Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

DƯƠNG SƠN TÙNG

THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN
TỈNH HƯNG YÊN
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
tôi, có sự hỗ trợ từ giáo viên hướng dẫn là TS. Phạm Mạnh
Hùng. Các nội dung nghiên cứu, số liệu, kết quả và các trích
dẫn trong luận văn đảm bảo tin cậy, chính xác, trung thực và
chưa từng được công bố. Nếu phát hiện có bất kì gian lận
nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng.
Hà Nội, ngày


tháng 5 năm 2017

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Dương Sơn Tùng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP VỀ ÁN
TREO VÀ THI HÀNH ÁN TREO .......................................................................... 6
1.1. Khái niệm án treo và thi hành án treo .................................................................. 6
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về án treo và thi hành án treo. ................ 10
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THI
HÀNH ÁN TREO VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN TREO TẠI TÌNH
HƯNG YÊN ............................................................................................................. 16
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án treo ....................................... 16
2.2. Thực tiễn thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Hưng Yên ..................................... 32
Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ CÁC
GIẢI PHÁP KHÁC NÂNG CAO HIỂU QUẢ THI HÀNH ÁN TREO ............ 47
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về án treo................................. 47
3.2. Những giải pháp khác nâng cao hiệu quả thi hành án treo. ............................... 52
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 63


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
T
Trang

Bảng 2.1: Số lượng các bị cáo được hưởng án treo trên địa bàn
tỉnh Hưng Yên từ năm 2011 đến năm 2016……………………..………

3
34

Biểu đồ 2.2: So sánh tình hình áp dụng án treo giữa các năm từ
năm 2011 đến năm 2016…………………………………………………

3
35


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

ĐKTT

: Điều kiện thử thách

HĐXX

: Hội đồng xét xử

LTHAHS : Luật thi hành án hình sự
UBND


: Ủy ban nhân dân

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TGTT

: Thời gian thử thách


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bộ luật hình sự nước ta đã quy định một hệ thống
hình phạt và các biện pháp khác có tính chất hình sự rất phong phú và đa dạng để
áp dụng đối với người phạm tội. Một trong những biện pháp được áp dụng nhiều
trong thực tiễn là án treo.
Án treo là một chế định pháp lý hình sự, liên quan đến chấp hành hình
phạt. Việc áp dụng chế định này có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chính
sách nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội. Án treo không phải là hình
phạt mà chỉ là biện pháp “Miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”. Có thể nói
việc Tòa án cho bị cáo được hưởng án treo là “tạm thời”, nếu trong thời gian thử
thách người được hưởng án treo phạm tội mới thì phải chấp hành hình phạt tù, nếu
hết thời gian thử thách mà người bị được hưởng án treo không phạm tội mới nữa
thì người được hưởng án treo không buộc phải chấp hành hình phạt tù.
Chế định án treo là sự thể chế hóa chủ trương, chính sách hình sự nhân
đạo của Đảng và Nhà nước ta. Mục đích của việc áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội là giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo

pháp luật và các quy tắc của chủ nghĩa xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới, có
nghĩa là hoàn trả cho xã hội con người đã trở lên vô hại, không còn nguy cơ tái
phạm. Trong một số trường hợp, sẽ có hiệu quả cao hơn mà không cần bắt người
phạm tội phải chấp hành hình phạt. Tuy nhiên, để vận hành tốt chế định án treo,
ngày 17/6/2010, Quốc Hội khóa XII đã thông qua Luật thi hành án hình sự mới và
có hiệu lực thi hành vào ngày 01/7/2011 [17]. Đây là một bước tiến lớn trong
công tác thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo nói riêng, đã đạt được
nhiều thành tích đáng kể cũng như phát huy được hiệu quả trong thực tiễn áp
dụng.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành án treo đối với người phạm tội chưa đạt
được kết quả mong muốn. Tại địa bàn tỉnh Hưng Yên, việc thi hành án treo đã đạt
được nhiều hiệu quả tích cực. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và gặp
1


những khó khăn, vướng mắc. Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Hưng Yên
ngày càng tăng, cùng với đó việc cho người phạm tội được hưởng án treo cũng
tăng theo. Hiện nay số người phạm tội được hưởng án treo là tương đối lớn. Tuy
nhiên việc thi hành, giám sát, giáo dục đối với người được hưởng án treo ở một số
nơi còn chưa chặt chẽ. Việc phối hợp giữa Tòa án với cơ quan thực hiện giám sát,
giáo dục và gia đình người được hưởng án treo nhiều nơi còn lỏng lẻo, mang tính
hình thức, chưa thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình theo pháp luật,
dẫn tới việc quản lý, giám sát, giáo dục chưa hiệu quả, làm cho việc thi hành án
treo không đạt được mục đích.
Chính vì thế, việc nghiên cứu một cách sâu rộng và toàn diện về việc thi
hành án treo tại địa bàn tỉnh Hưng Yên là cần thiết, góp phần nâng cao, hoàn thiện
để việc thi hành án treo đạt được hiệu quả cao. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài:
“Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên” làm luận văn thạc sĩ luật học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Việc áp dụng án treo và thi hành án treo mang đậm tính nhân đạo của Nhà
nước. Ở nước ta, vấn đề này đã có nhiều công trình nghiên cứu về án treo và thi
hành án treo. Nghiên cứu chế định án treo được đề cập trong một số cuốn sách,
như giáo trình Luật hình sự của Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình
luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội. Một số cuốn sách
chuyên khảo như “Án treo trong Luật hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Thị
Học, Trường Đại học Luật Hà Nội, xuất bản năm 1996, “Chế định án treo trong
Luật hình sự Việt Nam” của tác giả Lê Văn Luật do Nhà xuất bản Tư pháp ấn
hành năm 2007…
Một số luận văn đã nghiên cứu về chế định án treo như: “Án treo trong
Luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hữu Nhuận; “Án treo và thực tiễn áp
dụng tại địa bàn tỉnh Hải Dương” của tác giả Phạm Thanh Phương năm 2014;
“Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
của tác giả Lê Văn Luật năm 2005 cũng phân tích sâu về việc thi hành án treo.

2


Một số bài viết được đăng trên trang website hoặc một số tạp chí như Tòa
án nhân dân, Tạp chí Luật học, Tạp chí Kiểm sát cụ thể như sau:
- Một số suy nghĩ về chế định án treo, Tạp chí Tòa án nhân dân số
01/1991, của tác giả Nguyễn Khắc Công.
- Sự cần thiết của việc áp dụng án treo đối với người phạm tội, Tạp chí
Tòa án nhân dân số 6/1994, của tác giả Lê Văn Dũng.
- Một số suy nghĩ về Nghị định 61/2000/NĐ-CP về thi hành hình phạt tù
cho hưởng án treo, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/2001 của tác giả Phạm Bá Thát.
- Nhân thân người phạm tội và việc áp dụng biện pháp án treo, Tạp chí
Tòa án nhân dân số 6/1990, của tác giả Vũ Thế Đoàn.
- Một số vấn đề về tổng hợp hình phạt trong trường hợp người được
hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách, Tạp chí Kiểm sát, số

03/2005 của tác giả Lê Văn Luật.
- Án treo và thực tiễn áp dụng, Tạp chí Tòa án nhân dân số 7/2007 của tác
giả Đỗ Văn Chỉnh.
- Điều kiện thử thách của án treo và hậu quả pháp lý của việc vi phạm
điều kiện thử thách của án treo theo luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học số
2/1999, của tác giả Phạm Thị Học.
- Chế định án treo và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt nam,
Tạp chí Tòa án nhân dân số 02/2005, của tác giả Lê Cảm.
- Một số vấn đề về tổng hợp hình phạt tù với án treo, Tạp chí Tòa án nhân
dân tối cao, số 2/2012 của tác giả Đinh Văn Quế.
Các cuốn giáo trình, các công trình nghiên cứu và các bài viết nêu trên đã
phần nào làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn án treo trong luật hình sự Việt
Nam. Một số công trình nghiên cứu đã phân tích rõ những kết quả đạt được và
hạn chế trong quá trình vận hành pháp luật thi hành án đối với người được hưởng
án treo tại một số địa phương. Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào
dưới góc độ chuyên sâu lý giải những kết quả đạt được và nguyên nhân ảnh
hưởng đến chất lượng thực hiện pháp luật đối với người được hưởng án treo trên
địa bàn tỉnh Hưng Yên.
3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn “Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên”
nhằm làm sáng tỏ hơn cả về mặt lý luận và mặt thực tiễn của việc thi hành án treo,
đánh giá thực trạng thi hành án treo tại tỉnh Hưng Yên, những kết quả và hạn chế
của việc thi hành án treo. Qua đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả
thi hành án treo, đảm bảo phát huy hiệu quả việc thi hành án treo trong thực tiễn
tại địa bàn tỉnh Hưng Yên.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn

Luận văn có nhiệm vụ phân tích, làm rõ các khái niệm, vai trò, tính chất
và ý nghĩa của án treo và thi hành án treo; trình tự thủ tục thi hành án treo; quyền
và nghĩa vụ của người bị kết án; quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có
liên quan đến việc thi hành.
Luận văn phân tích những kết quả và hạn chế trong thực trạng thi hành án
treo tại tỉnh Hưng Yên từ năm 2011 đến năm 2016, nguyên nhân và những giải
pháp nâng cao hiệu quả thi hành án treo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thi hành án treo từ thực tiễn
tỉnh Hưng Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu kết quả việc thi hành án treo ở tỉnh
Hưng Yên từ năm 2011 đến năm 2016.
- Về không gian: Luận văn được nghiên cứu, khảo sát trên địa bàn của
tỉnh Hưng Yên.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về công tác thi hành án và chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020.
4


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên các phương pháp như: Phân tích, so
sánh, tổng hợp, khảo sát thực tiễn.
Để có được số liệu về thực tiễn thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên, tác giả đã nghiên cứu hồ sơ tài liệu tại Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân và cơ quan chịu trách nhiệm giám sát, quản lý và giáo dục người bị kết án ở

tỉnh Hưng Yên. Trên cơ sở đó thực hiện phân tích, tổng hợp và so sánh để làm rõ
thực tiễn thi hành án treo tại Hưng Yên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là đề tài đầu tiên tại địa bàn tỉnh Hưng Yên đề cập đến vấn đề thi
hành án treo. Luận văn sẽ là một tư liệu tham khảo có giá trị trong việc xây dựng
pháp luật Việt Nam, tìm ra giải pháp để khắc phục những khiếm khuyết trong
thực tiễn thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, từ đó góp phần vào công
cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì Luận văn
gồm 03 chương là:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp về án treo và thi
hành án treo
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thi hành án
treo và thực tiễn thi hành án treo tại tỉnh Hưng Yên
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật và các giải pháp khác
nâng cao hiệu quả thi hành án treo.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP
VỀ ÁN TREO VÀ THI HÀNH ÁN TREO
1.1. Khái niệm án treo và thi hành án treo
1.1.1. Khái niệm án treo
Án treo là một chế định ra đời từ rất sớm. Trên thế giới mỗi quốc gia đều
có những quy định khác nhau về chế định này. Ví dụ như ở Pháp, Bỉ và một số
nước khác coi án treo là việc hoãn hoặc miễn chấp hành hình phạt.
Từ các quy định pháp luật về án treo của các Bộ luật hình sự của nước ta

từ trước cho đến nay đều không có quy định nào nêu ra khái niệm của án treo.
Tuy nhiên, Cơ quan có thẩm quyền của nước ta đã ban hành một số văn bản giải
thích về án treo. Cụ thể:
- Tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS
năm 1985 quy định [20]: “Theo Điều 44 Bộ luật hình sự thì án treo là một biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Tức là căn cứ vào nhân thân của
người bị kết án và những tình tiết giảm nhẹ, Tòa án sẽ miễn cho người bị kết án
không phải chấp hành hình phạt tù nếu trong thời gian thử thách người đó không
phạm tội mới. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải quyết định thời gian
phạt tù đúng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo rồi mới cho hưởng án
treo chứ không được nâng cao thời hạn tù án treo vì cho đó là hình phạt nhẹ, và
phải tuyên rành rọt là bị cáo bị phạt mấy năm tù nhưng cho hưởng án treo, chứ
không được tuyên là mấy năm tù án treo.
Án treo chỉ là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cho nên
không phải là một hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Vì vậy, sự giải thích trước đây
của Tòa án nhân dân tối cao coi án treo là hình phạt nhẹ hơn (trong bản hướng dẫn
về thủ tục xét xử về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC ngày 02-10-1974 và

6


trong Lời tổng kết hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án nhân dân năm 1976)
không còn phù hợp với Bộ luật hình sự.”
- Tại Nghị quyết số 01-HĐTP ngày 18/10/1990, của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS
năm 1985 quy định [21]: “Án treo là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện,
được áp dụng đối với người bị phạt tù không quá 5 năm, căn cứ vào nhân thân và
các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần phải bất chấp hành hình phạt tù.”
- Tại Điều 1 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng Điều 60
BLHS về án treo quy định [23]: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt
tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá
3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét
thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù.”
Như vậy, quan điểm thống nhất hiện nay đều coi án treo là biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều kiện đó là người được
hưởng án treo chỉ được miễn chấp hành hình phạt nếu trong thời gian thử thách,
người bị kết án không phạm tội mới. Nếu vi phạm điều kiện trên, người bị kết án
sẽ phải chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo nữa.
Việc cho người phạm tội được hưởng án treo không chỉ thể hiện tính nhân
đạo, khoan hồng trong chính sách pháp luật hình sự của nước ta mà án treo còn
thể hiện được tính công bằng, tính giáo dục, phòng ngừa cao. Nó thể hiện rõ
phương châm trừng trị kết hợp với cải tạo giáo dục trong chính sách pháp luật
hình sự của nước ta. Việc thi hành án nhưng cho người phạm tội được tự do của
chế định án treo giúp giảm thiểu các yếu tố như chi phí, nhân lực, cơ sở vật chất
so với tội phạm bị giam giữ. Tuy nhiên nếu Tòa án áp dụng án treo quá linh hoạt
hoặc quá lạm dụng thì nó không phát huy được tính giáo dục, phòng ngừa tội
phạm.

7


Người phạm tội được hưởng án treo không phải chấp hành hình phạt tù
trong trại giam, họ vẫn được làm ăn sinh sống trong cộng đồng xã hội tuy nhiên
trong thời gian thử thách, người phạm tội bị hạn chế một phần quyền tự do của
mình đã được quy định cụ thể trong luật định. Cụ thể, người đó phải chịu sự giám
sát, quản lý của cơ quan nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi
người đó thường trú, nếu như người phạm tội vi phạm điệu kiện đã được ấn định
trong thời gian thử thách thì họ phải chịu hình phạt tù mà Tòa án đã tuyên trong

bản án còn nếu họ không vi phạm điều kiện được ấn định trong thời gian thử
thách thì họ sẽ không phải chấp hành hình phạt tù mà Tòa án đã tuyên trong bản
án. Như vậy, bản chất pháp lý của án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình
phạt tù có điều kiện, điều kiện đó là trong thời gian thử thách, người bị kết án
không phạm tội mới. Nếu vi phạm điều kiện trên, người bị kết án sẽ phải chấp
hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo nữa.
Án treo có những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Án treo là một chế định pháp lý độc lập thể hiện tính nhân đạo, tính giáo
dục cao của pháp luật hình sự nhà nước ta. Nó là một biện pháp tác động có tính
chất giáo dục giúp người phạm tội tự cải tạo bản thân, không những thế nó còn
góp phần xã hội hóa giáo dục người phạm tội.
- Án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được
chấp hành hình phạt đối với người được hưởng án treo là trong thời gian thử
thách, người bị kết án không phạm tội mới.
- Người được hưởng án treo phải chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan, tổ
chức, người có thẩm quyền nơi người đó làm việc hoặc tại chính quyền địa
phương nơi người đó cư trú trong thời gian thử thách do Tòa án quyết định.
1.1.2. Khái niệm thi hành án treo
Hiện nay, có rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm thi hành án. Tuy
nhiên, tựu chung lại thì có hai quan điểm cơ bản như sau:

8


- Quan điểm thứ nhất : Thi hành án là một giai đoạn của tố tụng vì có xét
xử thì phải có thi hành án cho nên thi hành án dựa trên cơ sở của công tác xét xử.
Do đó hoạt động thi hành án gắn liền với hoạt động xét xử, dựa trên kết quả xét
xử của Tòa án, cụ thể nó là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử.
- Quan điển thứ hai: Thi hành án là hoạt động hành chính – Tư pháp.
Theo quan điểm này thì quá trình tố tụng trải qua nhiều giai đoạn khác nhau

nhưng các giai đoạn đó lại có sự liên quan mật thiết với nhau trong thể thống nhất
và xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng cho nên bản án, Quyết định
của Tòa án là kết quả cuối cùng đánh dấu sự kết thúc của quá trình tố tụng. Sau đó
để thực hiện các phán quyết của Tòa án trên thực tế, cơ quan thi hành án phải phối
hợp với các cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương để thực hiện đưa bản án,
quyết định của Tòa án ra thi hành. Như vậy có thể coi thi hành án là hoạt động
hành chính – tư pháp.
Theo tác giả, để có thể xác định chính xác nhất về khái niệm thi hành án
thì cần phải tìm hiểu những đặc trưng cơ bản nhất của thi hành án để từ đó đưa ra
những nhận định chính xác nhất về thi hành án. Thi hành án có những đặc trưng
cơ bản sau đây:
- Thi hành án là quá trình diễn ra sau quá trình xét xử của Tòa án. Không
có kết quả của hoạt động xét xử thì cũng không có hoạt động thi hành án cho nên
thi hành án dựa trên kết quả xét xử của Tòa án.
- Thi hành án là hoạt động có tính chấp hành. Thi hành án phải hoạt động
trong khuôn khổ của pháp luật, phải tuân thủ những quy định rất chặt chẽ do pháp
luật quy định.
- Trong thi hành án, cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền áp
dụng phương pháp giáo dục, thuyết phục phải kết hợp với phương pháp mệnh
lệnh, bắt buộc. Điều này có ý nghĩa tác động trực tiếp đến đối tượng thi hành án
để họ tự giác thi hành hoặc dùng các biện pháp buộc họ phải thực hiện những
nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án.

9


Từ những nhận định trên, có thể hiểu: Thi hành án là việc của cơ quan, tổ
chức, người có thẩm quyền trong thi hành bản án, quyết định của Tòa án đưa bản
án, quyết định của Tòa án ra thi hành trên thực tế nhằm bảo đảm hiệu lực của bản
án, quyết định đó.

Từ việc phân tích vấn đề án treo và thi hành án, có thể đưa ra khái niệm
thi hành án treo như sau: Thi hành án treo là việc cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền theo quy định của luật thi hành án hình sự áp dụng các biện pháp giám sát,
giáo dục có tính chất cưỡng chế đối với người bị kết án đã được Tòa án tuyên phạt
tù nhưng cho hưởng án treo trong thời gian thử thách nhằm bảo đảm hiệu lực của
án treo.
Ở nước ta hiện nay, án treo là một chế định thật sự cần thiết, nó phần nào
giúp nhà nước giải quyết được các vấn đề nêu trên như giảm tải được gánh nặng
của những người áp dụng hình phạt tù lên nhà nước, không chỉ có tính răn đe mà
còn có tính cải tạo, giáo dục người phạm tội. Hơn nữa nó vẫn đảm bảo được tính
nhân đạo, khoan hồng của pháp luật nước ta.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về án treo và thi hành án treo.
1.2.1 Giai đoạn từ sau cách mạng tháng 8 đến trước khi ban hành Bộ luật hình
sự năm 1985
Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời, chế định án treo được quy
định lần đầu tiên trong Sắc lệnh số 33C của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt
Nam dân chủ cộng hòa ban hành ngày 13/9/1945. Trong Sắc lệnh số 33C có nêu
rõ quy định về án treo: “Nếu có những lý do chính đáng khoan hồng vì ít tuổi, vì
biết hối quá, vì lầm lẫn, v.v..., thì toà án có thể cho tội nhân được hưởng án treo.
Nghĩa là bản án làm tội tuyên lên, nhưng không thi hành; nếu trong năm năm bắt
đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị Toà án quân sự làm tội một lần nữa về
việc mới thì bản án đã tuyên sẽ huỷ đi, coi như là không có; nếu trong hạn năm
năm ấy, tội nhân bị kết án một lần nữa trước Toà án quân sự thì bản án treo sẽ
đem thi hành” [15].

10


Sau Sắc lệnh số 33C thì ngày 14/02/1946 Sắc lệnh số 21/SL của Chủ
tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành để thay thế sắc lệnh số 33C [14].

Tại Điều 10 sắc lệnh số 21/SL này quy định về án treo và thi hành án treo như
sau: “Khi phạt tù, Tòa án có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những
lý do đáng khoan hồng, bản án xử treo sẽ tạm đình chỉ việc thi hành nếu trong 5
năm bắt đầu từ ngày tuyên, tội nhân không bị Tòa án quân sự làm tội một lần
nữa về tội mới thì bản án đã tuyên sẽ bị hủy đi, coi như không có. Nếu trong 5
năm ấy tội nhân bị kết án một lần nữa trước một Tòa án quân sự thì bản án sẽ
đem thi hành” [14].
Sắc lệnh số 21/SL ban hành quy định về án treo có một số thay đổi về
nội dung và câu chữ so với Sắc lệnh số 33C. Tại Sắc lệnh số 33C quy định “Toà
án có thể cho tội nhân được hưởng án treo, nghĩa là bản án làm tội tuyên lên,
nhưng không thi hành”. Nhưng trong Sắc lệnh số 21/SL, pháp luật quy định “Khi
phạt tù, Tòa án có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng
khoan hồng, bản án xử treo sẽ tạm đình chỉ việc thi hành…”. Như vậy, thay đổi
này đã cho thấy sự rõ ràng hơn, nghĩa là bản án tuyên đối với người được hưởng
án treo không phải là “không khi hành” mà là “tạm đình chỉ việc thi hành”.
Ngoài ra, các nội dung trong quy định về án treo tại hai Sắc lệnh này đều tương
đối giống nhau.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1999
Cùng với sự phát triển của xã hội, để đáp ứng những yêu cầu mới thì Luật
hình sự cũng được hoàn thiện. Đánh dấu sự hình thành và phát triển của hệ thống
pháp luật Việt Nam, ngày 01/01/1986 Bộ luật hình sự đầu tiên của Việt Nam
chính thức có hiệu lực. Theo quy định mới thì án treo và thi hành án treo được
quy định tại Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985. Cụ thể Điều 44 quy định như sau:
“1. Khi xử phạt tù không quá 05 năm, căn cứ vào thân nhân của người
phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét không cần phải bắt chấp hành hình

11



phạt tù, thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm
đến 05 năm.
2. Toà án giao người bị án treo cho cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội
nơi người đó làm việc hoặc thường trú để theo dõi, giáo dục.
3. Người bị án treo có thể phải chịu thêm một số hình phạt bổ sung như
phạt tiền, cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất
định quy định ở Điều 23 và Điều 28.
4. Nếu người bị án treo đã chấp hành được một nửa thời gian thử thách và
có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm theo dõi,
giáo dục, Toà án có thể rút ngắn thời gian thử thách.
5. Nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới và bị xử
phạt tù thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và
tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42.”
Ngày 21/12/1999, Bộ luật hình sự mới được thông qua và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2000. Tại bộ luật này, án treo được quy định tại Điều 60 cụ thể
như sau:
“1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người
phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành
hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một
năm đến năm năm.
2. Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho
cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người
đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm
phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo
dục người đó.
3. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt
tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo
quy định tại Điều 30 và Điều 36 của Bộ luật này.
12



4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian
thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm
giám sát và giáo dục, Toà án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử
thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và
tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật này.”
Quy định về án treo tại Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn giữ được 05 khoản
như Bộ luật năm 1985 nhưng đã được sửa đổi và bổ sung cho chính xác hơn về
mặt ngữ nghĩa. Như thay đổi cụm từ “theo dõi” thành “giám sát”, “người bị án
treo” thành “người được hưởng án treo”, riêng Khoản 5 luật cũ được sửa đổi như
sau: Bãi bỏ cụm từ “người bị án treo phạm tội mới và bị phạt tù hoặc phạm tội
mới do cố ý” thành “đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong
thời gian thử thách”.
Sau đó ngày 01/10/2007, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
đã hướng dẫn thực hiện Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 về án treo tại Nghị
quyết số 01/2007/NQ-HĐTP. Nghị quyết này quy định cụ thể hơn về các điều
kiện cho người bị xử phạt tù được hưởng án treo; hướng dẫn tính thời điểm bắt
đầu thời gian thử thách là ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo; hướng dẫn ấn
định thời gian thử thách; quy định rõ hơn về các điều kiện rút ngắn thời gian thử
thách và mức rút ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án treo; hướng
dẫn xác định cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm giám sát, giáo dục người được
hưởng án treo; hướng dẫn giải quyết trường hợp người được hưởng án treo phạm
tội mới trong thời gian thử thách; ngoài ra Nghị quyết này đã bổ sung quy định
trong trường hợp người được hưởng án treo trước đó bị tạm giam, quy định như
sau: “Đối với người bị xử phạt tù đã bị tạm giam thì chỉ cho hưởng án treo khi
thời gian đã bị tạm giam ngắn hơn thời hạn phạt tù”. Nghị quyết số 01/2007/NQHĐTP sau khi được ban hành đã giúp cho các cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền thực hiện thi hành án treo đạt được hiệu quả cao hơn, giải quyết được
những vướng mắc gặp phải trước đó.
13



Ngày 06/11/2013, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có Nghị
Quyết số 01/2013/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999. Tại Nghị quyết này đã có
nhiều thay đổi và bổ sung so với Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP. Cụ thể Nghị
quyết số 01/2013/HĐTP thay đổi, bổ sung về những điều kiện để cho người phạm
tội được hưởng án treo như ở Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP quy định điều
kiện để người phạm tội được hưởng án treo là bị xử phạt tù không quá ba năm,
không phân biệt về tội gì còn Nghị quyết số 01/2013-HĐTP quy định chỉ cho
người được hưởng án treo khi họ bị xử phạt tù không quá 3 năm về tội ít nghiêm
trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng theo phân loại tội phạm quy định
tại khoản 3 Điều 8 của Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết này bổ sung thêm
quy định về những trường hợp không cho hưởng án treo và đưa ra những lưu ý
cần thiết khi xem xét, quyết định cho người bị kết án được hưởng án treo; Ngoài
ra Nghị quyết bổ thêm sung những quy định mới về tổng hợp hình phạt khi người
được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách và bổ sung quy đinh
về trường hợp người được hưởng án treo bị đưa ra xét xử về một tội phạm khác
thực hiện trước khi được hưởng án treo tại Điều 7 Nghị quyết số 01/2013/NQHĐTP như sau: “Trường hợp một người đang được hưởng án treo mà sau đó lại
phát hiện trước khi được hưởng án treo họ đã thực hiện một tội phạm khác, thì
Tòa án xét xử, quyết định hình phạt đối với tội phạm đó và không cho hưởng án
treo một lần nữa. Người phạm tội đồng thời phải chấp hành hai bản án. Việc thi
hành án trong trường hợp này do các cơ quan được giao trách nhiệm thi hành án
hình sự phối hợp thực hiện theo quy định tại Điều 5 của Luật thi hành án hình sự.”
Trải qua hơn 15 năm Bộ luật hình sự năm 1999 ban hành và có hiệu lực,
để đáp ứng với điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta ngày càng phát triển, để bắt
kịp với thời đại và phù hợp với điều kiện hiện nay, Bộ luật hình sự năm 2015 đã
được ban hành, nhằm đáp ứng được yêu cầu phòng, chống tội phạm tại Việt Nam.
Tại Bộ luật này, án treo được quy định tại Điều 65 [9]. Nếu so với Điều 60 BLHS


14


năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì chế định về án treo quy định tại Điều
65 BLHS năm 2015 có nội dung đầy đủ, bao quát hơn.

Kết luận chương 1
Án treo là một chế định pháp lý, là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù
có điều kiện do Tòa án áp dụng đối với người bị kết án. Chế định án treo ra đời và
phát triển cùng với sự phát triển của luật hình sự Việt Nam từ những ngày đầu
thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân. Trải qua quá trình sửa đổi, bổ sung, chế
định án treo được quy định mới nhất và cụ thể nhất hiện nay tại Điều 65 Bộ luật
hình sự năm 2015 và Điều 61 đến Điều 70 của Luật thi hành án hình sự năm 2010.
Hoạt động thực hiện pháp luật là quá trình đưa pháp luật vào đời sống, áp dụng
những quy định trong văn bản vào hiện thực, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh
của những bản án mà Tòa án tuyên. Thực hiện tốt pháp luật thi hành án nói chung
và thi hành án đối với người được hưởng án treo nói riêng giúp cho người phạm
tội có cơ hội cải tạo, trở thành người có ích và đồng thời là kênh tuyên truyền,
giáo dục pháp luật. Để thực hiện tốt được những quy định pháp luật của chế định
án treo cần hiểu rõ bản chất và ý nghĩa của án treo. Chương 1 của Luận văn đã
phân tích một cách khái quát về án treo trong luật hình sự Việt Nam, bao gồm:
Khái niệm án treo, khái niệm thi hành án treo, lịch sử lập pháp của Việt Nam về
án treo và thi hành án treo qua từng giai đoạn, từ sau cách mạng tháng 8 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 và sau khi có Bộ luật hình sự năm 1985
đến trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999.

15


Chương 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
THI HÀNH ÁN TREO VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN TREO
TẠI TỈNH HƯNG YÊN
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án treo
2.1.1. Quyết định thi hành án treo và thủ tục thi hành án treo
Thứ nhất, về thẩm quyền, nội dung quyết định thi hành án treo và thủ tục
của quyết định thi hành án treo:
Trong hoạt động thi hành án treo, Tòa án có nhiệm vụ ra quyết định thi
hành án treo. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 61 Luật thi hành án hình sự năm
2010, quyết định thi hành án phải ghi rõ họ tên người ra quyết định; bản án, quyết
định được thi hành; tên cơ quan có nhiệm vụ thi hành;họ tên, ngày, tháng, năm
sinh, nơi cư trú của người được hưởng án treo; hình phạt bổ sung; Ủy ban nhân
dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án
treo. Trong thời hạn 03 ngày làm việc , kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Tòa
án phải gửi quyết định đó cho: Người được hưởng án treo, Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp, Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hay cấp quân khu nơi
người đó cư trú hay làm việc, Sở tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án
có trụ sở.
Tòa án phải gửi quyết định thi hành án cho người được hưởng án treo để
đảm bảo quyền lợi hợp pháp của họ và để người đó nắm bắt được các hình phạt
mình phải chịu để thực hiện theo quyết định đó. Tòa án gửi quyết định thi hành án
treo cho Cơ quan thi hành án hình sự để bắt đầu thực hiện các thủ tục, trình tự thi
hành quyết định thi hành án của người được hưởng án treo. Sau khi nhận được
quyết định thi hành án của Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền
phải triệu tập người được hưởng án treo và làm các thủ tục cần thiết trong thi hành
quyết định thi hành án treo. Song song, Tòa án phải gửi quyết định đó cho Viện

16



kiểm sát để Viện kiểm sát nắm bắt được tình hình và kiểm sát quyết định thi hành
án có đúng quy định của pháp luật hay không, đồng thời Viện kiểm sát thực hiện
trách nhiệm của mình trong việc kiểm sát thi hành án của người được hưởng án
treo. Còn về Sở tư pháp nơi Tòa án ra quyết định thi hành án có trụ sở, Tòa án gửi
quyết định cho Sở tư pháp để Sở tư pháp thực hiện tốt chức năng theo dõi thi hành
pháp luật của mình và xử lý, tiếp nhận thông tin lý lịch tư pháp của người được
hưởng án treo.
Thứ hai, về thẩm quyền và trình tự, thủ tục thi hành quyết định thi hành
án treo
Sau khi Tòa án ra quyết định thi hành án treo thì trong thời hạn 03 ngày
làm việc Tòa án phải gửi quyết định đó cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp huyện hay Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi người đó cư trú, làm
việc; người được hưởng án treo; Viện kiểm sát cùng cấp; Sở tư pháp nơi Tòa án ra
quyết định thi hành án có trụ sở theo đúng quy định tại Khoản 2 Điều 61 Luật thi
hành án hình sự. Việc thi hành quyết định thi hành án treo này được quy định tại
Điều 62 Luật thi hành án hình sự năm 2010.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định thi
hành án, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình
sự cấp quân khu có nhiệm vụ triệu tập người được hưởng án treo, người đại diện
hợp pháp của người được hưởng án treo là người chưa thành niên đến trụ sở cơ
quan thi hành án để ấn định thời gian cho người được hưởng án treo phải có mặt
tại Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội nơi người đó cư trú, làm việc và cam
kết việc chấp hành án, lập hồ sơ thi hành án. Về Hồ sơ thi hành án treo được quy
định rõ trong Khoản 1 Điều 62 Luật thi hành án hình sự bao gồm: Bản án đã có
hiệu lực pháp luật; Quyết định thi hành án treo; Cam kết của người được hưởng
án treo, đối với người được hưởng án treo là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi thì bản cam kết của người đó phải có sự xác nhận của người đại
diện hợp pháp và các tài liệu khác có liên quan đến việc thi hành án treo.

17



Tiếp đó, trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày triệu tập người được hưởng án
treo, người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo thì cơ quan thi hành
án hình sự công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phải giao
hồ sơ thi hành án cho Uỷ ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao nhiệm
vụ giám sát, giáo dục người được hưởng án treo theo đúng quy định của pháp luật.
Sau đó, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ tiếp
nhận hồ sơ thi hành án và phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người
được hưởng án treo. Trong quá trình thi hành án treo, Ủy ban nhân dân cấp xã,
đơn vị quân đội, người trực tiếp được giao giám sát, giáo dục người được hưởng
án treo phải thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo đúng quy định của
luật thi hành án hình sự năm 2010.
Đối với người được hưởng án treo, trong thời gian thử thách người đó
phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình được quy định tại Điều 64 Luật thi
hành án hình sự năm 2010. Trong thời gian thử thách, cứ ba tháng một lần người
đó phải nộp bản tự nhận xét của mình về việc chấp hành pháp luật cho người được
phân công trực tiếp giám sát mình để người giám sát, giáo dục bổ sung vào hồ sơ
thi hành án treo.
Trước khi hết thời gian thử thách 3 ngày, Uỷ ban nhân dân cấp xã, đơn vị
quân đội được giao giám sát, giáo dục bàn giao hồ sơ thi hành án cho cơ quan thi
hành án hình sự công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để
xem xét và cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách. Giấy
chứng nhận phải gửi cho người được hưởng án treo, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn
vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, tòa án đã ra quyết định thi hành án, Sở
Tư pháp nơi tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc thi hành án treo.
Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Trong hoạt động kiểm sát thi hành án đối với người bị kết án phạt tù cho
hưởng án treo, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo

pháp luật của Tòa án nhân dân, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan trong việc thi
18


hành án treo nhằm đảm bảo các bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp
luật, đầy đủ, kịp thời theo quy định tại Điều 141 luật thi hành án hình sự năm
2010 và Điều 25, 26 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Khi thực
hiện nhiệm vụ trong thi hành án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền:
- Yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới ra quyết định thi hành
án treo đúng quy định pháp luật, hoặc Tòa án tự kiểm tra việc thi hành án treo và
thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát nhân dân; yêu cầu Tòa án cung cấp
hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án treo.
- Trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án treo
của cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan và
việc giải quyết kháng cáo, khiếu nại, tố cáo đối với việc thi hành án treo;
- Tham gia việc xét giảm thời gian thử thách của án treo, xóa án tích;
- Kháng nghị với tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp
dưới, cơ quan, tổ chức, đơn vị có vi phạm trong việc thi hành án treo, yêu cầu
chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật trong thi hành án nếu có.
2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền
trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo
Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú,
đơn vị quân đội nơi người đó làm việc được quy định tại Điều 63 Luật Thi hành
án hình sự năm 2010 như sau:
“1. Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người được
hưởng án treo có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Tiếp nhận hồ sơ, tổ chức giám sát, giáo dục người được hưởng án treo;
b) Phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án
treo;
c) Yêu cầu người được hưởng án treo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của

mình; có biện pháp giáo dục, phòng ngừa khi người đó có dấu hiệu vi phạm pháp
luật;
d) Biểu dương người được hưởng án treo có nhiều tiến bộ hoặc lập công;
19


đ) Giải quyết cho người được hưởng án treo được vắng mặt ở nơi cư trú
theo quy định của Luật này và pháp luật về cư trú;
e) Phối hợp với gia đình và cơ quan, tổ chức nơi người được hưởng án
treo làm việc, học tập trong việc giám sát, giáo dục người đó;
g) Lập hồ sơ đề nghị xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách gửi cơ
quan có thẩm quyền đề nghị quy định tại khoản 1 Điều 66 của Luật này;
h) Nhận xét bằng văn bản và lưu vào sổ theo dõi về quá trình chấp hành
án của người được hưởng án treo khi người đó chuyển đi nơi khác;
i) Thực hiện thống kê, báo cáo cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền
về kết quả thi hành án;
k) Xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với người được hưởng án treo theo
quy định của pháp luật;
l) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án treo theo quy định của Luật
này.
2. Trưởng Công an cấp xã có nhiệm vụ tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân
cấp xã tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án có
nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các Điểm a, b, c, d, đ, e, g, h và i Khoản 1 Điều
này.”
Với những nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người
đó cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc được quy định tại Điều 63 Luật
thi hành án hình sự, đã giúp cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội tăng
cường hiệu quả công tác giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Với những

nhiệm vụ, quyền hạn trên, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội sẽ bảo đảm
cho Quyết định thi hành án của Tòa án được thi hành trên thực tế một cách chính
xác nhất. Trong quá trình thi hành Quyết định thi hành án treo, Ủy ban nhân dân,

20


×