Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu giải trí của công nhân nhà trọ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC LOAN

MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN NHU CẦU GIẢI TRÍ
CỦA CÔNG NHÂN NHÀ TRỌ HIỆN NAY

(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI – 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC LOAN

MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN NHU CẦU GIẢI TRÍ
CỦA CÔNG NHÂN NHÀ TRỌ HIỆN NAY

(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN)
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS TRƢƠNG XUÂN TRƢỜNG

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ các
thầy cô, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
đến thầy Trương Xuân Trường đã tận tâm, nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.
Xin cảm ơn tất cả quý thầy cô Khoa Xã hội học của Học viện Khoa học xã
hội đã truyền đạt những kiến thức bổ ích trong suốt thời gian học tập tại trường và
tạo những điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện Luận văn, bản thân tôi đã hết sức cố gắng,
song không thể tránh khỏi những sai sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp quý báu
của quý thầy, cô để giúp cho việc nghiên cứu đề tài được hoàn thiện hơn.
Long An, ngày 22 tháng 02 năm 2017
Ngƣời viết

Nguyễn Thị Ngọc Loan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ......................................12
1.1 Cơ sở lý luận .......................................................................................................12
1.2 Cơ sở thực tiễn ....................................................................................................20
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG GIẢI TRÍ CỦA CÔNG NHÂN
NHÀ TRỌ HIỆN NAY ...........................................................................................26
2.1 Thực trạng công nhân nhà trọ tại huyện Bến Lức tỉnh Long An ........................26

2.2 Các hoạt động giải trí của công nhân nhà trọ tại huyện Bến Lức tỉnh Long An 33
Chƣơng 3 NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC TH M GI
HOẠT ĐỘNG GIẢI TR CỦ C NG NHÂN

C C

HU NHÀ TRỌ HIỆN NAY .43

3.1 Thực trạng về thời gian rỗi và các hoạt động trong thời gian rỗi .......................43
3.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giải trí của công nhân nhà trọ hiện nay....51
3.3 Một số giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí của công nhân nhà trọ hiện nay ...60
PHẦN KẾT LUẬN - KHUYẾN NGHỊ .................................................................69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Kết quả tăng trưởng kinh tế của tỉnh Long An ......................................21
Bảng 1.2: Cơ cấu kinh tế của tỉnh Long An ............................................................22
Bảng 1.3: Các lĩnh vực kinh tế chủ yếu của tỉnh Long An ....................................22
Bảng 2.1: Phương tiện sinh hoạt ...............................................................................31
Bảng 2.2: Mô tả mức độ tham gia các hoạt động giải trí trong thời gian rảnh rỗi....33
Bảng 2.3: Những hoạt động giải trí không lành mạnh ..............................................36
Bảng 2.4: Các hoạt động do CĐCS tổ chức ..............................................................40
Bảng 3.5: Thời gian rỗi theo nhóm tuổi ....................................................................45
Bảng 3.6: Thời gian rỗi theo thu nhập ......................................................................46
Bảng 3.7: Tham gia các hoạt động giải trí trong thời gian rỗi ..................................48
Bảng 3.8: Thời gian tham gia giải trí theo trình độ học vấn .....................................51
Bảng 3.9: Thời gian tham gia giải trí theo tình trạng hôn nhân ................................53
Bảng 3.10: Tham gia các hoạt động giải trí trong thời gian rỗi giữa nam và nữ ......54

Bảng 3.11: Phương tiện giải trí tại công ty ...............................................................56
Bảng 3.12: Gần khu nhà trọ có những khu vui chơi giải trí......................................58


DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu đồ 2.1: Trình độ học vấn, chuyên môn .............................................................27
Biểu đồ 2.2: Độ tuổi ..................................................................................................27
Biểu đồ 2.3: Giới tính ................................................................................................28
Biểu đồ 2.4: Tình trạng hôn nhân..............................................................................28
Biểu đồ 2.5: Thu nhập ...............................................................................................29
Biểu đồ 2.6: Tiền nhà trọ...........................................................................................29
Biểu đồ 2.7: Các khoản chi tiêu ................................................................................30
Biểu đồ 2.8: Hoạt động giải trí thu hút công nhân ....................................................35
Biểu đồ 2.9: Tỷ lệ tham gia các hoạt động xã hội .....................................................37
Biểu đồ 2.10: Tham gia các hoạt động xã hội ...........................................................37
Biểu đồ 2.11: Tham gia các hoạt động vui chơi giải trí do nơi ở tổ chức.................38
Biểu đồ 2.12: Mong muốn nơi làm việc tổ chức hoạt động giải trí ..........................39
Biểu đồ 2.13: Công đoàn cơ sở tổ chức hoạt động vui chơi giải trí .........................40
Biểu đồ 2.14: Số lần tham gia các hoạt động do nơi làm việc ..................................41
Biểu đồ 3.15: Giờ làm việc .......................................................................................43
Biểu đồ 3.16: Thời gian rỗi .......................................................................................44
Biểu đồ 3.17: Thời gian giải trí .................................................................................44
Biểu đồ 3.18: Mức độ cần thiết tổ chức hoạt động giải trí lúc nhàn rỗi ...................47
Biểu đồ 3.19: Tham gia các hoạt động giải trí với ai ................................................49
Biểu đồ 3.20: Công ty tổ chức đi tham quan/du lịch ................................................50
Biểu đồ 3.21: Số lần đi tham quan/du lịch trong năm...............................................50
Biểu đồ 3.22: Tỷ lệ gần khu vui chơi giải trí ............................................................57
Biểu đồ 3.23: Mức độ tổ chức hoạt động giải trí ở khu trọ.......................................59



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy nhanh và mạnh quá trình
phát triển kinh tế, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH, HĐH)
và phát triển nhanh, bền vững trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế hiện nay, giai cấp công nhân
nói chung, đội ngũ công nhân trên địa bàn tỉnh Long An nói riêng ngày càng chiếm
vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Nhận
thức rõ vấn đề này, việc xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp công nhân trong
tình hình mới đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm trên nhiều phương diện,
trong đó có việc đảm bảo đời sống văn hóa tinh thần cho công nhân.
Long An là một tỉnh được tập trung đầu tư nhiều khu, cụm công nghiệp, hiện
có 16 khu công nghiệp (KCN), 09 cụm công nghiệp (CCN) đã đi vào hoạt động.
Thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài ngày càng tăng, toàn tỉnh hiện có trên
6.036 doanh nghiệp trong nước và 528 dự án có vốn đầu tư nước ngoài trong đó có
315 dự án đã đi vào hoạt động. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ làm cho công nhân lao động (CNLĐ) trong các thành
phần kinh tế tăng nhanh về số lượng [33; tr. 2-4]. Đến nay toàn tỉnh có trên 250.000
lao động. Trong đó, Bến Lức là một trong những huyện công nghiệp của tỉnh Long
An, tập trung đa phần là những khu, cụm công nghiệp; hiện đã thu hút 144 doanh
nghiệp hoạt động với 13.353 CNLĐ, đa số CNLĐ từ các tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, An
Giang, Trà Vinh, … đến làm việc nên họ phải ở trọ lại; số công nhân ở tại khu nhà trọ
chiếm trên 60% công nhân lao động của huyện, hiện có trên 8.000 công nhân đang ở
trọ (Kết quả thống kê của Liên đoàn Lao động tỉnh Long An năm 2014).
Trong bất kỳ thời đại nào, nhu cầu giải trí là một trong những hoạt động
quan trọng và không thể thiếu trong đời sống của mỗi con người nhất là CNLĐ.
Hoạt động giải trí giúp cho CNLĐ tìm được sự cân bằng trong cuộc sống, giải tỏa
căng thẳng, mệt mỏi sau khi làm việc và đem lại sức khỏe cho họ để từ đó tái tạo
sức lao động một cách có hiệu quả hơn. Điều này được khẳng định, khi ngày nay


1


cuộc sống của CNLĐ ngày một phát triển thì áp lực trong công việc, trong các mối
quan hệ rất lớn do đó CNLĐ ngày càng xem trọng các hoạt động giải trí và xem đó
như là một nhu cầu tất yếu không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày.
Nhu cầu giải trí của CNLĐ nói chung và công nhân nhà trọ nói riêng là một
trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm, đã có rất nhiều Chỉ thị, Nghị
quyết, ... ban hành đề cập đến đời sống văn hóa tinh thần của CNLĐ, từ đó đời sống
văn hóa tinh thần của công nhân dần được cải thiện, các hoạt động, phong trào văn
hóa văn nghệ, vui chơi giải trí phong phú, đa dạng hơn. Tuy nhiên, hiện nay trong
lĩnh vực thụ hưởng đời sống văn hóa tinh thần của người lao động còn gặp nhiều
khó khăn, bất cập; vẫn còn nhiều mục tiêu, chỉ tiêu chưa đạt yêu cầu, CNLĐ chưa
được hưởng thụ đời sống văn hóa tinh thần tương xứng với thành quả của công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Cho nên định hướng về phát triển văn hóa
Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ phát
triển văn hóa… làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng
người… nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh
hoạt của nhân dân…Đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hóa đại chúng và môi
trường văn hóa lành mạnh”.
Có thể nói, điều kiện sống và sinh hoạt của công nhân nhà trọ hiện tại rất khó
khăn, thiếu thốn, dẫn đến đời sống tinh thần của họ cũng rất đơn điệu và tẻ nhạt. Đa
phần công nhân nhà trọ ngoài giờ làm việc họ ít được tham gia vào các hoạt động
vui chơi giải trí, đa số phòng trọ thường không có ti vi, radio, internet, báo chí,
v.v… hình thức hoạt động chủ yếu trong khoảng thời gian rỗi của họ chỉ giới hạn ở
hình thức tán gẫu, xem ti vi, nghe radio, mua sắm những vật dụng cần thiết cho gia
đình, ra ngoài cùng bạn bè đi nhậu; trong khi đó thì việc làm, cường độ lao động
cao, hàng tháng mức thu nhập của họ cũng chỉ đáp ứng được nhu cầu đời sống vật
chất và tinh thần một cách tối thiểu nhất, từ đó công nhân không có điều kiện tham
gia vào các hoạt động giải trí nhằm thỏa mãn nhu cầu về mặt tinh thần của mình.

Trong khi đó, CNLĐ là một nhóm xã hội có nhu cầu giải trí cao, muốn được tham
gia vào nhiều hoạt động vui chơi, giải trí mà khả năng đáp ứng nhu cầu giải trí của

2


họ rất thấp. Cho nên họ đã và đang tự giải quyết các nhu cầu giải trí của mình, việc
tự giải quyết nhu cầu giải trí đó có thể nói đối với họ gặp rất nhiều khó khăn bởi vì
không có sự định hướng một cách cụ thể, rõ ràng theo hướng lành mạnh từ đó xuất
hiện những kiểu giải trí lệch chuẩn, thiếu lành mạnh làm ảnh hưởng đến sự ổn định của
xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhân cách, đạo đức của giai cấp công nhân Việt Nam.
Vậy các yếu tố nào ảnh hưởng đến việc công nhân nhà trọ ít được tham gia
vào các hoạt động vui chơi giải trí, đó trở thành một trong những vấn đề cấp thiết
cần phải được nghiên cứu và vấn đề này chưa được nghiên cứu một cách khoa học.
Do vậy, để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu giải trí của công nhân nhà trọ,
từ thực trạng đó đề xuất những giải pháp định hướng và đáp ứng nhu cầu giải trí của
họ góp phần vào việc nâng cao chất lượng làm việc, chất lượng sống của công nhân
nhà trọ hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Một số yếu tố ảnh
hưởng đến nhu cầu giải trí của công nhân nhà trọ hiện nay”.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, trên cơ sở nghiên cứu này, bằng những
cứ liệu tìm tòi khảo sát, với các giải pháp đã đề xuất, tôi mong muốn góp một phần
làm sáng tỏ thêm diện mạo tình hình giải trí văn hóa cũng như việc tham gia các
hoạt động giải trí của nhóm công nhân nhà trọ, từ đó hi vọng có những giải pháp
thiết thực và hiệu quả trong việc chăm lo đời sống tinh thần nhằm đáp ứng các nhu
cầu giải trí của CNLĐ ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề nhu cầu giải trí của công nhân đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu,
mỗi nhu cầu giải trí được gắn liền với từng nhu cầu lịch sử trong từng giai đoạn khác
nhau. Nhưng các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu giải trí của công nhân chưa được bất
kỳ tác giả nào đề cập đến, đặc biệt khách thể nghiên cứu là công nhân nhà trọ. Đây là

vấn đề khó và mới; tác giả đã và đang kế thừa, vận dụng các công trình có mục tiêu
nghiên cứu gần giống để tìm ra cái mới nhằm phục vụ cho luận văn của mình:
Về chủ đề này, trước hết cần đề cập là nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng
đến việc lựa chọn loại hình giải trí của người dân đô thị tại Thành phố Hồ Chí
Minh”(trường hợp Quận Gò Vấp),năm 2011 của tác giả Đồng Thị Hồng Nhạn. Với

3


phương pháp nghiên cứu định lượng, định tính và quan sát tác giả đã đánh giá được
sự nhận thức của người dân về vai trò của giải trí, theo đó khi mức sống được nâng
lên, nhu cầu của con người cũng phát triển theo, nó không chỉ dừng lại ở nhu cầu về
vật chất mà nhu cầu về tinh thần ngày càng nâng cao cả về mặt số lượng và chất
lượng. Nó trở thành nhu cầu không thể thiếu của mỗi người. Ngoài ra, tác giả cũng
cho chúng ta thấy được mức độ tham gia của người dân vào các hoạt động giải trí
trong thời gian nhàn rỗi. Tuy thời gian nhàn rỗi của người dân không nhiều nhưng
các hoạt động nghỉ ngơi, giải trí thì rất phong phú và đa dạng. Các loại hình giải trí
trong thời gian rỗi được người dân lựa chọn nhiều là cafe (28,8%), tham quan du
lịch (28,1%), mua sắm (25,5%). Đặc biệt trong nghiên cứu này thì đọc sách báo,
nghe nhạc, xem tivi; sinh hoạt đoàn thể, CLB và đi “vòng vòng” lối xóm cũng được
người dân lựa chọn khá nhiều. Kết quả nghiên cứu cho thấy nghề nghiệp, trình độ
học vấn, nhóm tuổi, giới tính và mức sống có ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn
loại hình giải trí của người dân. Đây là những yếu tố rất quan trọng giúp cho tôi bổ
sung về mặt lý thuyết cho đề tài, từ đó có thể thấy được các yếu tố trên ảnh hưởng
không nhỏ đến nhu cầu giải trí.
Nghiên cứu “Một số nhân tố tác động đến chất lượng cuộc sống đối với dân
cư thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay” của TS Hồ Bá Thâm trong Hội
thảo khoa học: chất lượng cuộc sống của người dân thành phố Hồ Chí Minh trong
bối cảnh kinh tế hiện nay (2012). Trong bài viết của mình, tác giả đưa ra 11 nhóm
nhân tố chung tác động đến chất lượng cuộc sống như: Việc làm, năng suất lao

động, thu nhập; phương tiện đi lại, hạ tầng giao thông; sức khỏe, dịch vụ chữa bệnh;
dịch vụ học tập, phương tiện học hành; nhà cửa, phương tiện phục vụ nghỉ ngơi, ăn
ngủ, vệ sinh; quan hệ tình cảm trong gia đình; không gian vui chơi giải trí, văn hóa
văn nghệ; thể chế, môi trường xã hội; đảm bảo an toàn thân thể và an ninh trong
cuộc sống; văn hóa sống của bản thân. Tác giả cho rằng những nhóm nhân tố nói
trên gắn liền với từng hoàn cảnh xã hội nhất định, ở từng thời kỳ khác nhau thì
những nhóm nhân tố trên có tác động đến chất lượng cuộc sống khác nhau. Thực
chất, chất lượng cuộc sống của công nhân nhà trọ không khác gì so với chất lượng

4


cuộc sống của dân cư thành phố Hồ Chí Minh. Vì công nhân nhà trọ là từ nơi khác
đến và họ sẽ có cuộc sống như ở đô thị. Do đó, tôi sẽ vận dụng một số nhân tố trong
bài viết này để nghiên cứu cho đề tài của mình.
Nghiên cứu “Mấy nhận xét về sự biến đổi nhu cầu giải trí của thanh niên Hà
Nội hiện nay” của tác giả Đinh Thị Vân Chi (Tạp chí xã hội học số 2-2001), tác giả
cho chúng ta thấy sự thay đổi nhu cầu giải trí của con người trong thời kỳ trước năm
1954 đến nay, cụ thể như: trước đây hình thức giải trí cá nhân chủ yếu là nghe đài,
đọc sách báo, giao tiếp với bạn bè, thời gian cuối có ti vi để xem và cassette để nghe
còn hình thức giải trí tập thể gồm các hoạt động thể thao và sinh hoạt văn hóa văn
nghệ, du lịch dã ngoại,.. Hiện nay, ngoài các hoạt động giải trí trước đây thì thanh
niên Hà Nội có thể ngồi tại nhà xem ti vi nước ngoài phát qua vệ tinh, chơi điện tử,
truy cập Internet, chơi game; ngoài ra các tụ điểm giải trí mở ra những hình thức
phong phú như từ cà phê tranh, cà phê nhạc tới câu cá, chèo thuyền, các trò chơi có
thưởng, v.v…Đồng thời, tác giả còn đưa ra các hình thức hoạt động giải trí được ưa
thích nhất hiện nay như: xem ti vi, nghe nhạc, chơi thể thao, đọc sách, giao tiếp với bạn
bè. Tóm lại, cùng với sự phát triển và phổ biến rộng rãi của các phương tiện kỹ thuật,
các hoạt động giải trí đơn giản trước đây đang được thay thế dần các hoạt động giải trí
đa dạng và phong phú hơn. Vấn đề chủ yếu trong bài viết này được tác giả đề cập đến

là nhu cầu giải trí của thanh niên bị ảnh hưởng bởi mức sống, thời gian rỗi, sở thích, thị
hiếu và quan niệm thẩm mỹ. Công nhân lao động tại các khu nhà trọ đa số là những
người trẻ tuổi, nên nhu cầu giải trí và hình thức giải trí của họ cũng có thể giống như
những thanh niên; và các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu giải trí được đề cập trong bài
viết này tôi có thể sử dụng để nghiên cứu cho đề tài của mình.
Nghiên cứu “Lối sống của công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất
hiện nay” của ThS Nguyễn Mạnh Thắng - Viện Công nhân và Công đoàn của Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam (Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2015). Trong nghiên
cứu của mình, tác giả đã đề cập về thực trạng lối sống của công nhân gồm lối sống
tích cực, lành mạnh và lối sống tiêu cực. Kết quả nghiên cứu cho thấy có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến công nhân có lối sống tiêu cực, trong đó phải kể đến nguyên

5


nhân chủ yếu như doanh nghiệp thiếu sự quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần
của công nhân; trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp chưa được quy định rõ
ràng; chưa quan tâm đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa gắn với xây dựng các
công trình, cơ sở hạ tầng tại các khu công nghiệp; phương thức tổ chức và hoạt
động văn hóa cho công nhân còn nghèo nàn, đơn điệu, chưa phù hợp với từng đối
tượng. Đây cũng chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu giải trí
của công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất nói chung và công nhân nhà trọ nói
riêng, tôi có thể đề cập đến các nguyên nhân trong bài viết của tác giả để vận dụng
cho nghiên cứu của mình.
Nghiên cứu về “Đời sống của công nhân nhập cư tại Thành phố Hồ Chí
Minh” (nghiên cứu tại khu công nghiệp Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, Thành
phố Hồ Chí Minh) của tác giả Nguyễn Tất Thành (2010). Với phương pháp nghiên
cứu định lượng là chủ yếu, tác giả nghiên cứu về đời sống, mức thu nhập của người
lao động tại khu công nghiệp; các nhân tố ảnh hưởng đến đời sống của người lao
động trong đó tác giả cho rằng yếu tố giới tính có ảnh hưởng đến thu nhập còn yếu

tố trình độ học vấn thì không ảnh hưởng. Đời sống của công nhân bao gồm đời sống
vật chất và đời sống tinh thần, tác giả Nguyễn Tất Thành cho rằng giới tính có ảnh
hưởng đến thu nhập thì ít nhiều cũng có ảnh hưởng đến đời sống tinh thần. Đây
cũng là vấn đề cần được vận dụng vào quá trình nghiên cứu của mình, từ đây sẽ tìm
ra cái mới cho đề tài của mình.
Nghiên cứu “Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay” của PGS.
TS Nguyễn Thị Quế và ThS Nguyễn Thị Tú Hoa - Viện quan hệ quốc tế, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (tạp chí Lý luận Chính trị số 6 2013). Trong bài viết, hai tác giả đã cho rằng “Trong thời kỳ đổi mới, giai cấp công
nhân Việt Nam ngày càng phát triển lớn mạnh về số lượng và chất lượng, đóng góp
to lớn vào sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới và hội nhập quốc tế, một loạt vấn đề bức thiết đang đặt ra đối với sự phát triển
của giai cấp công nhân, đòi hỏi phải có sự quan tâm nghiên cứu, từ đó đề xuất
những giải pháp sát thực để nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân”. Trong bài

6


viết, hai tác giả cũng có đề cập đến việc làm, thu nhập, nhà ở, điều kiện làm việc của
công nhân lao động, trong đó đời sống văn hóa của công nhân còn rất hạn chế, hầu hết
các khu chế xuất, công nghiệp chưa tạo điều kiện thuận lợi để đảm bảo việc sinh hoạt
văn hóa cho công nhân, trong đó thời gian là nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến sinh
hoạt văn hóa cho công nhân. Công nhân nhà trọ cũng có thể làm việc tại các khu công
nghiệp, nên tôi vận dụng thực trạng trên để nghiên cứu cho đề tài của mình.
Đề tài nghiên cứu “Nhu cầu giải trí trong thời gian nhàn rỗi của thanh niên
xã Xuân Thạnh huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai” của tác giả Lê Thị Hương Xuân
(2012). Với phương pháp nghiên cứu định tính, định lượng kết hợp quan sát, tác giả
đã nêu ra các hoạt động giải trí của thanh niên gồm hoạt động tại nhà (xem truyền
hình, nghe đài phát thanh, xem băng đĩa hình, đọc sách, báo, tạp chí, sử dụng
internet); các hoạt động giải trí ngoài xã hội (hoạt động thể dục thể thao, giao lưu
gặp gỡ bạn bè, tham gia các tổ chức xã hội), gắn với các hoạt động đó là các loại hình

mà thanh niên thích nhất và thường tham gia. Ngoài ra, tác giả còn nghiên cứu các yếu
tố ảnh hưởng đến mức độ sử dụng các loại hình giải trí của thanh niên đó là giới tính,
nhóm tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy trình độ học
vấn và nhóm tuổi có mức độ ảnh hưởng khá rõ nét. Kết quả nghiên cứu này tôi cũng có
thể kế thừa và phát huy trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn của mình.
Nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp xây dựng lối sống công nhân trong
điều kiện công nghiệp hóa”, phục vụ đề tài “Lối sống công nhân Việt Nam trong
điều kiện công nghiệp hóa”, mã số KX.03.15/11-15; chủ nhiệm đề tài PGS.TS Vũ
Quang Thọ - Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn, Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam - TP Hồ Chí Minh năm 2015. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã đề
cập đến nhiều vấn đề có liên quan đến công nhân lao động, trong đó đi vào phân
tích sâu về giải pháp xây dựng lối sống cho công nhân chú trọng giải pháp nâng cao
đời sống văn hóa, tinh thần cho công nhân hiện nay. Và tôi có thể kế thừa những cái
mới trong công trình nghiên cứu này để phục vụ cho quá trình nghiên cứu thực hiện
luận văn của mình.

7


Nhìn chung, tất cả các nghiên cứu trên đều đưa ra được một số nhóm yếu tố
ảnh hưởng đến nhu cầu giải trí của con người; theo đó ở từng thời kỳ lịch sử, từng
giai đoạn khác nhau thì các nhóm yếu tố đó sẽ ảnh đến nhu cầu giải trí của con
người khác nhau. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên đề cập đến những
yếu tố ảnh hưởng và giải pháp nhưng chỉ mang tính chung chung, có thể không phù
hợp cho từng đối tượng cụ thể. Ở luận văn này, chúng tôi có thể đưa ra được một số
yếu tố ảnh hưởng thường xuyên đến nhu cầu giải trí của công nhân đặc biệt là công
nhân nhà trọ; đồng thời đề xuất một số giải pháp cụ thể góp phần khắc phục hạn chế
từng bước đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công nhân nhà trọ hiện nay.
3. Mục đ ch v nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia các hoạt
động giải trí của công nhân nhà trọ. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần đáp
ứng nhu cầu giải trí của công nhân lao động tại các khu nhà trọ hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản của chủ đề nghiên cứu.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về hoạt động giải trí của công nhân nhà trọ.
- Tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giải trí của công nhân nhà trọ.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí của công nhân nhà trọ
hiện nay.
4. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu giải trí của công nhân nhà trọ.
4.2 Khách thể nghiên cứu
Công nhân nhà trọ tại huyện Bến Lức tỉnh Long An.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: nghiên cứu các khu nhà trọ tại địa bàn huyện Bến Lức
tỉnh Long An.
Phạm vi thời gian: 2 năm, từ năm 2014 đến năm 2015.

8


Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Bến Lức là một trong những huyện công nghiệp
của tỉnh Long An có nhiều khu nhà trọ cho công nhân ở; trong những năm gần đây
ngoài nhu cầu về đời sống vật chất, nhu cầu đời sống tinh thần của công nhân ngày
càng được nâng lên; theo nghiên cứu thực tế tại một số khu nhà trọ của huyện thì
các hình thức vui chơi giải trí của công nhân rất đơn điệu và sơ sài, đó là do rất
nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu giải trí của công nhân. Những yếu tố này chưa
được nghiên cứu một cách tỷ mỷ và khoa học. Vì thế, trong đề tài này tác giả tập
trung nghiên cứu và đặt giả thuyết về một số yếu tố thường xuyên ảnh hưởng đến

việc tham gia các hoạt động vui chơi giải trí của công nhân nhất.
5. Phƣơng pháp ngiên cứu của đề tài
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng và hình thức tham gia các hoạt động giải trí của công nhân nhà
trọ hiện nay thế nào ?
- Có sự khác biệt gì về trình độ, nhóm tuổi, giới tính, thu nhập, thời gian làm
việc của công nhân nhà trọ trong việc tham gia các hoạt động giải trí ?
- Những yếu tố nào ảnh hưởng đến nhu cầu giải trí của công nhân nhà trọ
hiện nay ?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Giả thuyết 1: Các hình thức vui chơi giải trí của công nhân nhà trọ huyện
Bến Lức còn nghèo nàn, chưa phong phú và đa dạng.
- Giả thuyết 2: Tùy vào sự khác nhau về nhóm tuổi, thu nhập, thời gian làm
việc, giới tính, trình độ học vấn thì công nhân sẽ tham gia vào các hoạt động vui
chơi giải trí khác nhau.
- Giả thuyết 3: Các yếu tố thời gian, thu nhập, giới tính, trình độ học vấn,
tình trạng hôn nhân và các mô hình giải trí tại chỗ có ảnh hưởng đến nhu cầu giải trí
của công nhân nhà trọ.

9


5.3. Phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu
5.3.1 Phương pháp
Đề tài được nghiên cứu từ hướng tiếp cận xã hội học. Do đó, tôi dùng
phương pháp luận của khoa học xã hội. Cụ thể:
- Phương pháp phân tích tài liệu: trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu đã được
sưu tầm liên quan đến lĩnh vực này, tác giả kế thừa và vận dụng những thông tin về
vấn đề nghiên cứu. Qua phân tích tài liệu, tác giả sẽ có nội dung đầy đủ hơn.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi (định lượng): đề tài sử dụng phương pháp

điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên với dung lượng mẫu là 210 CNLĐ. Phương pháp này
nhằm tìm ra những thông tin thực tế, khách quan và là những căn cứ cần thiết cho
những kết luận nghiên cứu khoa học.
- Phương pháp định tính: phỏng vấn sâu 12 trường hợp, trong đó có 8 công
nhân (bao gồm cả nam và nữ cũng như có tuổi đời và ngành nghề khác nhau) tại
khu nhà trọ và 4 người là chủ nhà trọ để khai thác các khía cạnh nội dung nghiên
cứu sâu sắc hơn giúp cho việc nắm bắt tình hình một cách thực tế và khách quan.
- Phương pháp quan sát: Phương pháp này hỗ trợ và làm sáng tỏ thêm những thông
tin đã được thu thập và là cơ sở ban đầu để đưa ra các giả thuyết và hướng nghiên cứu.
5.3.2 Xử lý thông tin
- Xử lý thông tin định lượng: dùng phần mềm tin học SPSS để xử lý thông
tin thu thập từ bảng câu hỏi, sau đó mã hóa số liệu và phân tích kết quả.
- Xử lý thông tin định tính: gỡ băng phỏng vấn và tổng hợp, sắp xếp theo các
khía cạnh nội dung nghiên cứu.
- Các thông tin quan sát và phân tích văn bản được tập hợp và phân tích,
phân loại.
6. Ý nghĩa lý luận v ý nghĩa thực tiễn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giải trí được tác giả nghiên cứu từ
hướng tiếp cận xã hội học. Kết quả nghiên cứu kết hợp vận dụng lý thuyết nhu cầu
của Maslow và lý thuyết sự lựa chọn hợp lý để phân tích cho chúng ta thấy được

10


thực trạng về hoạt động giải trí của công nhân nhà trọ và các yếu tố ảnh hưởng đến
hoạt động đó. Vì giải trí chính là nhu cầu khách quan của con người, là một trong
những nhân tố hình thành nên nhân cách của con người giúp con người phát triển
ngày càng toàn diện hơn. Cho nên tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giải
trí rất quan trọng, từ đó đề xuất những giải pháp góp phần khắc phục hạn chế nhằm

đáp ứng nhu cầu giải trí của CN ngày càng cao. Hi vọng rằng những kết quả nghiên
cứu sẽ làm phong phú thêm khía cạnh lý luận về hoạt động giải trí của CNLĐ khu
nhà trọ hiện nay; từ đó có những đóng góp nhất định cho các chuyên ngành Xã hội
học Văn hóa và Xã hội học Lao động.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
- Trong đề tài này, tác giả mong muốn đem lại cái nhìn khách quan và khoa
học hơn về những thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giải trí của
công nhân nhà trọ.
- Đồng thời nghiên cứu cũng đề xuất ra một số giải pháp giúp cơ quan hoạch
định chính sách và quản lý xã hội ở lĩnh vực này trong hoạt động của mình có
những chính sách phù hợp đáp ứng nhu cầu giải trí của công nhân. Bên cạnh đó, tổ
chức Công đoàn đề ra các chương trình, hoạt động giải trí phù hợp cho từng đối
tượng. Ngoài ra, có thể làm tư liệu tham khảo cho các chuyên gia nghiên cứu, giảng
dạy và những người quan tâm về vấn đề này.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận
Phần mở đầu
Phần nội dung gồm 3 chương
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
- Chương 2: Thực trạng nhu cầu giải trí của công nhân nhà trọ hiện nay.
- Chương 3: Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu giải trí của công nhân nhà
trọ và một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu giải trí cho công
nhân nhà trọ hiện nay.
Phần kết luận: kết luận, khuyến nghị.

11


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Thao tác hóa các khái niệm
- Nhu cầu
“Mọi hành vi của con người đều do sự thúc đẩy của những nhu cầu nào đó.
Nhu cầu thể hiện sự lệ thuộc của mỗi cơ thể sống vào môi trường bên ngoài, thể
hiện thành những ứng xử tìm kiếm khi cơ thể thiếu những điều kiện tồn tại và phát
triển. Thỏa mãn được nhu cầu, con người cảm thấy thích thú và hài lòng. Không
thỏa mãn được, con người cảm thấy bị hẫng hụt và có thể đi tới các hành vi chống
lại sự trở ngại” [34, tr. 221].
Theo từ điển tóm tắt xã hội học (tiếng Nga): “Nhu cầu là đòi hỏi điều gì đó
cần thiết để đảm bảo hoạt động sống của cơ thể, của nhân cách con người, của
nhóm xã hội hoặc toàn xã hội nói chung; là nguồn thôi thúc nội tại của hoạt động”.
Aristotle đã cho rằng con người có hai loại nhu cầu chính: thể xác và linh
hồn. Sự phân loại này mang tính ước lệ lớn nhưng nó ảnh hưởng đến tận thời nay và
người ta quen với việc phân nhu cầu thành “nhu cầu vật chất” và “nhu cầu tinh
thần”. Như vậy, nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần luôn tồn tại với nhau và đó
chính là những nhu cầu cơ bản của con người. Nhu cầu luôn gắn liền với sự phát
triển của xã hội khi mà xã hội phát triển càng cao thì nhu cầu của con người phát
triển càng cao. Hay nói một cách khác, nhu cầu của con người ngày càng phong phú
và đa dạng hơn, khi đáp ứng được nhu cầu này thì nhu cầu mới sẽ nảy sinh. Nhu
cầu mới nảy sinh tùy thuộc vào hoàn cảnh sống và sự hoàn thiện của cá nhân con
người. Do đó, tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống và những đặc điểm tâm
sinh lý mà con người có những nhu cầu khác nhau.
Như vậy, nhu cầu là những đòi hỏi điều gì cần thiết để đảm bảo cho sự phát
triển không ngừng của đời sống vật chất và đời sống tinh thần của cá nhân. Nhu cầu
chỉ được thể hiện và đáp ứng thông qua trình độ phát triển của xã hội.

12



- Giải trí
Theo từ điển xã hội học (chủ biên Nguyễn Khắc Viện, NXB Thế Giới, Hà
Nội 1994): Giải trí là một dạng hoạt động của con người, đáp ứng nhu cầu phát triển
của con người về các mặt thể chất, trí tuệ và mỹ học. Giải trí không chỉ là nhu cầu
của từng cá nhân, mà còn là nhu cầu của đời sống cộng đồng.
Theo tác giả Đinh Thị Vân Chi trong “Nhu cầu giải trí của thanh niên” NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003: Giải trí là hoạt động thẩm mỹ trong thời gian rỗi,
nhằm giải tỏa căng thẳng trí não, tạo sự hứng thú cho con người và là điều kiện phát
triển con người một cách toàn diện về trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ.
Như vậy, giải trí không gắn liền với nhu cầu sinh học, nên con người có
quyền lựa chọn bất cứ hoạt động giải trí nào cho phù hợp và trong khuôn khổ chuẩn
mực của xã hội. Hình thức giải trí tùy thuộc vào sở thích của từng cá nhân. Giải trí
là hoạt động hoàn toàn tự do, đem lại sự vui thích cho cá nhân và nó giúp phát triển
cá tính của con người.
Chúng ta nói giải trí là những hoạt động diễn ra trong thời gian nhàn rỗi,
không phải bất kể hoạt động nào diễn ra trong thời gian nhàn rỗi cũng là giải trí.
Giải trí là những hoạt động diễn ra trong khuôn khổ được xã hội cho phép, nó mang
tính chuẩn mực và được mọi người chấp nhận. Ví dụ như các hoạt động vui chơi
nói chung, nó đem lại cho con người cảm giác thư thái, thoải mái, vui vẻ về mặt thể
chất cũng như tinh thần. Do đó, chúng ta cũng cần phân biệt giải trí lành mạnh và
giải trí không lành mạnh.
Giải trí lành mạnh những hoạt động trong thời gian rỗi nhằm mục đích thư
giãn, nghỉ ngơi, lấy lại trạng thái cân bằng cho con người sau những giờ làm việc
vất vả. Các hoạt động giải trí lành mạnh là: nghe nhạc, xem phim, đọc sách báo,
tham gia các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao,… Hoạt động giải trí lành mạnh
đem lại hiệu quả cao giúp cho con người phát triển về thể chất và tinh thần, trong đó
người lao động tái tạo lại sức lao động tốt hơn.
Giải trí không lành mạnh được hiểu là những hoạt động vui chơi trái với quy
tắc đạo đức của xã hội, vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống


13


của người tham gia cũng như sức khỏe của người xung quanh. Các hoạt động đó
phải kể đến là: uống rượu, cờ bạc, đua xe, cá độ bóng đá,…
Như vậy, đối với con người nói chung trong đó có công nhân nhà trọ thì khoảng
cách giữa giải trí lành mạnh và giải trí không lành mạnh rất gần nhau thậm chí là không
phân biệt được. Do đó, để chọn các hoạt động giải trí lành mạnh để tham gia thì công
nhân cần phải có kiến thức cần thiết, sự hiểu biết để lựa chọn các hình thức giải trí lành
mạnh, tránh sa ngã vào những hình thức giải trí không lành mạnh.
- Nhu cầu giải trí
Nhu cầu giải trí được xem như là nhu cầu nghỉ ngơi về thể chất và tinh thần,
không bị bức bách bởi nhu cầu sinh tồn, không bị chi phối bởi nhu cầu vật chất; đây
là hoạt động duy nhất không gắn với nhu cầu sinh học nào.
Theo tác giả Đoàn Văn Chúc có bốn dạng hoạt động mà con người phải thực
hiện đó là [10, tr. 224, 225]:
Thứ nhất, hoạt động lao động sản xuất để đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của các cá nhân và của cả xã hội. Đó là nghĩa vụ xã hội của mỗi người.
Thứ hai, hoạt động thuộc các quan hệ cá nhân trong xã hội như chăm sóc con
cái, chăm sóc gia đình, thăm viếng họ hàng, bạn bè,… Đó là nghĩa vụ cá nhân của
mỗi người.
Thứ ba, hoạt động thuộc đời sống vật chất của con người như nấu nướng, ăn
uống nghỉ ngơi, vệ sinh cá nhân… Đó là hoạt động thỏa mãn nhu cầu vật chất của
mỗi người.
Thứ tư, hoạt động thuộc đời sống tinh thần của mỗi cá nhân như thưởng thức
nghệ thuật, chơi các trò chơi, sinh hoạt tôn giáo,… Đó là hoạt động thỏa mãn nhu
cầu tinh thần của mỗi người.
Như vậy, giải trí là hoạt động cuối cùng trong bốn hoạt động trên. Nó mang
tính chất tự do hơn hoạt động còn lại. Vì không gắn với nhu cầu sinh học nào nên
nó không mang tính cưỡng bức, con người có quyền tự do lựa chọn theo sở thích,

trong khuôn khổ hệ chuẩn mực của xã hội. Nó chuyển từ hoạt động nghĩa vụ, bổn
phận sang những hoạt động tự nguyện. Nó đồng thời là những hoạt động không

14


mang tính vụ lợi nhằm mục đích giải tỏa sự căng thẳng tinh thần để đạt tới sự thư
giãn, thanh thản trong tâm hồn và cao hơn, đó là sự rung cảm về thẩm mỹ (Đinh Thị
Vân Chi, Nhu cầu giải trí của thanh niên, NXB Sự thật, 2003).
Giải trí cũng là nhu cầu của con người vì nó đáp ứng những đòi hỏi bức thiết
từ phía cá nhân. Nhu cầu giải trí là động cơ của hoạt động giải trí. Khi xuất hiện nhu
cầu giải trí, con người bị thôi thúc hành động để thỏa mãn nhu cầu đó. Nhu cầu giải
trí thuộc các bậc cao của thang nhu cầu con người do không gắn liền với sự tồn tại sinh
học mà là sự vươn cao, nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, tự hoàn thiện và tự khẳng
định mình. Nhu cầu giải trí cũng là một bộ phận quan trọng cấu thành các nhu cầu tinh
thần (Đinh Thị Vân Chi, Nhu cầu giải trí của thanh niên, NXB Sự thật, 2003).
- Thời gian rỗi
Thời gian rỗi không phải là toàn bộ thời gian ngoài công việc. Nó chỉ là phần
thời gian còn lại của mỗi con người sau khi đã hoàn thành 3 nhiệm vụ: nghĩa vụ xã
hội (lao động nghiệp vụ), nghĩa vụ gia đình và thỏa mãn nhu cầu vật chất cá nhân.
Từ điển tóm tắt Xã hội học (tiếng Nga), thời gian rỗi được coi là khái niệm
đồng nghĩa với thời gian tự do, nghĩa là “phần thời gian ngoài giờ lao động của cá
nhân (nhóm xã hội) còn lại sau khi đã trừ đi chi phí thời gian cho những hoạt động
cần thiết không thể thiếu” [19,tr. 299]
Theo tác giả Đinh Thị Vân Chi trong “Nhu cầu giải trí của thanh niên”- NXB
Chính trị Quốc gia - Hà Nội năm 2003 thì: Thời gian rỗi là khoảng thời gian mà
trong đó con người không bị thúc bách bởi các nhu cầu sinh tồn, không bị chi phối
bởi bất cứ nghĩa vụ khách quan nào. Nó được dành cho các hoạt động tự nguyện,
theo sở thích của chủ thể nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người.
Theo Đoàn Văn Chúc, thời gian rỗi có nhiều cấp độ khác nhau [10,tr. 239]:

- Thời gian rỗi cấp ngày: nghỉ giữa buổi lao động và sau ngày lao động.
- Thời gian rỗi cấp tuần: chỉ những ngày nghỉ cuối tuần.
- Thời gian rỗi cấp năm: chỉ những ngày nghỉ cuối năm.
- Thời gian rỗi cấp đời người: khoảng thời gian nghỉ ngơi sau cả đời lao động
vất vả.

15


Thời gian rỗi với các cấp độ khác nhau cho phép con người thực hiện những
hoạt động giải trí khác nhau.
Như vậy, khái niệm thời gian rỗi trong nghiên cứu này được hiểu đó là
khoảng thời gian dành cho nghỉ ngơi, giải trí của các cá nhân có được sau khoảng
thời gian làm việc tạo ra thu nhập cho gia đình. Trong khoảng thời gian rỗi này, các
cá nhân có quyền lựa chọn các hình thức giải trí phù hợp với bản thân và gia đình
nhằm thỏa mãn nhu cầu về mặt tinh thần.
- Công nhân
Công nhân là những người hiện đang làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp ở
các đô thị, các trung tâm công nghiệp.
Công nhân cũng có thể hiểu là người lao động; theo Bộ Luật Lao động sửa
đổi năm 2012 thì: Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao
động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều
hành của người sử dụng lao động.
Theo đại từ điển Việt Nam Nguyễn Như Ý (chủ biên) NXB Văn hóa - Thông
tin 1999: công nhân là những người lao động chân tay làm việc ăn lương trong các
nhà máy, công xưởng, xí nghiệp [36, tr.457].
Công nhân là những người sản xuất ra của cải vật chất trong lĩnh vực công
nghiệp. Công nhân lúc đầu là người lao động trong các ngành nghề xây dựng,
truyền thống trước đây coi là không có tay nghề lao động chân tay. Hiện nay với
trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, thì công nhân ngày càng có tay

nghề cao, họ làm việc với máy móc hỗ trợ tích cực, sản phẩm của họ làm ra gắn liền
với sự phát triển của xã hội.
- Nhà trọ
Nhà trọ hay còn gọi là nhà lưu trú, là cơ sở được xây dựng nhằm mục đích
cho thuê và được nhà nước cấp giấy phép kinh doanh.
Hiện nay, tại các khu, cụm công nghiệp nhà trọ “mọc” lên rất nhiều, những
nhà trọ này đa số công nhân làm việc tại các công ty gần đó thuê ở; một số nơi nhà
trọ được cải tạo thành nhiều phòng và cho nhiều người thuê hình thành nên những

16


dãy phòng trọ hay một khu nhà trọ. Trung bình giá mỗi phòng trọ dao động từ
400.000 đồng đến 600.000 đồng/phòng/tháng, diện tích phòng từ 8 - 20m2.
1.1.2 Hướng tiếp cận lý thuyết
- Hướng tiếp cận dựa theo lý thuyết nhu cầu của Maslow
Theo Maslow, về căn bản, nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm
chính: nhu cầu cơ bản (basic needs) và nhu cầu bậc cao (meta needs)
Nhu cầu cơ bản liên quan đến các yếu tố thể lý của con người như mong
muốn có đủ thức ăn, nước uống, được ngủ nghỉ... Những nhu cầu cơ bản này đều là
các nhu cầu không thể thiếu hụt vì nếu con người không được đáp ứng đủ những
nhu cầu này, họ sẽ không tồn tại được nên họ sẽ đấu tranh để có được và tồn tại
trong cuộc sống hàng ngày.
Các nhu cầu cao hơn nhu cầu cơ bản trên được gọi là nhu cầu bậc cao.
Những nhu cầu này bao gồm nhiều nhân tố tinh thần như sự đòi hỏi công bằng, an
tâm, an toàn, vui vẻ, địa vị xã hội, sự tôn trọng, vinh danh với một cá nhân,…
Các nhu cầu cơ bản thường được ưu tiên chú ý trước so với những nhu cầu
bậc cao này. Với một người bất kỳ, nếu thiếu ăn, thiếu uống... họ sẽ không quan tâm
đến các nhu cầu về vẻ đẹp, sự tôn trọng, ...
Có thể nói nhu cầu vừa mang tính sinh học (đáp ứng đòi hỏi sự phát triển

sinh học của con người) vừa mang tính xã hội (được đáp ứng nhờ nền sản xuất xã
hội) bị quy định bởi văn hóa cộng đồng.
Cấu trúc của Tháp nhu cầu có 5 tầng, trong đó, những nhu cầu con người
được liệt kê theo một trật tự thứ bậc hình tháp kiểu kim tự tháp.
Những nhu cầu cơ bản ở phía đáy tháp phải được thỏa mãn trước khi nghĩ
đến các nhu cầu cao hơn. Các nhu cầu bậc cao sẽ nảy sinh và mong muốn được thỏa
mãn ngày càng mãnh liệt khi tất cả các nhu cầu cơ bản ở dưới (phía đáy tháp) đã
được đáp ứng đầy đủ.
Năm tầng trong Tháp nhu cầu của Maslow
- Tầng thứ nhất: Các nhu cầu về căn bản nhất thuộc "thể lý" (physiological) thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi.

17


- Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn (safety) - cần có cảm giác yên tâm về an toàn
thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
- Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc
(love/belonging) - muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình
yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy.
- Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, kính mến (esteem) - cần có cảm giác
được tôn trọng, kính mến, được tin tưởng.
- Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân (self-actualization) - muốn
sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và
được công nhận là thành đạt.

Nhu cầu tự
hoàn thiện
Nhu cầu uy tín

Nhu cầu xã hội


Nhu cầu an toàn

Nhu cầu sinh học
Tháp nhu cầu của Maslow
Theo nấc thang nhu cầu của Maslow, thì nhu cầu giải trí nằm ở nấc thang thứ
ba, đó là nhu cầu xã hội. Nhu cầu giải trí thuộc lĩnh vực của nhu cầu văn hóa, nhu
cầu tinh thần gồm giao tiếp, thưởng thức, vui chơi, giải trí. Qua nấc thang trên,
chúng ta thấy nhu cầu thấp nhất, cơ bản nhất là nhu cầu sinh học như: ăn, mặc, ở, đi
18


lại, …; nhu cầu cao nhất là nhu cầu tự hoàn thiện là nhu cầu tự thể hiện và tự khẳng
định mình. Trong khi đó, nhu cầu của con người phải được đáp ứng lần lượt từ thấp
đến cao nghĩa là từ nấc thang thứ nhất đến nấc thang thứ năm của Maslow. Như
vậy, khi nhu cầu sinh học được đáp ứng thì con người mới có mong muốn được
thỏa mãn về mặt tinh thần.
Vận dụng vào đề tài nghiên cứu, khi công nhân lao động được đảm bảo cuộc
sống về ăn, mặc, ở, đi lại (nhu cầu sinh học) đến lúc đó họ sẽ có mong muốn các nhu
cầu cao hơn như nhu cầu được an toàn, nhu cầu xã hội cũng có thể là các nhu cầu cao
hơn nữa. Theo thuyết nhu cầu của Maslow, chúng ta có thể thấy hiện nay về mặt nào
đó, công nhân nhà trọ đa số đảm bảo tối thiểu được ăn mặc, ở,… và họ đang tiến dần
lên các nhu cầu cao hơn trong đó nhu cầu giải trí của họ ngày càng cao.
- Hướng tiếp cận dựa theo lý thuyết lựa chọn hợp lý
Friedman và Hechter đã đưa lý thuyết lựa chọn hợp lý với mục đích là các
chủ thể. Cả hai tác giả không quan tâm đến tính chất sở thích hay là cơ sở tạo ra sự
mong muốn (nhu cầu) của chủ thể mà chủ yếu quan tâm đến sự lựa chọn của chủ
thể phù hợp với hệ thống sở thích của họ. Nghĩa là không quan tâm đến cái mà chủ
thể mong muốn mà chỉ quan tâm đến cách mà chủ thể sử dụng để đạt đến mục đích
cuối cùng và kết quả đạt được có phù hợp với mong muốn chủ thể hay không.

Friedman và Hechter cho rằng đối với chủ thể thì không có nhiều sự lựa chọn
hay cơ may có sẵn bởi trên thực tế không có nhiều cơ may cho các trường hợp. Như
vậy, bắt buộc họ phải có sự lựa chọn sao cho phù hợp với nhu cầu hay sở thích cơ
bản, cần thiết nhất và đạt đến mục đích cuối cùng. Nhưng trong khi đó, chủ thể
cũng luôn có xu hướng tính đến lợi ích kế tiếp của họ nên hai ông đã đặt vấn đề
trong sự lựa chọn của chủ thể có xét đến chi phí với cái mà anh ta đạt được, có tính
đến khả năng thực hiện của bản thân. Nếu chủ thể nhận thức mục đích với giá trị
cao nhất không phù hợp với khả năng hiện tại của bản thân thì anh ta dễ dàng lựa
chọn một phương án khác phù hợp với khả năng của anh ta hơn.
Công nhân nhà trọ có vô vàng hình thức được xem là giải trí trong thời gian
nhàn rỗi từ ở nhà xem ti vi đến tán gẫu hay ra ngoài cùng bạn bè. Nhưng so với điều

19


×