.” Khoản 1 Điều 49 BLHS năm 1999 sửa đổi,
bổ sung năm 2009.
1.1.2.

Các đặc điểm của tái phạm

6


Trên cơ sở nghiên cứu các điều kiện của tái phạm và khái

niệm tái phạm nêu trên chúng ta có thể thấy một số đặc điểm của tái
phạm như sau:
Thứ nhất, tái phạm là hành vi phạm tội lặp lại.
Thứ hai, người phạm tội lại phạm tội mới trong một khoảng
thời gian nhất định sau khi bị kết án lần thứ nhất.
Thứ ba, tái phạm là một tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về
nhân thân người phạm tội, tái phạm không những làm tăng mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội mà cả bản thân người phạm tội cũng
trở lên nguy hiểm hơn đối với xã hội.
Thứ tư, tái phạm là thước đo hiệu quả của hình phạt.
1.2.

Khái niệm và đặc điểm của tái phạm nguy hiểm

1.2.1.

Khái niệm tái phạm nguy hiểm

Trong khoa học Luật hình sự Việt Nam, khái niệm tái phạm
nguy hiểm cũng chưa được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu,
khi đề cập đến khái niệm này các tác giả cũng thường sử dụng định
nghĩa pháp lý được quy định trong pháp luật hình sự thực định.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, chúng ta có thể đưa ra
khái niệm của tái phạm nguy hiểm như sau:
Tái phạm nguy hiểm là một hình thức của tái phạm, là trường
hợp tái phạm có tính nguy hiểu rất cao mà các điều kiện của nó phải
đáp ứng các điều kiện tăng cao so với điều kiện của tái phạm.
1.2.2.

Các đặc điểm của tái phạm nguy hiểm phạm


Là một hình thức của tái phạm, nên tái phạm nguy hiểm cũng
có các đặc điểm chung của tái phạm đó là: 1) Là hành vi phạm tội lặp
7


lại; 2) Chủ thể trước đây đã từng bị kết án và để lại án tích; 3) Lại
phạm tội mới trong một khoảng thời gian nhất định kể từ khi bị kết
án lần thứ nhất. Tuy nhiên, là một hình thức tái phạm nên tái phạm
nguy hiểm cũng có những đặc điểm riêng của nó. Nếu như tái phạm,
nhà làm luật áp dụng đường lối xử lý nghiêm khác do tính nguy hiểm
tương đối cao của nó thì ở tái phạm nguy hiểm là trường hợp tái
phạm có tính nguy hiểm rất cao nên đường lối xử lý cũng phải rất
nghiêm khắc.
1.3. Phân biệt tái phạm, tái phạm nguy hiểm với một số
trường hợp tương tự phạm
1.3.1. Phân biệt tái phạm, tái phạm nguy hiểm với phạm tội
nhiều lần
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành, cũng có
một số văn bản hướng dẫn, giải thích về tình tiết “phạm tội nhiều
lần”.
Thứ nhất, trong khi “tái phạm, tái phạm nguy hiểm” đều có
dấu hiệu là người đã bị kết án và chưa được xóa án tích thì ở trường
hợp “phạm tội nhiều lần” không có dấu hiệu này mà ngược lại,
những hành vi phạm tội thuộc trường hợp này chưa bị các cơ quan có
thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật (chưa bị kết án).
Thứ hai, tội phạm trước và tội phạm mới trong trường hợp
“tái phạm, tái phạm nguy hiểm” không bắt buộc phải cùng một loại
tội được quy định trong cùng một điều luật, còn trường hợp “phạm
nhiều tội nhiều lần” thì bắt buộc tất cả các hành vi đó đều được quy

định trong cùng một điều luật cụ thể trong phần riêng của BLHS.
8


1.3.2. Phân biệt tái phạm, tái phạm nguy hiểm với phạm
nhiều tội
Cũng như phạm tội nhiều lần, khái niệm phạm nhiều tội cũng
chưa được nhà làm luật ghi nhận trong BLHS Việt Nam. Trong khoa
học luật hình sự Việt Nam, cũng có nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm phạm nhiều tội.
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp cũng chưa được định
nghĩa về mặt lập pháp trong BLHS giống như phạm tội nhiều lần và
phạm nhiều tội. Trong khoa học luật hình sự hiện nay cũng có một số
tác giả đưa ra khái niệm về phạm tội có tính chất chuyên nghiêp.
1.4. Ý nghĩa pháp lý hình sự của tái phạm, tái phạm
nguy hiểm
1.4.1.

Tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết định tội

Tình tiết định tội là tình tiết do nhà làm luật quy định dùng để
xác định một hành vi cụ thể nào đó có phạm tội (phạm vào một tội
danh cụ thể được quy định trong luật hình sự) không? Trong khoa
học luật hình sự, tình tiết định tội còn được gọi là tình tiết (dấu hiệu)
thuộc cấu thành tội phạm cơ bản.
1.4.2.

Tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết định

khung

Tình tiết định khung hình phạt là tình tiết do nhà làm luật quy
định trong các khoản (giảm nhẹ hoặc tăng nặng) của điều luật cụ thể,
dùng để xác định trường hợp phạm tội cụ thể nào đó có thuộc trường
hợp được quy định ở khung hình phạt tăng nặng hoặc khung hình
phạt giảm nhẹ của của tội phạm đó không?. Trong khoa học luật hình
9


sự, tình tiết định khung hình phạt còn được gọi là tình tiết (dấu hiệu)
thuộc cấu thành tội phạm tăng nặng (khung tăng nặng) và cấu thành
tội phạm giảm nhẹ (khung giảm nhẹ).
1.4.3. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là các tình tiết
làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, là căn
cứ để tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội (trong phạm
vi một khung hình phạt) so với các trường hợp phạm tội tương tự
khác nhưng không có tình tiết tăng nặng đó.
Trong Luật hình sự Việt Nam, các tình tiết tăng nặng đã được
quy định cụ thể tại Điều 48 BLHS.
Vấn đề áp dụng pháp luật trong một số trường hợp có sự đan
xen giữa các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định
tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS.
Áp dụng pháp luật trong trường có sự đan xen giữa tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhiều lần” và tình tiết “tái
phạm, tái phạm nguy hiểm”.
Ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là
làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong
phạm vi một khung hình phạt so với các trường hợp phạm tội tương
tự nhưng không có tình tiết tăng nặng đó, làm căn cứ để tăng nặng

trách nhiệm hình sự (tăng nặng hình phạt) đối với người phạm tội.
1.4.4. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm thuộc yếu tố nhân
thân người phạm tội được cân nhắc trong quyết định hình phạt
10


Trong luật hình sự, khái niệm chủ thể của tội phạm và khái
niệm nhân thân người phạm tội tuy không đồng nhất với nhau nhưng
có liên quan chặt chẽ với nhau. Chủ thể của tội phạm là khái niệm
dùng để chỉ con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong luật hình sự và con người đó đòi hỏi phải có
năng lực trách nhiệm hình sự cũng như đạt đến độ tuổi luật định. Bên
cạnh đó, chủ thể của tội phạm còn có nhiều đặc điểm khác - những
đặc điểm về xã hội, về tâm lí và về sinh học.
1.5. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tái
phạm và tái phạm nguy hiểm
1.5.1. Quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong luật
hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1959
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959, Luật hình sự
Việt Nam thể hiện là các văn bản pháp luật được ban hành dưới dạng
Sắc lệnh và có kế thừa những quy định về hình sự của chế độ cũ. Số
lượng các Sắc lệnh được ban hành trong giai đoạn này đương đối lớn
trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
1.5.2. Quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong luật
hình sự Việt Nam từ năm 1959 đến năm 1985
Trong pháp lệnh này cũng có nhiều quy định riêng quy định
về tái phạm với tư cách là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Điều 22 quy định những trường hợp cần xử nặng: “kẻ nào phạm
những tội quy định ở chương 2 mà tội phạm thuộc vào một hoặc
nhiều trường hợp sau đây thì bị xử nặng: 1. Gây thiệt hại trực tiếp


11


đến sản xuất, đời sống của nhân dân hoặc đến đời sống an ninh quốc
phòng; 2. Tái phạm hoặc kẻ phạm tội là phần tử xấu” [55].
1.5.3. Quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong luật
hình sự Việt Nam từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1999
Trong bộ luật hình sự năm 1985 lần đầu tiên khái niệm pháp
lý về tái phạm, tái phạm nguy hiểm được nhà làm luật ghi nhận và
được ghi nhận thành một chế định độc lập trong Phần chung của Bộ
luật hình sự.
1.6. Khái quát quy định của Bộ luật hình sự một số nước
về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
1.6.1. Quy định của Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy
Điển về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển được thông qua năm
1962, có hiệu lực từ ngày 01/01/1965 và được sửa đổi gần đây nhất
vào ngày 01/5/1999. Tại Điều 3, chương 26 cũng ghi nhận khái niệm
pháp lý về tái phạm.
1.6.2. Quy định của Bộ luật hình sự Liên bang Nga về tái
phạm, tái phạm nguy hiểm
Bộ luật hình sự năm 1996, sửa đổi năm 2012 của Liên bang
Nga quy định tái phạm là tình tiết tăng nặng TNHS tại điểm a khoản l
Điều 64 và khái niệm tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tái phạm đặc
biệt nguy hiểm được quy định tại điều 18 trong phần quy định chung
về tội phạm.

12



1.6.3 Quy định của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Trong bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa, khái niệm tái phạm được chính thức ghi nhận trong cả hai Bộ
luật hình sự năm 1979 và Bộ luật hình sự năm 1997 (sửa đổi năm
2001).
Trong Bộ luật hình sự năm 1997 thì tái phạm được quy định
tại Điều 65: “Người phạm tội bị phạt tù có thời hạn trở lên trong
vòng 5 năm sau khi chấp hành xong hình phạt hoặc được hưởng ân
xá lại phạm tội đáng bị xử phạt từ tù có thời hạn trở lên gọi lại tái
phạm và phải chịu hình phạt nặng nhưng được trừ tội phạm đã phạm
trước đó” [22, tr.60].
Chương 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 1999 VỀ TÁI PHẠM, TÁI PHẠM NGUY HIỂM
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Thực trạng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
2.1.1. Thực trạng quy định của Bộ luật sự năm 1999 về tái
phạm
Trong Bộ luật hình sự năm 1999, chế định tái phạm cũng
được quy định thành một chế định độc lập (Điều 49), cũng như được
ghi nhận là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (điểm g khoản 1
Điều 48) và tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của một số loại
tội như Bộ luật hình sự năm 1985 nhưng có thay đổi cơ bản về mặt lý
13



luận. Theo đó, BLHS năm 1999 đã thay điều kiện “bị phạt tù” thành
“bị kết án”; sửa điều kiện “chưa được xóa án” thành “chưa được xóa
án tích” cho chặt chẽ hơn. Cụ thể, theo quy định tại điều 49 Bộ luật
hình sự năm 1999 thì tái phạm được định nghĩa như sau: “1. Tái
phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm
tội cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do
vô ý” [33, tr.72].
2.1.2. Thực trạng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
về tái phạm nguy hiểm
Cũng giống như tái phạm, trong Bộ luật hình sự năm 1999
chế định tái phạm nguy hiểm cũng được quy định thành một chế định
độc lập (Điều 49), cũng như được ghi nhận là tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự (Điểm g khoản 1 Điều 48) và là tình tiết tăng
nặng định khung hình phạt của một số loại tội.
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội
rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm
tội do cố ý [32, tr.39-40].
Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 viện dẫn ở trên thì có hai
trường hợp được xác định là tái phạm nguy hiểm.
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm
1999 về tái phạm, tái phạm nguy hiểm tại tỉnh Quảng Ninh

14


Quảng Ninh có phần diện tích đất tự nhiên trải dài gần
300km, có biên giới giáp với Trung Quốc và với nhiều thành phần

dân tộc. Là tỉnh có nền kinh tế phát triển sớm với nhiều lĩnh vực khác
nhau: khai thác than, du lịch. Số lượng người đổ về Quảng Ninh làm
việc, thăm quan du lịch ngày càng nhiều và đây cũng là nguyên nhân
dẫn đến tình hình an ninh, trật tự bất ổn, tệ nạn tội phạm diễn ra ngày
càng nhiều và ngày càng phức tạp.
2.2.1. Một số kết quả đạt được trong áp dụng quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về tái phạm, tái phạm nguy
hiểm
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về
các mặt của đời sống xã hội, tình hình an ninh, trật tự tuy giữ được ổn
định nhưng tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường; hoạt động tội phạm vẫn
diễn ra phức tạp theo chiều hướng tăng.
Theo báo cáo công tác xét xử của ngành Tòa án tỉnh Quảng
Ninh giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016.
Bảng 2.1: Tổng kết tình hình thụ lý, xét xử của Toà án nhân dân
hai cấp tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2012 - 2016
Năm

Thụ lý

Xét xử

Vụ

Bị cáo

Vụ

Bị cáo


2012

897

1289

897

1289

2013

936

1520

935

1518

2014

886

1131

884

1125


2015

912

1356

912

1356

15


2016

923

1415

921

1410

Tổng

4554

6711

4549


6698

Nguồn: Văn phòng - TAND tỉnh Quảng Ninh
Bảng 2.2: Số lượng các bị cáo tái phạm, tái phạm nguy
hiểm tại tỉnh Quảng Ninh từ năm 2012 đến 2016
Nguồn: Văn phòng - TAND tỉnh Quảng Ninh
Từ bảng số liệu trên cho thấy số bị cáo tái phạm, tái phạm
Năm

Tổng số bị cáo đã

Số bị cáo là tái

Tỷ lệ bị cáo là

xét xử

phạm, tái phạm

tái phạm, tái

nguy hiểm

phạm nguy
hiểm

2012

897


59

6.57%

2013

935

56

5.98%

2014

884

64

7.2%

2015

912

71

7.78%

2016


921

69

7.50%

Tổng

4549

319

7%

nguy hiểm chiếm tỷ nhỏ trong tổng số bị cáo đã bị xét xử và có sự
thay đổi trong từng năm.

16


Bảng 2.3: Số lượng các vụ án có bị cáo bị áp dụng tái
phạm, tái phạm nguy hiểm thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu
Năm

Tổng số bị cáo bị

Số bị cáo bị áp

xét xử thuộc nhóm


dụng TP, TPNH

Tỷ lệ

tội xâm phạm sở
hữu
2012

226

15

6.6%

2013

335

19

5.67%

2014

322

21

6.5%


2015

298

19

6.37%

2016

316

23

7.27%

Tổng

1498

97

6.47%

Nguồn: Văn phòng - TAND tỉnh Quảng Ninh
Bảng 2.4. Số lượng vụ án hình sự có bị cáo bị áp dụng tái phạm,
tái phạm nguy hiểm thuộc nhóm tội xâm phạm
tính mạng sức khỏe
Năm


Tổng số bị cáo bị xét

Số bị cáo là

xử thuộc nhóm tội

TP, TPNH

Tỷ lệ

xâm phạm tính mạng,
sức khỏe
2012

322

15

4.65%

2013

345

21

6.0%

17



2014

368

14

5.16%

2015

352

24

6.8%

2016

375

23

6.1%

Tổng

1762


97

5.5%

Nguồn: Văn phòng - TAND tỉnh Quảng Ninh
Bảng 2.5. Số lượng các vụ án hình sự có bị cáo bi áp dụng
tái phạm, tái phạm nguy hiểm thuộc nhóm tội phạm về ma túy
Năm

Tổng số bị cáo bị xét

Số bị cáo là

xử thuộc nhóm tội

TP, TPNH

Tỷ lệ

xâm phạm ma túy
2012

275

19

6.9%

2013


263

14

5.3%

2014

301

25

8.3%

2015

361

23

6.37%

2016

296

27

9.1%


Tổng

1496

108

7.2%

Nguồn: Văn phòng - TAND tỉnh Quảng Ninh
2.2.2. Một số hạn chế, thiếu sót trong áp dụng quy định của
Bộ luật hình sự năm 1999 về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
2.2.2.1.

Không áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm

1999 về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
2.2.2.2. Áp dụng không đúng quy định của Bộ luật hình sự
năm 1999 về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
18


2.2.2.3. Áp dụng không thống nhất quy định của Bộ luật hình
sự năm 1999 về tái phạm, tái phạm gnuy hiểm
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn, chế thiếu sót trong áp
dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tái phạm, tái
phạm nguy hiểm
2.2.3.1. Nguyên nhân chủ quan
2.2.3.2. Nguyên nhân khách quan
Chương 3
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT

NAM VỀ TÁI PHẠM VÀ TÁI PHẠM NGUY HIỂM VÀ MỘT
SỐ GIẢI PHÁP KHÁC BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC
QUY ĐỊNH NÀY
3.1. Các yêu cầu hoàn thiện, và bảo đảm áp dụng đúng
quy định của Bộ luật hình sự về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
3.1.1. Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền được các nhà luật học của nhiều nước
định nghĩa bằng những ngôn ngữ và diễn đạt khác nhau, song về bản
chất có thể tóm lại như sau: “Nhà nước pháp quyền là Nhà nước thực
thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng pháp luật được ban hành
theo thủ tục hiến định nhằm bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của
nhân dân và công lý”. Như vậy, nếu phân tích đầy đủ khái niệm này
từ góc độ pháp luật, có thể thấy rằng, một Nhà nước pháp quyền phải
là Nhà nước chịu sự kiểm soát, sự chế ngự của pháp luật trong mọi
hoạt động của mình.

19


3.1.2. Yêu cầu cải cách tư pháp, thực hiện chính sách hình
sự hướng thiện, coi trọng tính phòng ngừa
Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nhằm
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm cho Nhà nước có đủ khả năng thực
hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đổi mới toàn diện
đất nước, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh. Với ý nghĩa đó, tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp được đổi mới phải mang đầy đủ bản chất và
những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định.

3.2. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tái phạm,
tái phạm nguy
3.2.1. Hoàn thiện quy định phần chung Bộ luật hình sự về
tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc xử lý theo Điều 3 Bộ luật
hình sự là nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống
đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm… các cơ quan tiến hành
tố tụng nói chung và Toà án nói riêng phải làm rõ những tình tiết tái
phạm, tái phạm nguy hiểm theo quy định của pháp luật để đảm bảo
cho việc áp dụng pháp luật chính xác, công minh.
Thứ hai, xuất phát từ nhu cầu giải quyết vụ án hình sự, nhất
là quyết định hình phạt chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội.
Quyết định hình phạt là một hoạt động rất quan trọng khi Toà án xét
xử một vụ án hình sự.
20


3.2.2. Hoàn thiện quy định phần các tội phạm của luật
hình sự về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Không nên đề cập đến việc bản án đó có áp dụng hình phạt
loại gì đối với bị cáo trước đó hoặc hiện tại. Hình phạt của bản án là
cơ sở để phát sinh án tích và cũng là điều kiện để xác định một
trường hợp bị coi tái phạm vì nếu Toà án kết tội nhưng miễn hình
phạt thì sẽ đương nhiên được xoá án tích và do đó sẽ không có tái
phạm. Mặt khác, các khái niệm trên đây cũng chưa khắc phục được
sự chồng chéo giữa tái phạm với tái phạm nguy hiểm đó là: Trong
khái niệm tái phạm các tác giả đã đề cập đến điều kiện đó là “đã từng
bị kết về tội cố ý..., lại phạm tội do cố ý” như vậy tội phạm mà họ đã
thực hiện có thể tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm
trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng và tội phạm mới mà họ thực hiện

cũng có thể là một trong bốn loại tội phạm nêu trên và chỉ với điều
kiện là lặp lại tội do cố ý.
Điều... Khái niệm nhiều tội phạm
1. Nhiều tội phạm là khi hành vi phạm tội do Bộ luật
này quy định được thực hiện thuộc một trong những trường
hợp tương ứng sau đây:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Phạm nhiều tội;
c) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
d) Tái phạm.
2. Nếu trong những điều kiện tương tự như nhau, thì
trách nhiệm hình sự đối với tội phạm thuộc một trong những
21


trường hợp nêu tại khoản 1 Điều này hải ở mức độ cao hơn
[5, tr.410].
Điều… Tái phạm
1. Tái phạm là trường hợp phạm tội do cố ý sau khi đã bị xử
phạt về tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng do cố ý mà bản án
kết tội đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa được xoá án tích.
2. Tái phạm nguy hiểm là những trường hợp sau đây:
a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý, tội đặc biệt
nghiêm trọng, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm
trọng do cố ý, tội đặc biệt nghiêm trọng.
b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích về tội đã xác định tái
phạm mà lại phạm tội do cố ý.
3. Tái phạm đặc biệt nguy hiểm là trường hợp đã tái phạm
nguy hiểm, chưa được xoá án tích của tội đã xác định tái phạm nguy
hiểm mà lại phạm tội do cố ý.

3.3. Một số giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng quy
định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
3.3.1. Tăng cường giáo dục, phổ biến pháp luật, góp phần
nâng cao nhận thức về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Thứ nhất, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cần
ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết hơn nữa những dấu hiệu chưa rõ
ràng trong chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, như “dấu hiệu đã
bị kết án” để tạo sự thống nhất trong nhận thức và trong việc áp dụng
pháp luật khi giải quyết các vụ án hình sự liên quan.

22


Thứ hai, cần hướng dẫn về trường hợp tội thực hiện trước bị
xét xử sau, tội thực hiện sau xét xử trước. Trong thực tiễn xét xử thì
hai trường hợp này là tương đối phổ biến và cơ bản, các Hội đồng xét
xử đều xác định tội phạm bị xét xử sau không thuộc trường hợp tái
phạm, tái phạm nguy hiểm là đúng theo quy định của pháp luật, vì
trong trường hợp này, tội phạm xét xử sau không thoả mãn dẫn hiệu
“đã bị kết án mà lại phạm tội”. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có Hội
đồng xét xử xác định là tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
3.3.2. Chú trọng tổng kết thực tiễn và hướng dẫn áp dụng
quy định của Bộ luật hình sự về tái phạm, tái pạm nguy hiểm
Thường xuyên tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết thực tiễn
áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nói chung, tình
tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm nói riêng để kịp thời tháo gỡ các
vướng mắc trong công tác xét xử.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc các bản án đã có
hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân các cấp.


23


×