Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn quận long biên – thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ HỒNG VÂN

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ HỒNG VÂN

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số

: 60.38.01.04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ

Hà Nội, năm 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LẬP PHÁP VỀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ............ 6
1.1 Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội ..................................................................................................... 6
1.2 Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội.................................................................................. 31
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
LONG BIÊN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................... 37
2.1. Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. ................................................... 37
2.2 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội từ
thực tiễn quận Long Biên – Thành phố Hà Nội .............................................. 48
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN LONG BIÊN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................... 61
3.1 Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự ............................................... 62
3.2. Các giải pháp khác .................................................................................... 65

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 72


LI CAM OAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

TC GI LUN VN

Hong Th Hng Võn


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ Luật hình sự

TAND

: Tòa án nhân dân

NCTN

: Người chưa thành niên.


HĐXX

: Hội đồng xét xử

TNHS

: Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Kết quả xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên phạm tội
tính từ tháng 10 năm 2011 đến hết tháng 9 năm 2016 (đơn vị: số bị cáo). ……...50
Bảng 3.2: Thống kê các loại tội đã xét xử có bị cáo là người chưa thành niên tính
từ tháng 10 năm 2011 đến hết tháng 9 năm 2016………………………………. 52


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tuổi trẻ là tương lai của đất nước, là nhân tố quan trọng trong việc phát
triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Tuy nhiên, trong những năm gần đây,
tình hình tội phạm ở nước ta có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp,
đặc biệt là tội phạm do NCTN thực hiện. Số vụ, số đối tượng là NCTN phạm
tội hàng năm có xu hướng tăng lên. Thành phần đối tượng, lĩnh vực phạm tội
ngày càng đa dạng hơn, tính chất hành vi phạm tội và hậu quả gây ra ngày
càng nguy hiểm, nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của NCTN không còn đơn
giản chỉ do bồng bột, thiếu suy nghĩ mà đã có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng
và khá tinh vi, thậm chí đã hình thành các băng nhóm tội phạm có tổ chức.
Hậu quả của vấn đề là vô cùng lớn và gây nên nhiều lo lắng trong xã hội.
Xuất phát từ đặc điểm về tâm lý, giới tính, lứa tuổi của NCTN: Đó là
những người chưa thật sự trưởng thành, chưa phát triển đầy đủ về tâm, sinh

lý; khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ còn nhiều hạn chế. Họ dễ
bị kích động, dụ dỗ vào việc thực hiện tội phạm, nhưng cũng dễ uốn nắn, cải
tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội. Do đó pháp luật hình sự đã có
những quy định riêng đối với người chưa thành niên phạm tội để xử lý phù
hợp đối với đối tượng này.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với việc giải quyết tội phạm
nói chung và tội phạm do người chưa thành niên thực hiện chính là tìm ra mọi
giải pháp nhằm làm giảm bớt những hoạt động phạm pháp, không để những
việc sai trái ấy xảy ra chứ không chỉ đơn thuần là xử một vụ án hay trừng phạt
một tội phạm nào đó. Phải đưa ra những phương pháp nhằm tìm kiếm nguyên
nhân, điều kiện để căn cứ vào đó có những giải pháp thích hợp nhằm giảm bớt
tình trạng người chưa thành niên phạm tội.

1


Có thể khẳng định, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội
phạm do NCTN thực hiện nói riêng không phải là nhiệm vụ của riêng cá nhân,
cơ quan, tổ chức nào mà là nhiệm vụ chung của Nhà nước và toàn thể xã hội.
Phòng ngừa, ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội phải huy động được lực
lượng đông đảo toàn xã hội tham gia, phải phát động được sức mạnh tổng hợp
của các chủ thể, triệt để khai thác và đẩy mạnh quan hệ phối hợp giữa các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội.
Mặc dù đường lối xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
đã được quy định rõ ràng trong chương X của Bộ luật hình sự 1999 cũng như
trong các bộ luật hình sự trước đây, nhưng việc quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội trong thực tiễn cho thấy do chưa được nhận thức
một cách khách quan, thấu đáo nên vẫn còn nhiều sai sót. Nhằm đưa ra một cái
nhìn toàn diện, đúng đắn của việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác xét xử, đặc

biệt là quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, với lý do đó
học viên xin lựa chọn đề tài “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Long Biên –
Thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay có rất nhiều các công trình khoa học đã nghiên cứu về vấn đề
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, đáng chú ý là:
Luận văn Thạc sỹ của Thạc sỹ Nguyễn Thị Hương về: “Quyết định hình phạt
đối với người chưa thành niên phạm tội”, Luận án Tiến sỹ của Tiến sỹ Hoàng
Minh Đức về: “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở
Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ của Thạc sỹ Trần Đức Ninh về:
“Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội qua thực tiễn
xét xử tại Tòa án quân sự thủ đô Hà Nội”…
2


Các bài viết, công trình nghiên cứu trên đã phân tích, giải quyết và làm rõ
được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội trong tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi Bộ
Luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời vẫn chưa có nghiên cứu nào về áp dụng
hình phạt của từng địa phương, đặc biệt là trên địa bàn quận Long Biên – Thành
phố Hà Nội. Do hầu hết các công trình trên đều đề cập và nghiên cứu vấn đề trước khi Bộ luật ra đời nên việc đánh giá tình hình chưa có cơ sở thực tiễn. Trong
khi đó, vấn đề xét xử án hình sự đối với những vụ án mà có bị cáo là người chưa
thành niên là một trong những vấn đề hết sức quan trọng. Bởi ngoài việc quyết
định hình phạt một cách tương xứng với hành vi phạm tội, đủ sức răn đe và
phòng ngừa tội phạm thì việc quyết định hình phạt còn phải nêu cao tính chất
giáo dục họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển nhận thức lành mạnh và tạo điều kiện để
người chưa thành niên sớm hòa nhập được xã hội sau khi thi hành hình phạt.
Do đó, việc nghiên cứu vấn đề quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội trên địa bàn này là hết sức có ý nghĩa, đáp ứng tốt

yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và công cuộc cải cách tư pháp của
quận Long Biên nói riêng và Thành phố Hà Nội nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn và đánh giá thực trạng của việc
quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn quận
Long Biên Làm để làm rõ những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội, thực trạng quy định pháp luật cũng như thực
tiễn hoạt động tố tụng, làm sáng tỏ những hạn chế và đưa ra giải pháp, kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả của việc quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội,
vừa đủ tính răn đe, vừa thể hiện sự nhân đạo của pháp luật hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3


Thứ nhất, xây dựng các khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa để làm rõ những
lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội.
Thứ hai, phân tích các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành và so
sánh với Bộ luật hình sự năm 2015 về các vấn đề liên quan đến quyết định
hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội.
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng quyết đinh hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân quận
Long Biên – Thành phố Hà Nội.
Thứ tư, phân tích đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên
nhân, vướng mắc trong việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội. Rút ra nguyên nhân của những hạn chế yếu kém từ đó làm cơ
sở cho việc nêu lên những giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc
quyết định hình phạt, những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự và tăng cường hiệu quả trong việc quyết định hình phạt
đối với NCTN phạm tội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của việc quyết
định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội trong phạm vi địa bàn quận Long Biên - thành phố Hà Nội giai đoạn từ
năm 2011 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
4


nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học xã hội và khoa học pháp lý cụ thể phù hợp với yêu
cầu của từng vấn đề nghiên cứu như: phương pháp phân tích tài liệu, nghiên
cứu lịch sử, tổng hợp, so sánh, thống kê tư pháp…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Tăng cường nhận thức đúng đắn của những người tiến hành tố tụng,
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và các cá nhân khác
(đặc biệt là trên địa bàn thành phố Hà Nội) về bản chất, căn cứ, nguyên tắc, ý
nghĩa của việc quy định và áp dụng các quy định về quyết định hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quyết định hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong tố tụng hình sự, góp phần
nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng,
trong đó có cơ quan xét xử tại quận Long Biên – Thành phố Hà Nội.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Danh
mục bảng, Luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội.
Chương 2: Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 3: Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội từ thực tiễn quận Long Biên – Thành phố Hà Nội.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LẬP PHÁP VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.1 Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội
1.1.1 Cơ sở thực tiễn
1.1.1.1 Khái niệm người chưa thành niên
Theo pháp luật quốc tế, cụ thể là Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ
em năm 1989 quy định : “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy
định tuổi thành niên sớm hơn” [5] . Bên cạnh đó, Quy tắc Bắc Kinh do Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/12/1990 cũng là một văn bản
pháp luật quốc tế đề cập “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi” [1].
Ngoài ra còn nhiều văn bản quốc tế khác cũng có quy định hoặc đề cập rằng
“ Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”.
Tuy nhiên Ở mỗi quốc gia trên thế giới, tùy thuộc vào sự phát triển
kinh tế - xã hội, lịch sử lập pháp, truyền thống và các yếu tố về tâm – sinh lý

của con người mà có những quy định về độ tuổi chưa thành niên khác nhau.
Ví dụ như Úc, Ấn Độ, Philippines, Brazil, Croatia và Colombia, người chưa
thành niên được xác định là dưới 18 tuổi. Trong khi đó Nhật Bản, Đài
Loan, Thái Lan và Hàn Quốc quy định người chưa thành niên là người dưới
20 tuổi.
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định một cách
thống nhất trong hệ thống pháp luật, từ Hiến Pháp cho đến các Bộ luật như:
Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân
sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật

6


khác. Tất cả các văn bản pháp luật này đều quy định tuổi của người chưa
thành niên là dưới 18 tuổi.
Điều 21 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định: “ Người chưa thành niên
là người chưa đủ 18 tuổi” [24]
Điều 161 Bộ luật lao động quy định: “Người lao động chưa thành niên
là người chưa đủ 18 tuổi” [25]
Đặc trưng cơ bản của nhóm người chưa thành niên biểu hiện trước hết
ở những biến đổi thường xuyên, liên tục của ba mặt cơ bản: thể chất – tâm lý,
tình cảm, nhận thức – hành vi. Ở nhóm tuổi này, họ có sự thay đổi mạnh mẽ
về mặt thể chất, là giai đoạn chuyển biến từ một đứa trẻ để trở thành người
lớn khỏe mạnh. Đây cũng là giai đoạn thay đổi nhanh chóng nhất về mặt tâm
lý, tình cảm, nhận thức. Các nhà tâm lý học đều đã nghiên cứu nhiều về sự đa
dạng và phức tạp trong tình cảm, tâm lý cũng như nội tâm bên trong của
người chưa thành niên. Họ muốn khẳng định, muốn thể hiện bản thân, muốn
gây sự chú ý của người khác đến bản thân họ. Có thể nói, đây là giai đoạn có
nhiều biến động nhất trong quá trình phát triển về mặt tâm – sinh lý, lối sống
cũng như nhân cách của mỗi người.

Ở vào độ tuổi chưa thành niên, người ta dễ dàng hành động mà không
cần có sự cân nhắc, tính toán chín chắn. Người chưa thành niên có thể là
những người vị tha, độ lượng, có thể hy sinh thân mình để làm những điều tốt
đẹp. Bên cạnh đó, họ cũng là người dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những
hành vi xấu như cờ bạc, trộm cắp, đánh nhau mà không nhận biết được để khi
trưởng thành lại khó để từ bỏ những thói quen, những tệ nạn xấu này.
Như vậy có thể khái quát lại: Người chưa thành niên là những người
dưới 18 tuổi, chưa phát triển đầy đủ và hoàn thiện về thể chất – tâm sinh lý,
chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ
của công dân.
7


1.1.1.2 Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
Không phải từ khi sinh ra con người đã có năng lực TNHS. Như vậy
năng lực TNHS chỉ hình thành khi con người đã đạt đến một đổ tuổi nhất định
và năng lực đó sẽ tiếp tục hoàn thiện và phát triển trong những giai đoạn tiếp
theo của cuộc đời con người. Khi đạt đến độ tuổi đó, con người nói chung sẽ
có năng lực TNHS, trừ một số trường hợp đặc biệt (bị mắc bênh tâm thần
hoặc các bệnh khác làm rối loạn tâm thần).
Luật hình sự của các nước dựa trên cơ sở kết quả các công trình nghiên
cứu, khảo sát về tâm lý cũng như căn cứ vào chính sách hình sự của mình mà
quy định tuổi bắt đầu có năng lực TNHS và tuổi có năng lực TNHS đầy đủ.
Pháp luật hình sự Việt Nam có quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm” [22]
Như vậy, Nhà nước ta đã xác định trong Bộ luật hình sự từ đủ 14 đến
dưới 16 tuổi là tuổi bắt đầu có năng lực TNHS và từ đủ 16 tuổi trở lên là tuổi
có năng lực TNHS đầy đủ. Chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi trở

lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự, người chưa thành niên chưa đủ 14 tuổi
không phải chịu trách nhiệm hình sự (được miễn trách nhiệm hình sự). Điều
này được giải thích bởi lý do: Người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển
một cách đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành
vi của mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có
lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi không có
lỗi sẽ không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm
hình sự. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi được coi là người chưa có năng
lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự

8


về một số loại tội phạm có tính nguy hiểm lớn cho xã hội. Quy định này thể
hiện chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước.
1.1.2 Cơ sở lý luận
1.1.2.1 Lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
Khái niệm
Quyết định hình phạt là một trong các khái niệm cơ bản và quan trọng
của Luật hình sự Việt Nam. Đây là một trong những khái niệm thể hiện tập
trung bản chất giai cấp và chính sách hình sự của Nhà nước ta. Trong lịch sử
pháp luật Việt Nam, ban đầu người ta gọi khái niệm quyết định hình phạt với
thuật ngữ “Lượng hình”. Sau khi Bộ Luật hình sự năm 1985 ban hành và có
hiệu lực, thuật ngữ “Lượng hình” được thay thế bằng thuật ngữ “Quyết định
hình phạt” và thuật ngữ này được sử dụng cho đến nay.
Mặc dù là một khái niệm quan trong nhưng cho tới nay vẫn chưa có
một văn bản nào quy định khái niệm về Quyết định hình phạt. Khái niệm này
chỉ được nghiên cứu dưới góc độ là một khái niệm khoa học luật hình sự mà
chưa được quy định trong hệ thống văn bản pháp lý hình sự có tính chất chính
thống.

Một số người nhận thức quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn
loại hình phạt cụ thể (bao gồm cả hình phạt chính và có thể có thể cả hình
phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho
người phạm tội. Thời gian gần đây, khái niệm quyết định hình phạt này mở
rộng còn bao gồm các hoạt động: Xác định người phạm tội có được miễn
trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt không; Xác định khung hình phạt;
Xác định loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt hoặc
dưới khung đó.
Từ những quan điểm nêu trên, có thể đưa ra khái niệm quyết định hình
phạt như sau: “Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy của Thẩm phán và
9


Hội thẩm nhân dân lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính
và có thể cả hình phạt bổ sung, biện pháp chấp hành hình phạt hoặc miễn hình
phạt, các biện pháp tư pháp)… với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để
áp dụng cho chính cá nhân người phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung
hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định
của Bộ Luật hình sự”.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã có thay đổi về cách gọi đối với đối tượng
người chưa thành niên phạm tội. Thay vì cách gọi “người chưa thành niên
phạm tội” từ Bộ Luật hình sự năm 1985 đến Bộ Luật hình sự năm 1999, Bộ
Luật hình sự năm 2015 đã thay cụm từ “người chưa thành niên” bằng cụm từ
“người dưới 18 tuổi”. Việc đổi mới này khiến việc xác định và áp dụng pháp
luật đối với đối tượng này được cụ thể, rõ ràng và đồng bộ hơn. Nhưng về bản
chất thì không thay đổi.
Đối với người chưa thành niên phạm tội, quyết định hình phạt là việc
Tòa án lựa chọn loại hình phạt với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để
áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội.

Đây là một trường hợp quyết định đặc biệt được thể hiện ở việc hình
phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được giảm nhẹ hơn so
với người thành niên đã phạm tội. Mức hình phạt đối với người chưa thành
niên ở các độ tuổi cũng phải được giảm nhẹ hơn so với người đã thành niên
phạm tội. Và đối với người chưa thành niên phạm tội khi quyết định hình phạt
phải tuân thủ theo những quy định chung, đồng thời còn thực hiện theo những
quy định riêng của BLHS.
Ý nghĩa của quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội

10


Việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội có ý
nghĩa quan trọng trong công tác phòng chống tội phạm, thể hiện ở các điểm
sau:
Một là, hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của luật hình sự. Hình phạt áp dụng
với người chưa thành niên phạm tội là một dạng của trách nhiệm hình sự,
được sử dụng như là một công cụ để trừng trị, cải tạo và giáo dục người phạm
tội. Hình phạt chỉ có thể xuất hiện khi có sự việc phạm tội do người chưa
thành niên thực hiện. Vì vậy, việc quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội là một trong những biện pháp giáo dục giúp họ trở thành
những công dân có ích cho xã hội. Mục đích giáo dục cải tạo thể hiện đường
lối xử lý, thể hiện ở biện pháp giáo dục cải tạo, thể hiện ở hình phạt và quyết
định hình phạt, thể hiện ở việc chấp hành hình phạt.
Khi quyết định hình phạt Tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc xử lí đối
với người chưa thành niên phạm tội. Nghĩa là, việc áp dụng hình phạt phải
vừa đảm bảo mục đích giáo dục, răn đe những hành vi lệch chuẩn đồng thời
còn làm rõ cho họ thấy sai phạm, tự giác sửa chữa với sự giúp đỡ của gia
đình, nhà trường và xã hội. Hình phạt chỉ là biện pháp cuối cùng khi biện

pháp khác không phát huy tác dụng. Đây là điểm khác nhau về mục đích của
quyết định hình phạt giữa người thành niên và người chưa thành niên sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh mới phát huy tác dụng.
Hai là, quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội là
việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Chính sách hình sự đối với
người chưa thành niên là đường lối, nguyên tắc pháp lý hình sự trong việc đấu
tranh với tội phạm là người chưa thành niên. Chính sách này thể hiện ở đường
lối xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội; thể hiện qua các biện pháp
cưỡng chế về hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội; thể hiện qua
11


việc quyết định hình phạt và xóa án tích đối với người chưa thành niên phạm
tội. Chung quy lại, chính sách hình sự của nhà nước với mục đích lớn hơn là
nhằm cải tạo, tạo điều iện tốt nhất để người chưa thành niên phạm tội sửa
chữa sai lầm, tái hòa nhập cộng đồng, phấn đấu trở thành người có ích cho gia
đình, xã hội là điều quan trọng nhất.
1.1.2.2 Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội
Quyết định hình phạt là một khâu quan trọng của quá trình áp dụng
pháp luật hình sự nhằm đảm bảo bản án được tuyên đúng pháp luật, công
bằng vì vậy, quyết định hình phạt đòi hỏi Tòa án không những tuân thủ triệt
để các nguyên tắc của luật hình sự mà còn tuân thủ các nguyên tắc quyết định
hình phạt.
Nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội là những tư tưởng mang tính chỉ đạo, định hướng, đồng thời đóng vai trò
kim chỉ nam cho cơ quan và người tiến hành tố tụng trong việc áp dụng các
quy định của Bộ luật hình sự để xử lý người chưa thành niên phạm tội. Việc
quyết định hình phạt phải dựa vào các nguyên tắc sau: Nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc nhân đạo; Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt;

Nguyên tắc công bằng.
Thứ nhất: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện
trong quyết định hình phạt đối với người phạm tội thể hiện ở chỗ, Tòa án
phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Luật Hình sự. Đây là một
nguyên tắc vô cùng quan trọng vì nếu vi phạm nguyên tắc này khi quyết định
hình phạt sẽ có thể dẫn tới vi phạm các nguyên tắc khác và như vậy, sẽ quyết
định một hình phạt không công bằng, làm cho mục đích của hình phạt không
đạt được.
12


Nội dung của nguyên tắc này đòi hỏi việc áp dụng hình phạt chỉ đối
với hành vi phạm tội đã được quy định cụ thể trong luật. Điều 2 BLHS hiện
hành ghi rõ: “Chỉ người nào phạm tội đã được luật hình sự quy định mới
phải chịu TNHS ” [22]. Điều đó khẳng định cơ sở của việc áp dụng hình phạt
là việc thực hiện tội phạm của người có lỗi. Việc luật hình sự nước ta bỏ
nguyên tắc “tương tự” trong lĩnh vực hình sự là một việc có ý nghĩa chính
trị- pháp lý vô cùng to lớn. Nó càng củng cố và tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa và là cơ sở vững chắc cho việc quyết định hình phạt.
Theo nguyên tắc pháp chế, quyết định hình phạt là thẩm quyền của
Tòa án. Đây là thẩm quyền đặc biệt của Tòa án, chỉ có Tòa án là cơ quan duy
nhất nhân danh nhà nước có quyền tuyên một hình phạt đối với bị cáo. Tại
phiên Tòa xét xử, sau khi thẩm vấn, so sánh, đánh giá tài liệu, chứng cứ đi
đến kết luận hành vi của bị cáo có đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ
thể, Tòa án sẽ quyết định một hình phạt cụ thể với một mức nhất định trong
bản án xét xử. Điều 26 BLHS quy định: “ Hình phạt được quy định trong Bộ
luật hình sự và do Tòa án quyết định” [22]. Khi quyết định hình phạt, Tòa án
phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ thể và
chỉ có thể tuyên những hình phạt được quy định trong luật. Ví dụ, khi quyết

định hình phạt đối với vị cáo là NCTN, Tòa án không được xử phạt chung
thân hoặc tử hình NCTN phạm tội mà chỉ có thể cân nhắc, xem xét, lựa chọn
các hình phạt gồm có cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn hoặc
các biện pháp tư pháp khác như: đưa vào trường giáo dưỡng, cải tạo tại xã,
phường, thị trấn.
Một đòi hỏi nữa của nguyên tắc pháp chế là khi quyết định hình phạt,
Tòa án phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ
thể, và chỉ có thể tuyên những hình phạt được quy định trong luật. Nguyên
tắc pháp chế đòi hỏi khi tuyên một hình phạt phải có căn cứ, có tính xác
13


định, có căn cứ lập luận và bắt buộc có lý do. Muốn vậy đòi hỏi Tòa án phải
nghiên cứu kỹ và làm sáng tỏ các tính tiết có trong vụ án để làm căn cứ cho
việc quyết định hình phạt, những tình tiết đó chỉ là những tình tiết đã
được thẩm vấn, kiểm tra trong quá trình xét xử và được Hội đồng xét xử
đánh giá, nhân xét và còn chỉ rõ lý do của việc quyết định hình phạt. Tính
xác định của hình phạt trong bản án buộc tội thể hiện ở chỗ hình phạt được
quyết định đối với bị cáo phải cụ thể về loại hình phạt và thời hạn. Tòa án lựa
chọn loại và mức độ hình phạt một mặt phải đúng pháp luật, mặt khác phải
phù hợp với các nguyên tắc khác, phù hợp với các tình tiết giảm nhẹ và tăng
nặng TNHS, có như vậy mới đảm bảo được tính hợp lý của việc quyết định
hình phạt và là một yêu cầu của nguyên tắc pháp chế.
Thứ hai: Nguyên tắc nhân đạo.
Nguyên tắc nhân đạo trong việc quyết định hình phạt nói chung thể
hiện tập trung nhất ở chỗ khi quyết định hình phạt, Tòa án phải cân nhắc một
cách tổng thể thống nhất, biện chứng, hài hoà, hợp lý các lợi ích xã hội, lợi
ích của Nhà nước và cả lợi ích của người phạm tội. Bởi vì không thể nói đến
nhân đạo được nếu khi quyết định hình phạt mà quá đề cao lợi ích của Nhà
nước, của xã hội mà hạ thấp, xem thường lợi ích của người phạm tội hoặc

ngược lại. Luật hình sự quy định các quy phạm giảm nhẹ TNHS và hình phạt
đối với người phạm tội ít nguy hiểm cho xã hội và những người phạm tội lần
đầu, những người thật thà khai báo, tố giác đồng bọn, lấy công chuộc tội, ăn
năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra. Đối với những người
này, nguyên tắc nhân đạo thể hiện khi quyết hình phạt tuỳ theo các tình tiết
của vụ án cụ thể, mức phạt tù do luật quy định và nhân thân người phạm tội,
Tòa án có thể cho bị cáo hưởng án treo, khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ có
thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất hoặc chuyển sang loại hình phạt
khác thuộc loại nhẹ hơn. Ngay cả đối với người phạm tội nguy hiểm nhưng
14


khi quyết định hình phạt, nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi Tòa án phải lựa chọn
một biện pháp nghiêm khắc thích hợp nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành
người lao động có ích cho xã hội. C. Mác viết: “Cả lịch sử lẫn ý chí đều xác
nhận như nhau cái sự thật là: sự tàn nhẫn, không đếm xỉa tới bất kỳ sự khác
nhau nào, làm cho sự trừng phạt trở nên hoàn toàn vô hiệu, bởi vì sự tàn
nhẫn thủ tiêu sự trừng phạt với tư cách là kết quả của pháp luật”. [40]
Nguyên tắc nhân đạo còn thể hiện ở việc hạn chế sự trừng trị. Điều đó
có nghĩa là trong vụ án, Tòa án có thể tuyên một trong những mức cho phép
đối với bị cáo: mức cần thiết tối thiểu, mức cao hơn cần thiếu tối thiểu, mức
tối đa thì ở một góc độ nhân đạo, Tòa án nên tuyên mức hình phạt cần thiết
tối thiểu. Trong mọi trường hợp đều không cho phép Tòa án quyết định hình
phạt quá mức cần thiết.
Đặc biệt đối với NCTN phạm tội, nguyên tắc nhân đạo trong quyết
định hình phạt được xuyên xuốt trong chính sách hình sự và đường lối xử lý.
Xuất phát từ quan điểm NCTN là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và
tinh thần, chưa có đủ khả năng để cân nhắc hành vi của mình, thiếu kinh
nghiệm xã hội và dễ bị tác động của môi trường xung quanh, vì vậy, BLHS
năm 1999 đã xây dựng một Chương riêng áp dụng đối với họ theo hướng

giảm nhẹ TNHS so với người đã thành niên phạm tội.
Tóm lại, xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, luật hình sự quy định
đường lối giải quyết đối với NCTN phạm tội, trong đó có việc quyết định
hình phạt nhằm mục đích giáo dục, cải tạo họ sớm tái hoà nhập với xã hội và
cộng đồng. Biện pháp giáo dục phòng ngừa phải được coi là biện pháp được
ưu tiên áp dụng khi xử lý NCTN phạm tội. Điều đó thể hiện lòng tin vào khả
năng cải tạo, giáo dục NCTN phạm tội dưới chế độ ta, đồng thời thấm nhuần
đạo lý của ông cha ta coi cái thiện, cái ác không phải là bản tính vốn sẵn có
của mỗi người từ lúc sinh ra mà về cơ bản tính thiện ác trong mỗi con người
15


được hình thành từ trong môi trường xã hội và sâu xa hơn nữa là mỗi con
người dù có lỗi lầm đến đâu đều có khả năng phục thiện thông qua con
đường giáo dục thích hợp.
Thứ ba: Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt
Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc cá thể hoá hình phạt khi quyết định
hình phạt thể hiện ở chỗ, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào
các quy định của pháp luật hình sự và ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, cân
nhắc tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt trong quyết định hình phạt được thể
hiện rõ trong các quy định về đồng phạm, Điều 3 BLHS 1999 quy định:
“...Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối,
lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất
chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng.
Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người
đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại gây ra.

3. Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có
thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức xã
hội hoặc gia đình giám sát, giáo dục…”[22]
Nguyên tắc cá thể hoá còn được nhà làm luật thể hiện tại điều 8
BLHS, cụ thể là hình phạt được áp dụng đối với những tội ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là khác nhau. Ngoài
ra, nội dung của nguyên tắc này cũng được thể hiện ở các điều luật quy định
các giai đoạn phạm tội, đồng phạm, hệ thống các hình phạt và các điều kiện
áp dụng chúng cũng như việc quy định khung chế tài trong điều luật ở phần
16


các tội phạm cụ thể.
Thứ tư: Nguyên tắc công bằng
Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc công bằng trong việc quyết định hình
phạt thể hiện ở loại và mức hình phạt do Tòa án tuyên phải tương xứng với
tội phạm đã thực hiện, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, không phân biệt dân tộc, giới tính, dân tộc, địa vị kinh tế, tín
ngưỡng, tôn giáo....
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là trong những điều kiện giống
nhau, tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt càng nghiêm khắc và ngược
lại. Theo Mác, phải “làm cho sự trừng phạt trở thành hiệu quả thực tế của
việc phạm tội. Dưới con mắt của kẻ phạm tội, sự trừng phạt phải là kết quả
tất yếu của hành vi của chính người đó, do đó phải là hành vi của chính
người đó. Giới hạn của hành vi của y là giới hạn của sự trừng phạt” [40].
Đồng thời, mọi người phạm tội đều phải chịu trách nhiệm một cách bình
đẳng trước luật hình sự không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo,
chính kiến, nghề nghiệp, địa vị xã hội và tình trạng tài sản... Điều này được
khẳng định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 3 BLHS năm 1999: “Mọi người phạm
tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc tín

ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội”[22]
Nguyên tắc công bằng còn đòi hỏi toà án phải thống nhất trong việc
đánh giá các căn cứ của quyết định hình phạt để đảm bảo quyết định hình
phạt công bằng đối với các trường hợp phạm tội có các tình tiết tương
đương. Đồng thời, Toà án phải xem xét tất cả các tình tiết trong vụ án, tránh
tình trạng bỏ sót tình tiết nào dẫn đến việc quyết định hình phạt không thoả
đáng đối với bị cáo.Việc cần nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội.
các đặc điểm nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác có trong vụ án
phải đặt trong một thể thống nhất biện chứng mới đảm bảo được tính công
17


bằng của hình phạt. Nếu quá nhấn mạnh, coi trọng đến một yếu tố nào đó mà
bỏ qua hoặc xem nhẹ yếu tố còn lại thì khó có thể quyết định hình phạt một
cách công bằng, khó đạt được mục đích và hiệu quả của hình phạt.
Nguyên tắc công bằng còn đòi hỏi hình phạt được tuyên cần phải phản
ánh một cách đúng đắn dư luận xã hội, ý thức pháp luật và đạo đức xã hội
của chúng ta, phải có đủ sức thuyết phục mọi người ở tính đúng đắn, tính
công bằng trong chính sách xét xử của Nhà nước.
Các nguyên tắc trên có tính độc lập tương đối và cùng tồn tại với nhau.
Nhưng mặt khác, các nguyên tắc trên cũng có những phần, những nội dung
ăn nhập với nhau, bổ sung, tác động qua lại và ăn nhập với nhau tạo thành
một thể thống nhất.
1.1.2.3 Các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội
Với nhận thức người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn
phát triển đầy đủ về nhân cách, về thể trạng tâm lý, sinh lý còn bị hạn chế về
nhận thức, dễ chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh, dễ bị kích động, dễ
dẫn đến có hành vi vi phạm pháp luật, mà ở mức độ cao là hành vi phạm tội.
Vì vậy, Điều 69 Bộ luật hình sự 1999 đã đặt ra những nguyên tắc riêng khi xử
lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên.

Nguyên tắc thứ nhất : Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ
yếu nhằm giáo dục , giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để trở
thành công dân có ích cho xã hội.
Đây là nguyên tắc bao trùm và mang tính chất chỉ đạo, chi phối nội
dung các nguyên tắc còn lại trong xử lý người chưa thành niên phạm tội, thể
hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với việc là lấy giáo dục
làm nền tảng chứ không nặng về trừng phạt. Trong quá trình xử lý và áp dụng
biện pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, những người tiến
hành tố tụng phải cân nhắc thận trọng để đảm bảo được mục đích giáo dục,
18


uốn nắn, răn đe các hành vi lệch lạc, làm cho người chưa thành niên phạm tội
thấy rõ những sai phạm của mình và tự giác sửa chữa với sự giúp đỡ của gia
đình, nhà trường và xã hội.
Để thực hiện được nguyên tắc này, trong mọi trường hợp điều tra, truy tố
và xét xử hành vi phạm tội của NCTN đòi hỏi các cơ quan tư pháp phải xác định
khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi mà họ thực hiện, tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Từ đó giúp
người chưa thành niên nhận thức rõ lỗi của mình, sửa chữa để trở thành công dân
có ích cho xã hội. Đồng thời cũng qua đó giúp cơ quan tư pháp quyết định việc
có truy cứu trách nhiệm hình sự với họ không hay xác định các biện pháp khác
đấu tranh để ngăn ngừa hiện tượng tội phạm ở người chưa thành niên. Cụ thể
hóa nội dung này, các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng với người chưa
thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ. Các biện pháp trừng trị nghiêm
khắc hơn chỉ áp dụng với họ trong trường hợp phạm tội có tính chất, mức độ
nguy hiểm cao cho xã hội.
Tinh thần của Bộ Luật hình sự 2015 được nâng cao hơn so với BLHS
1999 theo hướng đề cao nguyên tắc đảm bảo lợi ích tốt nhất cho đối tượng
này khi xử lý hình sự: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm

lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục,
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích
cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi,
khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.” [26]
Đây là một nguyên tắc có ý nghĩa định hướng cho cán bộ tiến hành tố
tụng khi quyết định lựa chọn biện pháp xử lý cụ thể đối với NCTN, nhằm tìm ra
biện pháp phù hợp nhất.

19


×