Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

MỘT vài KINH NGHIỆM TRONG CÔNG tác CHỦ NHIỆM lớp ở TRƯỜNG THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.06 KB, 18 trang )

MỘT VÀI KINH NGHIỆM TRONG CÔNG TÁC CHỦ
NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG THPT
I. Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta – những người làm công tác giáo dục ai cũng nhận thấy rằng “ Một
tập thể lớp vững mạnh sẽ là động lực thúc đẩy mọi hoạt động khác nhất là hoạt
động học tập ở trường; một người giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm và có
phương pháp tốt thì sẽ tạo được điều kiện, có tình yêu để bồi dưỡng và hoàn thành
tốt chuyên môn, nhiệm vụ của mình.
Đúng như vậy: Trong hệ thồng tổ chức của các trường học nói chung và trường
THPT nói riêng, yếu tố cơ bản để tổ chức giảng dạy và giáo dục học sinh là lớp
học. Để quản lý lớp học, nhà trường cử ra và giao nhiệm vụ cho một trong những
giáo viên bộ môn làm công tác chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm được hiệu trưởng
lựa chọn và phân công nhiệm vụ hầu hết là nhưng người có kĩ năng giáo dục, có uy
tín với học sinh được hội đồng …. Nhà trường nhất là phân công chủ nhiệm lớp
học để thực hiện mục đích giáo dục. Như vậy, khi nói đến GVCN là đề cập đến
những nhiệm vụ, nội dung công việc mà người GVCN phải làm, cần làm vàu nên
làm.
Do vậy việc xây dựng tập thể lớp vững mạnh sẽ là yêu cầu giáo dục bắt buộc của
tất cả các trường nói chung và trường THPT nói riêng và đó cũng chính là nhiệm
vụ quan trọng của GVCN. Một tập thể lớp vững mạnh sẽ là động lực thúc đẩy với
mọi hoạt động khác nhất là hoạt động học tập ở trường. Và một người giáo viên
làm tốt công tác chủ nhiệm, có phương pháp tốt thì sẽ tạo được điều kiện và có thời
gian để bồi dưỡng và hoàn thành tốt chuyên môn nhiệm vụ của mình.
2. Cơ sở lí luận:
Đối với giáo dục phổ thông, người GVCN lớp có vai trò quan trọng trong việc giáo
dục học sinh. Ngoài việc trực tiếp giảng dạy ở lớp chủ nhiệm, GVCN trước hết
phải là nhà …., là người tổ chức các hoạt động giáo dục, quan tâm tới từng học
sinh, chăm lo đến việc rèn luyện đạo đức hành vi, những biến động về tư tưởng,
nhu cầu, nguyện vọng của các em. GVCN lớp bằng chính nhân cách của mình là
1




tấm gương tác động tích cực đến việc hình thành đến các phẩm chất đạo đức, nhân
cách của học sinh. Mặt khác GVCN còn là cầu nối giữa tập thể học sinh với các tổ
chức xã hội trong và ngoài nhà trường là người tổ chức phối hợp các lực lượng
giáo dục. Có thể nói vai trò của người GVCN trở nên lớn hơn vì so với chức năng
của người giáo viên giảng dạy bộ môn.
GVCN là người thay hiệu trưởng, hội đồng sư phạm nhà trường, cha mẹ học sinh
quản lí toàn diện học sinh lớp mình phụ trách. Điều này đòi hỏi GVCN vừa quản lí
học sinh, vừa quan tâm đến từng học sinh ….. lớp về mọi phương diện: học tập, tu
dưỡng, lao động và sinh hoạt tập thể.
GVCN là người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra mọi hoạt động và các mối
quan hệ giữa nhà trường và tập thể học sinh, tập thể học sinh với xã hội. Như vậy,
GVCN lớp vừa là đại diện cho nhà trường để giáo dục học sinh, vừa đại diện cho
tập thể học sinh để liên lạc với nhà trường. Mặt khác GVCN lớp phải làm cho quan
hệ giữa tập thể học sinh với nhà trường và xã hội trở nên gắn bó hơn. GVCN xây
dựng, tổ chức tập thể lớp mình thành đơn vị vững mạnh, …..điều khiển, lãnh đạo
các hoạt động giáo dục của tập thể lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện.
GVCN luôn thiết lập và các mối quan hệ với các lực lượng giáo dục trong và ngoài
trường để giáo dục học sinh.
3. Thực trạng công tác GVCN lớp hiện nay
3.1: Thuận lợi
Trong những năm gần đây sự phát triển kinh tế xã hội đã mang lại không ít những
thuận lợi cho công tác chủ nhiệm trong nhà trường.
- Sự quan tâm đầu đầu tư của Đảng, nhà nước cùng với sự hỗ trợ tích cực từ phía
xã hội, ngành, ban lãnh đạo nhà trường cho công tác chủ nhiệm.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục của nhà trường ngày một khang trang, đầy
đủ, đảm bảo cho việc dạy và học.
- Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đặc biệt là khoa học công

nghiệp thông tin đã hộ trợ cho giao viên và phụ huynh trong việc liên lạc, trao đổi ,
nắm bắt nhanh chóng những thông tin cần thiết trong phối hợp giáo dục, đồng thời
2


hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy của giáo viên trong những giờ lên lớp, trong
những hoạt động tập thể khiến học sinh thấy hứng thú hơn. Sự phối kết hợp giữa
các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường càng trở nên chặt chẽ.
3.2 Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, công tác chủ nhiệm lớp còn gặp không ít những
khó khăn, thách thức. Trong thời đại khoa học công nghệ và kinh tế thị trường hiện
nay ngoài những tiện ích to lớn mà nó đem đến cho con người thì kèm theo đó là
hàng loạt các hoạt động tiêu cức đến đối tượng học sinh: Xu hướng đua đòi chưng
diện theo trang phục, mái tóc của các nghệ sĩ, ca sĩ, diễn viên trong phim ảnh
không lành mạnh và đặc biệt là game online, chính những vấn đề này ảnh hưởng
không ít đến việc học tập, việc hình thành nhân cách, đạo đức của học sinh và gây
ra rất nhiều khó khăn cho GVCN trong công tác giáo dục đạo đức học sinh.
Nguyên nhân chủ yêu là do cơ sở kinh doanh chỉ chú ý đến lợi nhuận. Hầu hết các
điểm truy cập Internet đều trang bị những trò chơi bạo lực thu hút học sinh. Vì thế,
hiện tượng bỏ giờ, trốn tiết, giấu tiền để chơi game là điều không tránh khỏi.
Không những thế hậu quả do những tác động của những trò chơi nguy hiểm này
dẫn đến các hành vi bạo lực khôn lường. Mặt khác, nhiều gia đình do quá bận rộn
với công việc nên thời gian dành cho việc giáo dục con cái không nhiều, gần như
phó mặc cho nhà trường và xã hội thậm chí cung cấp tiền bạc dư thừa không nghĩ
đến hậu quả. Nhiều phụ huynh chỉ gặp gỡ trao đổi với GVCN trong ba buổi họp
phụ huynh trong năm học, còn chủ yếu là trao đổi qua điện thoại trong những
trường hợp cần thiết. Trẻ thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quan tâm của gia đình, dễ bị
kẻ xấu lôi cuốn xa ngã: mooijt số em do được chiều chuộng và chăm sóc quá chu
đáo nên nảy sinh tính ích kỷ, ương bướng, khó bảo.
Hơn nữa, công tác chủ nhiệm chủ yếu là kiên nhiệm, thực tế hiện nay chưa có một

khóa đào tạo chính thức nào cho GVCN. Chính vì vậy, không nhiền GVCN thực
sự có năng lực làm chủ yếu bằng kỹ năng của bản thân, cộng với trao đổi, học hỏi
trong nhà trường. Bên cạnh đó số tiết dành cho GVCN cũng quá ít, chỉ- 4-5 tiết
trên tuẩn, chưa tương xứng công sức giáo viên đầu tư vào công tác chủ nhiệm, dẫn
đến nhiều giáo viên chưa hăng say với công tác chủ nhiệm. Nội dung chương trình
giảng dạy còn nặng nề với kiến thức thuần túy, số tiết dành cho giảng dạy môn
Giáo dục công dân, giáo dục đạo đức cho học sinh còn quá ít trong khi xã hội ngày
càng phát triển. Hơn nữa, ở lứa tuổi này, tâm lý của các em đang phát triển mạnh,
3


các em ngày càng có nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu đua đòi,
thích sự khẳng định mình…, trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về
pháp luật còn hạn chế, nên chiều hướng học sinh hư, lười học, hiện tượng bỏ giờ,
trốn tiết, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức ngày càng nhiều.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận những thiếu sót về phía đội ngũ GVCN. Một bộ
phận GVCN chưa thật nhiệt tình, một phần do công việc giảng dạy chiếm nhiều
thời gian, hiệu quả công tác cũng ít nhiều bị ảnh hưởng, một thiếu sót khác là nhiều
GVCN tiến hành công việc khá cảm tính, chưa có phương pháp chủ nhiệm sáng
tạo thích hợp. Có người quá nghiêm khắc, có người quá dễ dãi. Người nghiêm
khắc gò ép học sinh theo khuôn khổ một cách máy móc, cứng nhắc. Và như thế về
mặt tâm lí cả giá viên và học sinh đều như bị áp lực, người dễ dãi thì lại buông
lỏng công tác quản lí, thiếu quan tâm sâu sát . Thực tế, nhiều khi giữa thầy cô chủ
nhiệm và học sinh không phải bao giờ cũng tìm được tiếng nói chung.
Đối với trường sở tại đơn vị tôi công tác, chủ nhiệm phần nào đó đã được Ban
giám hiệu và phụ huynh quan tâm tạo điều kiện khá tốt, song bản thân người
GVCN cần phải chủ động trong nhiều công việc đặc biệt là tiếp cận với đối tượng
học sinh và các tình huống cũng như biện pháp xử lí trong từng trường hợp. Là
một giáo viên đã nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, với chút ít kinh nghiệm tích
lũy được qua thực tế công việc tôi xin được trao đổi cùng các đồng nghiệp một vài

kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT với mong muốn nâng cao
hiệu quả của công tác chủ nhiệm lớp góp phần cùng nhà trường hoàn thành tốt mục
tiêu …… trong giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh THPT.
5. Giới hạn đề tài
Nói chung về thực trạng và biện pháp trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường
THPT trong năm học ……. và những năm tiếp theo.

II. Giải pháp thực hiện
1.Tìm hiểu và nắm chắc đổi tượng học sinh

4


Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, GVCN phải nắm vững tâm sinh lí, nhu cầu,
nguyện vọng, ước mong, kĩ năng trình độ của học sinh, nắm vững hoàn cảnh sống,
những tác động của gia đình, mối quan hệ xã hội, bạn bè của học sinh. Tôi đã cố
gắng tìm hiểu học sinh thông qua nhiều biện pháp cụ thể như sau:
- Tìm hiểu học sinh thông qua các tài liệu liên quan: xem học bạ, sơ yếu lí lịch, bản
tự nhận xét của học sinh, nhận xét của GVCN cấp học, lớp học khoá trước. Đây là
tài liệu đáng tin cậy ban đầu giúp tôi nhận biết và phân loại học sinh.
- Tìm hiểu học sinh qua quan sát trực tiếp: quan sát trực tiếp học sinh hằng ngày
trong các hoạt động trên lớp, ngoài lớp để biết hành vi, thái độ của học sinh. Đây là
tài liệu sống, qua đó, tôi cố gắng tìm ra những nét cá tính nhất của từng em. Nếu
thấy những sai phạm của học sinh từ hành vi, cử chỉ, lời nói thì phải nhắc nhở
ngay.
- Tìm hiểu học sinh qua thử nghiệm: đây là cách làm giúp cho người GVCN có thể
thu được thông tin về một hay nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ. Những thử nghiệm
này là những bài tập từng hướng đã được xây dựng về một vấn đề trao đổi nào đó

để học sinh có dịp bộc lộ mình. Chẳng hạn có thể đưa ra tình huống: cô rất cần một
số em ……… tham gia trang trí lớp học cho thật đẹp mắt, thật ý nghĩa để chuẩn bị
cho tiết sinh hoạt chủ đề: tri ân thầy cô ngày 20-11 hoặc cho học sinh trả lời nhanh
vào phiếu in sẵn một số câu hỏi về vấn đề tìm hiểu. (Ví dụ: Tìm hiểu về thái độ của
học sinh đối với cha mẹ, anh chị em trong gia đình bằng những câu hỏi đơn giản).
Những thử nghiệm nhỏ này có thể áp dụng linh hoạt sao cho phù hợp với học sinh
ở từng vùng dân cư. Kết quả thử nghiệm sẽ giúp GVCN lớp có thể nắm bắt được
thêm những thông tin mới, bổ sung cho những nhận định của mình về học sinh.
2. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp
Trên cơ sở nắm được mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trường trong năm học, đặc điểm
tình hình lớp, địa phương, cơ sở vật chất của nhà trường, GVCN tiến hành xây
dựng kế hoạch …. kết quả cao cần phải có kế hoạch sát đúng, phù hợp.
Trong …., phải xác định rõ ràng mục đích chỉ tiêu phấn đấu và các biện pháp
chính. Đặc biệt chú trọng chiến …. phối hợp giữa các lực lượng giáo dục khác để
đạt mục đích đề ra, cần có phương hướng phát triển lớp, sự thực hiện tuần tự hợp lí
nhằm đi đến mục đích, kế hoạch phải phát huy được mặt mạnh , khắc phục được
5


hạn chế của lớp. Biện pháp thực hiện cần thể hiện tính phóng phú, đa dạng. Tuy
nhiên, các biện pháp đề ra trong kế hoạch chỉ là phần “…”. Trong quá trình thực
hiện cần phải ví dụ, điều chỉnh một cách linh một cách linh hoạt các biện pháp giáo
dục cho phù hợp với tình hình thực tế để công việc đạt hiệu quả cao/
- Xây dựng kĩ năng chủ nhiệm lớp đòi hỏi phải khoa học. Tránh tình trạng tuỳ
hứng, tuỳ tiện qua loa. Vì thế xây dựng kĩ năng chủ nhiệm là một yêu cầu cần thiết
để bảo đảm hiệu quả giáo dục học sinh:
+ Nắm
+ Nắm bắt tình hình cụ thể của lớp chủ nhiệm từ các thông tin nói trên dự kiến kế
hoạch, đặt ra các yêu cầu trọng điểm cho từng gia đình. Sau đó, phác thảo kế hoạch
chủ nhiệm thông qua các hoạt động cụ thể theo trình tự thời gian.

+ Sau khi phác thảo kế hoạch, GVCN cần tham khảo ý kiến đồng nghiệp và đội tự
quản lớp để thống nhất một số nội dung cần thiết.
- Chỉ đạo tập thể học sinh thự hiện kế hoạch: GVCN luôn có sự chỉ đạo tốt để đạt
hiệu quả như mong muốn.
+ Phổ biến rõ công tác cho tập thể lớp, thống nhất quyết tâm thực hiện tốt kế
hoạch, biến kế hoạch thành chuơng trình hành đông cụ thể.
- Chuẩn bị các điều kiện vật chất và kĩ thuật để thực hiện các hoạt động.
- Phối hợp với đội ngũ cán bộ tự quản thực hiện và điều hành công việc quản lý
lớp.
- Theo dõi kiểm tra và điều chỉnh hoạt động để các hoạt động đi đúng hướng.
- Kết thúc một công việc cần tổng kết đánh giá phân tích ưu điểm và hạn chế rút
kinh nghiệm.
- Có sự khuyến khích tập thể hay cá nhân tốt, phê bình các cá nhân thiếu tích cực,
thiếu cố gắng.
- Triển khai các hoạt động tiếp theo.
Trong kế hoạch chủ nhiệm, cần đặt ra các yêu cầu … càng cao nhưng vừa sức với
học sinh để kích thích sự tiến bộ không ngừng.
6


GVCN khi lập kế hoạch phải đưa ra được chỉ tiêu cụ thể trong năm học.
Ví dụ: Đối với lớp tôi chủ nhiệm, tôi đưa ra chỉ tiêu như sau:
+ Đạt lớp tiên tiến, chi đoàn vững mạnh.
+ Hoàn thành và tham gia đầy đủ, đạt kết quả xuất sắc trong tất cả các hoạt động
được giao.
Với việc lập kế hoạch cho công tác chủ nhiệm như trong năm học qua, lớp tôi chủ
nhiệm đã hoàn thành tốt, đúng thời gian quy định và đạt đuợc nhiều thành tích cao.
3. Phát huy tính tự giác, kĩ năng tự giác của học sinh
Công việc này yêu cầu GVCN phải thuờng xuyên đến lớp vào đầu buổi học, giữa
các tiết và cuối buổi học. Để rèn cho học sinh ý thức tổ chức kỉ luật, GVCN cần

phải giúp các em nhận thức đúng vấn đề, trên cơ sở đó các em sẽ thực hiện một
cách tự giác. Xây dựng đội ngũ tự quản là nền tảng cho công tác chủ nhiệm và
cũng là một việc làm quan trọng và khó khăn đối voéi GVCN. Đầu tiên GVCN cần
xác định được tiêu chuẩn của cán bộ lớp:
+ Có ý thức tổ chức kỉ luật tốt, có kĩ năng gương mẫu.
+ Tính tình thẳng thắn, giám đấu tranh, giám phê bình.
+ Năng nổ hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
+ Có khả năng học tập tốt: từ khá trở lên.
+ Được tập thể lớp tín nhiệm.
+ Có hoàn cảnh gia đinh thuận lợi.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ lớp tốt cần tìm hiểu thông qua giáo viên chủ nhiệm cũ,
bạn bè trong lớp, quan sát sự hoạt động của các em khi ra chơi hoặc giao một số
công việc.
Khi đã tìm được đội ngũ cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm cần bồi dưỡng cho các
em có ý thức trách nhiệm cao đối với lớp, phục vụ tập thể lớp, biết phê bình và tự
phê bình. Bồi dưỡng cho các em có phương pháp quản lý lớp.

7


Mỗi tháng họp một lần để tổng kết rút kinh nghiệm, giao kế hoạch nhiệm vụ tháng
tới, lập sổ theo dõi. Mỗi tuần giao ban một lần vào thứ 6 để thứ 7 có số liệu sinh
hoạt và khen, chê kịp thời.
Trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm cũng cần chú ý chọn
đúng nguồn, tránh việc thay cán bộ lớp, không phó mặc việc lớp cho đội ngũ cán
bộ lớp. Lớp trưởng là em ……, lớp phó học tập em …… , lớp phó lao động em
…… Nhờ đó tôi đã rất dễ dàng trong công tác chủ nhiệm, nhiều khi giáo viên chủ
nhiệm do một số lý do nào đó không trực tiếp quản lý đôn đốc các em nhưng các
em vẫn hoàn thành tốt công việc học tập và rèn luyện.
Đúng vậy quản lý lớp việc này phải dựa vào ban cán sự lớp và Ban chỉ huy chi đội.

Điều quan trọng là phải chọn được những học sinh nhiệt tình và có năng lực công
tác. Song dù có năng lực tốt thế nào thì các em vẫn đang ở lứa tuổi học trò, do đó
GVCN phải giáo dục cho học sinh ý thức được đầy đủ vai trò, nhiệm vụ của người
cán bộ lớp để các em thực sự có trách nhiệm, và nâng cao tinh thần trách nhiệm đối
với công tác được giao.
Khi xây dựng đội ngũ tự quản cần xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ từng năm học
và tính chất phát triển của tập thể học sinh. Nhiều GVCN chỉ căn cứ vào một số
tiêu chuẩn cán bộ lớp như học giỏi, đạo đức tốt, rất ít GVCN dựa vào đặc điểm của
quá trình phát triển của tập thể để xây dựng cấu trúc đội ngũ tự quản. Nên căn cứ
vào 3 giai đoạn phát triển của tập thể lớp mà lựa chọn đội ngũ tự quản. Ví dụ: ở
giai đoạn đầu (tập thể mới hình thành) rất cần có một lớp trưởng (thủ lĩnh) biết hi
sinh, có uy tín, biết quan tâm đến người khác, gương mẫu, biết cảm hoá các bạn...,
không nhất thiết phải là học sinh học giỏi nhất lớp. Nhưng sang giai đoạn 2 và 3
(khi tập thể đã phát triển) rất cần có “thủ lĩnh” năng động, sáng tạo, luôn tìm tòi
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động mọi mặt để cuốn hút các bạn.
Giáo viên chủ nhiệm nên lấy hoạt động chiều sâu của nội dung học tập, hoạt động
ngoại khoá, văn hoá xã hội làm phương tiện giáo dục tập thể, rèn luyện năng lực tự
quản, thái độ, tình cảm và hành vi của học sinh.
Để phát huy vai trò cố vấn, GVCN cần có năng lực dự báo chính xác khả năng của
học sinh trong lớp, biết khêu gợi tiềm năng sáng tạo của các em trong việc đề xuất
các nội dung hoạt động, xây dựng kế hoạch hoạt động toàn diện phù hợp với nhiệm
vụ và điều kiện của mỗi tháng, mỗi học kì của từng năm học. Giáo viên chủ nhiệm
8


chỉ là người giúp học sinh tự tổ chức các hoạt động đã được kế hoạch hoá. Điều đó
không có nghĩa là GVCN khoán trắng, đứng ngoài hoạt động của tập thể lớp học
mà nên cùng hoạt động, điều chỉnh hoạt động, kịp thời giúp các em tháo gỡ những
khó khăn trong quá trình hoạt động.
Ngoài ra cần tạo hứng thú trong công việc, tạo sự đoàn kết nhất trí cao trong ban

cán sự để làm sao các em cũng phải biết làm việc “hết mình”, biết phấn đấu vì tập
thể và biết tự giác, chủ động điều hành lớp ngay cả khi không có giáo viên chủ
nhiệm. Sử dụng phiếu giao việc cũng là một hình thức tạo cho học sinh phát huy
tính tự giác, tự quản, tinh thần trách nhiệm trong công việc. Trên cơ sở được giao
việc học sinh phải tự lập kế hoạch và giáo viên chủ nhiệm hẹn thời gian để duyệt.
Nhìn chung được giao việc và nhất là được thầy cô tin tưởng, phát huy tính dân
chủ và tự quản các em rất phấn khởi và tất nhiên phải rút kinh nghiệm, khen chê
kịp thời (trong một năm học, ban cán bộ cán sự lớp ít nhất được động viên, khen
thưởng hai lần vào dịp sơ kết học kỳ I và tổng kết năm học).
4. Giáo dục học sinh cá biệt.
Trong một lớp học bao giờ cũng có học sinh ngoan ngoãn, học sinh nghịch ngợm,
cá biệt. Do đó tìm hiểu nắm vững từng đối tượng học sinh sẽ giúp GVCN có biện
pháp giáo dục tốt sẽ là động lực để xây dựng được tập thể lớp vững mạnh.
+ Giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu lý lịch, tính cách học sinh, tìm hiểu điểm yếu
của học sinh.
+ Kết hợp với giáo viên bộ môn, nhà trường, gia đình.
+ Giáo viên chủ nhiệm không được nóng vội, uốn nắn dần, khi đưa ra tập thể lớp
không nói nhiều, khi gặp riêng không được chì trích mà nhẹ nhàng tâm sự và phân
tích.
+ Giao cho học sinh cá biệt một số việc và sau đó phải động viên khuyến khích kịp
thời những việc em làm tốt.
+ Lập kế hoạch cho cán sự lớp để thành lập các đôi bạn cùng tiến.
+ Luôn thông báo kịp thời các thông tin về học sinh với gia đình và ngược lại.

9


Như vậy đối với những học sinh ngoan, có ý thức thì chỉ cần nhắc nhở chung.
Nhưng đối với những học sinh có cá tính, có hoàn cảnh khó khăn thì lại phải vừa
nghiêm khắc khi xử lý những sai phạm của các em, vừa phải tình cảm, động viên,

thậm chí phải dỗ dành. Giáo dục những học sinh cá biệt điều quan trọng là phải tạo
được mối quan hệ gần gũi, cảm thông giữa thầy và trò. Muốn vậy GVCN không
chỉ đứng ở cương vị người thầy mà phải biết nhập vai, biết lắng nghe các em nói,
tìm hiểu tâm tư của các em, tạo cho các em có cảm giác mình được chia sẻ, cảm
thông, được giúp đỡ thì các em sẽ tự giác sửa chữa khuyết điểm, tự giác phấn đấu
hơn. Có những học sinh khi mắc khuyết điểm đã nói với bạn bè rằng: không sợ bị
kỷ luật, bị phạt mà chỉ sợ làm ảnh hưởng đến thành tích thi đua của lớp, sợ làm cô
giáo buồn…
Có em học sinh đầu năm học còn hay đi học muộn, nhiều hôm sợ bị cờ đỏ ghi tên,
trừ điểm thi đua nên không vào được trường ngay mà chờ hết giờ truy bài mới vào
lớp. Tôi đã sắp xếp thời gian đến thăm gia đình học sinh này, mới hay em ở với
ông bà ngoại ( cha mẹ ly hôn, cha có vợ khác). Vì ít được quan tâm nên em cũng
sao nhãng chuyện học hành. Được cô giáo đến thăm nhà, động viên nên em tiến bộ
rất nhanh, chấm dứt hiện tượng đi học muộn và tham gia rất tích cực vào các hoạt
động của lớp.
Qua những trường hợp cụ thể vừa nêu, tôi thấy việc sắp xếp thời gian đến thăm gia
đình học sinh (đặc biệt là những học sinh cá biệt) cũng đem lại nhiều hiệu quả
trong công tác chủ nhiệm.
Ngoài ra, để tạo không khí cởi mở trong tập thể lớp và cũng là để giúp cho mình
hiểu học sinh hơn, tôi thường động viên các em ghi nhật ký lớp hằng ngày. Thi
thoảng tôi lại cho học sinh viết cảm nhận về lớp mình. Có những điều thường ngày
có khi khó nói ra được, nhưng khi viết cảm nhận hoặc ghi nhật kí lớp các em lại có
dịp để giãi bày. Qua những bài cảm nhận và những trang nhật ký lớp, thầy trò, bạn
bè hiểu nhiều về nhau hơn và đương nhiên tập thể lớp ngày càng thêm gắn bó.
5. Tổ Chức tốt giờ sinh hoạt lớp.
Giáo viên chủ nhiệm nhất thiết phải dự giờ sinh hoạt lớp và xem trước kế hoạch
sinh hoạt lớp của lớp trưởng và các tổ, giáo viên chủ nhiệm lên một kế hoạch sinh
hoạt riêng cho mình. Khi dự sinh hoạt lớp dưới sự điều khiển riêng của lớp trưởng,

10



giáo viên chủ nhiệm cần so sánh các số liệu với tuần trước, khen chê phải hợp lý,
nhẹ nhàng để cho các em chấp nhận, không được chì trích.
- Lớp trưởng điều khiển tiết sinh hoạt: Nhận xét tuần đọc kế hoạch tuần tới.
- Giáo viên chủ nhiệm là người dự, góp ý kiến, nhận xét cuối buổi.
- Các tổ trưởng lần lượt thông báo kết quả theo dõi và xếp loại của tổ, thành viên
trong tổ nêu ý kiến.
- Cờ đỏ nhận xét, đọc kế hoạch đội, đoàn.
- Giáo viên chủ nhiệm nhận xét, khen chê kịp thời, đưa ra ý kiến, nêu kế hoạch
tuần tới.
- Thư ký ghi biên bản: Giáo viên chủ nhiệm, lớp trưởng ký xác nhận
Tuy nhiên cách thức tổ chức các giờ sinh hoạt trên lớp cũng nên linh hoạt. Giờ sinh
hoạt lớp không nên chỉ kiểm điểm học sinh, hoặc có kiểm điểm thì cũng không nên
máy móc. Đôi khi có thể biến giờ sinh hoạt thành những hội thảo nhỏ với những
chủ đề phù hợp với học đường như: chọn nghề cho tương lai, sự lạc quan trong
cuộc sống, những mơ ước tuổi trẻ, làm thế nào để sống đẹp mỗi ngày, văn minh
trong cách tặng quà,... Có thể thay những lời phê bình gay gắt bằng một câu
chuyện nào đó để giáo dục các em.
Như vậy không kiểm điểm mà lại hoá ra kiểm điểm nhưng giờ sinh hoạt rõ ràng đỡ
căng thẳng hơn và lại có hiệu quả.
6. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
Kĩ năng sống của con người nói chung đó là sự tự ý thức vai trò trách nhiệm của
bản thân mình trong việc ứng xử với mọi người xung quanh và môi trường tự
nhiên trong đó con người đang tồn tại. Từ những ngày học đầu tiên ở trường học
sinh đã được bồi dưỡng cả hai mặt đức và tài. Sự phát triển của mỗi người nói
chung và học sinh nói riêng được hình thành thông qua việc tiếp thu tri thức hằng
ngày trong cuộc sống như kĩ năng làm việc hợp tác, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thích
nghi, kĩ năng xử lí tình huống, kĩ năng giữ gìn bảo vệ môi trường… Những kĩ năng
này không chỉ đòi hỏi cho một giai đoạn nào đó mà nó cần thiết cho cả đời người

đặc biệt là chuỗi ngày đi học. Khẩu hiệu “Mỗi ngày đến trường là một ngày
11


vui” xuất hiện ở các trường cũng vì lẽ đó. Kĩ năng sống được biểu hiện đa dạng tuỳ
từng người, từng sự việc và từng hoàn cảnh cụ thể. Nhưng dù trong trường hợp
nào, đối với ai thì kĩ năng sống nhất thiết phải vươn tới chân lý tốt đẹp: nhân ái, vị
tha, bản lĩnh tự tin, khiêm tốn, văn minh lịch sự, dám nghĩ dám làm, hoà đồng và
tôn trọng người khác. Thực tiễn ngày nay cho thấy đôi khi kiến thức uyên bác, học
vị cao lại không làm nên sự thành đạt của con người bằng chính kĩ năng sống của
họ. Cuộc sống ngày càng phát triển, đất nước đang hội nhập với thế giới, cơ hội có
được vị trí trong xã hội và khẳng định bản thân của người lao động đang rộng mở,
nhưng số lượng người thất nghiệp vẫn không ngừng gia tăng. Một trong những
nguyên nhân quan trọng là do họ chưa được trang bị những kĩ năng sống cơ bản
của một người lao động. Chính vì vậy, kĩ năng sống cần được mỗi người chúng ta
rèn luyện ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Trong bốn trụ cột của giáo dục
được Unesco nêu ra là “học để biết, học để làm việc, học để làm người, học để
cùng chung sống” đã có ba nội dung hàm chứa các yêu cầu kĩ năng sống. Điều
này càng khẳng định hơn nữa tầm quan trọng và cần thiết của nhà trường trong
việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Đành rằng hình thành kĩ năng sống phải
qua cả trường học và trường đời nhưng trường học vẫn giữ vị trí nền móng vì hầu
hết mọi người đều được đi học, và nội dung học ở trường phổ thông gồm nhiều
lĩnh vực tự nhiên, xã hội cùng nhiều bài học về lối sống tốt đẹp của những bậc tiền
nhân mà học sinh cần học tập noi theo.
Có thể tiến hành giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm bằng các hình
thức như:
+ Trong các tiết học theo chương trình dự án Plan, các tiết HĐNGLL,…Cần tổ
chức các hoạt động tập thể, ngoại khoá để các em được tham gia vào hoạt động
thực tiễn của cuộc sống, tạo cơ hội bộc lộ chân thật những suy nghĩ, tình cảm, hành
vi trong công việc, chia sẻ những khó khăn và niềm vui cũng như hoàn thiện dần

dần các kĩ năng thực hành một cách tự nhiên. Từ đây, tính ích kỷ cá nhân, ngại
khó, vụng về, rụt rè sợ sệt sẽ nhường chỗ cho lòng bao dung, sự tự tin, dũng cảm,
tháo vát, nhanh nhẹn, khéo léo, tinh tế, hoà đồng và thân thiện. Nội dung hoạt động
cũng khá đa dạng như: hội trại, thể thao, văn nghệ, tham quan bảo tàng và danh
lam thắng cảnh; chăm sóc di tích cách mạng, văn hoá lịch sử; trò chơi tập thể, câu
lạc bộ xanh; thi phòng tránh tai nạn giao thông, diễn thuyết tranh luận về bảo vệ
môi trường, quyền trẻ em, xử lý tình huống khẩn cấp… Có thể tổ chức theo lớp,
khối, toàn trường hoặc từng nhóm nhỏ từ 10 - 15 em và chú ý xác định rõ kĩ năng
12


sống cần đạt được cho học sinh sau mỗi hoạt động. Nên để cho học sinh viết lại,
nói lại những điều mà các em cảm thấy thú vị và bổ ích nhất.
+ Một hình thức nữa để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đó là thông qua hoạt
động dạy học trên lớp. Trong mỗi tiết dạy, ngoài yêu cầu về kiến thức thì yêu cầu
về kĩ năng và thái độ luôn được đặt ra và đó cũng chính là yêu cầu về giáo dục kĩ
năng sống. Do vậy, trong các giờ lên lớp tôi đều có sự liên hệ với thực tế cuộc sống
của học sinh ở cả hai mặt tích cực và hạn chế. Tuỳ theo bài học mà hình thành
những kĩ năng tích hợp cho học sinh như kĩ năng đặt câu hỏi và trả lời, kĩ năng
trình bày, kĩ năng phân tích tổng hợp, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng xử lý tình
huống, kĩ năng tự học, kĩ năng làm việc hợp tác (còn gọi là hợp tác nhóm hay hoạt
động nhóm)… Trong đó, kĩ năng làm việc hợp tác cần được đặc biệt quan tâm vì
đây là kĩ năng sống mang tính thời đại, nó thể hiện cách làm việc theo cơ chế phân
công hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích của từng thành viên và cùng nhau phát
triển. Qua sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên, học sinh được chia thành các nhóm.
Mỗi em được phân công đảm trách một công việc của nhóm (nhóm trưởng, thư ký,
theo dõi thời gian, động viên phát biểu, trình bày trước lớp). Tất cả thành viên
trong nhóm được trình bày suy nghĩ của cá nhân nhưng cũng phải tôn trọng ý kiến
người khác và chấp nhận sự thống nhất chung của nhóm. Mỗi nhóm sẽ cùng nhau
thảo luận để giải quyết một nội dung khó của bài học mà chỉ với mỗi cá nhân có

thể không tìm được lời giải đáp.
+ Ở tiết sinh hoạt lớp, giáo viên cần tạo điều kiện để các em tự đánh giá nhận xét
về bản thân và lớp của mình. Các em có thể trình bày ý kiến về những việc làm tốt
và chưa tốt; cùng nhau xây dựng nội quy của lớp; thiết kế, đề xuất các việc làm,
hoạt động hằng tháng và cả năm học.
+ Chức vụ lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ phó nên được thay đổi theo tháng
hoặc học kỳ để nhiều em được làm quen với kỹ năng điều hành, quản lý công việc
đồng thời ngăn ngừa cách sống tự kiêu, độc đoán có thể xảy ra ngay từ tuổi học
đường.
+ Xây dựng các quy tắc ứng xử với môi trường như giữ gìn vệ sinh trường lớp, bảo
vệ môi trường sống, rèn luyện và bảo vệ sức khoẻ, tiết kiệm năng lượng, phòng
chống tai nạn thương tích. Bên cạnh đó, cần chú ý xây dựng cảnh quan trường lớp
với những hình ảnh mang tính giáo dục và thẩm mỹ, những lời hay ý đẹp như “Bảo
13


vệ môi trường là bảo vệ chính cuộc sống của chúng ta”, “Mỗi lần giao tiếp là mỗi
lần bạn thể hiện mình”, “Bạn có thể vấp ngã, điều quan trọng là bạn phải đứng
lên”...
+ Ngoài ra, cần tạo cơ hội cho các em được bày tỏ ý kiến của mình đối với thầy cô
giáo và nhà trường qua việc thực hiện “Hộp thư những điều em muốn nói” và tổ
chúc tư vấn cho học sinh. Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh phải thông qua việc
làm cụ thể và sự chủ động cao của các em.
- Cách rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh phải từ dễ đến khó. Chẳng hạn khi học
sinh mới vào lớp, trong mục cùng góp ý trong giờ sinh hoạt, tôi yêu cầu học sinh
“Em hãy nói vài ý kiến của mình về những vi phạm của các bạn trong tuần vừa
qua”. Ban đầu, các em còn nói năng lí nhí, mắt không dám nhìn thẳng, gương mặt
căng thẳng. Nhưng sau vài lần, các em không còn những cái nhìn ái ngại, trở nên
dạn dĩ hơn, cảm thấy tự tin và câu nói chắc gọn, cộng thêm một môi trường giáo
dục thân thiện hoà đồng, cho phép các em tiến đến gần và hoà nhập với nhau, sau

đó là những điều khác như đóng góp ý kiến cho tập thể, ý tưởng độc đáo cho các
hoạt động của lớp phong phú hơn, hiệu quả hơn và đặc biệt kỹ năng làm việc
nhóm, các em được trang bị lý thuyết cụ thể, rồi thực hành để hiểu. Với kỹ năng
làm việc nhóm, các em được tập làm việc để biết cách hợp tác và chấp nhận lẫn
nhau trong mọi hoàn cảnh. Mục đích quan trọng nhất là giúp các em tự tin hơn, tự
lập hơn trong cuộc sống, đây là điều rất cần thiết trong cuộc sống của các em sau
này.
7. Kết hợp với Đoàn thanh niên:
Giáo viên chủ nhiệm phải nắm bắt được kế hoạch của nhà trường, Đoàn thanh niên
để phối hợp và phổ biến kịp thời đến học sinh. Thường xuyên động viên, đôn đốc
nhắc nhở các em tham gia tốt các hoạt đông đoàn thể, phong trào thi đua do đoàn
thể phát động. Trên cơ sở đó, lớp lại đề ra các hình thức thi đua giữa các tổ, nhóm
và các cá nhân. Kết thúc mỗi đợt thi đua lại chọn ra những tập thể (tổ, nhóm) và
các cá nhân xuất sắc để biểu dương khen thưởng. Để tạo hứng thú cho học sinh
trong việc xây dựng bài học ở trên lớp, tôi gợi ý các em tính điểm thi đua cho mỗi
lượt phát biểu. Kết quả nhiều giờ học diễn ra sôi nổi và có chất lượng, giáo viên
dạy rất phấn khởi.

14


Trong năm học qua, lớp … đã tham gia nhiều phong trào từ thiện tự nguyện như
….., tham gia ủng hộ bạn nghèo. Tham gia và đạt giải cao trong các đợt thi văn
nghệ chào mừng ngày 20/11, 8/3, 26/3.
8. Phối hợp các lực lượng giáo dục khác.
- Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường: Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa
hiệu trưởng với học sinh, truyền đạt chủ trương chính sách của ngành, nội quy của
nhà trường đến học sinh không phải bằng mệnh lệnh mà bằng sự thuyết phục cảm
hoá, gương mẫu của bản thân mình. Bên cạnh đó, GVCN phát hiện kịp thời các
hành vi xấu của học sinh, phối kết hợp với BGH có biện pháp giáo dục ngăn ngừa

khi học sinh có biểu hiện vi phạm hoặc đề nghị nhà trường xét kỷ luật nghiêm khắc
nhằm ngăn chặn hành vi xấu khác có thể xẩy ra tiếp.
- Phối hợp với giáo viên bộ môn: Biết lắng nghe những nhận xét của giáo viên bộ
môn thậm chí là những phê phán cá nhân, tập thể lớp mình sau đó chọn lọc, phân
tích thông tin để phối hợp tác động giáo dục cùng chiều, khắc phục khó khăn,
vướng mắc của học sinh trong quá trình học tập, đề đạt nguyện vọng của học sinh
với giáo viên bộ môn để nâng cao chất lượng giáo dục. Phối hợp với các giáo viên
khác để dạy học có hiệu quả ở lớp chủ nhiệm. Đề xuất các ý kiến của tập thể học
sinh về công tác dạy và học với giáo viên có liên quan.
Cụ thể do thường xuyên kết hợp được với giáo viên bộ môn nắm được toàn diện về
học sinh. Từ đó đưa ra biện pháp giáo dục, trong năm qua tôi đã giúp cho các học
sinh như em: ………………. từ học lực khá lên học lực giỏi vào cuối năm, có ý
thức đạo đức tốt.
Đối với tập thể lớp thì các em luôn chuẩn bị bài cũ ở nhà, làm bài tập về nhà đầy
đủ, hăng hái phát biểu ý kiến. Cuối năm đã đạt được kết quả cao về học tập và rèn
luyện.
- Phối hợp với cha mẹ học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh phải thống nhất được phương hướng phấn
đấu của lớp đặt trong kế hoạch chung của nhà trường, đặc biệt là thống nhất được
các biện pháp thực hiện. Đây là điều kiện đầu tiên để giáo viên chủ nhiệm có được
sự ủng hộ của phụ huynh trong công tác tổ chức lớp học. Đặc biệt với những học
sinh vi phạm nội quy của trường, lớp, tuỳ theo mức độ vi phạm GVCN thông báo
15


với phụ huynh bằng văn bản (giấy thông báo), bằng điện thoại hoặc trực tiếp gặp
để thống nhất biện pháp giáo dục. Trong thực tế biện pháp này tôi và nhiều giáo
viên đã làm và có hiệu quả: học sinh tiến bộ và phụ huynh cũng cảm thấy thoải mái
mỗi khi được mời đến gặp.
+ Tổ chức và thực hiện tốt các kỳ họp phụ huynh học sinh do nhà trường đề ra.

+ Đi thăm và trao đổi trực tiếp với gia đình học sinh khi cần thiết.
+ Mời phụ huynh học sinh đến trường để trao đổi về việc giáo dục học sinh khi có
những hiện tượng bất thường và khẩn cấp.
+ Liên hệ thường xuyên với Ban đại diên cha mẹ học sinh để tích cực hoá các hoạt
động của hội phụ huynh học sinh trong công tác giáo dục.
+ Mỗi tháng mời bác trưởng Ban đại diên cha mẹ học sinh lớp dự buổi sinh hoạt
lớp vào tuần cuối cùng của tháng.
+ Thiết lập mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình qua sổ liên lạc.
Do vậy trong năm qua tôi luôn nắm bắt được tình hình cụ thể của từng học sinh và
ngược lại gia đình cũng thường xuyên biết được kết quả học tập của con em mình.
Không có hiện tương học sinh đi học không đúng giờ.
- Nhìn chung nếu biết kết hợp các lực lượng giáo dục, chắc chắn công tác chủ
nhiệm sẽ đạt hiệu quả cao.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
Trong năm học ……. với các biện pháp nhằm xây dựng tập thể lớp vững mạnh
trong công tác chủ nhiệm, tôi đã đạt được một số kết quả sau đây:
- Tập thể ……….. luôn là một tập thể đoàn kết, vững mạnh, luôn giúp đỡ nhau và
thi đua học tập cũng như trong các hoạt động khác.
* Kết quả về Hạnh kiểm- Học lực
Học lực

Hạnh kiểm

16


IV. KẾT LUẬN, BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
Nhìn chung biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm thì nhiều, tuỳ theo đặc điểm
tình hình của mỗi lớp, giáo viên chủ nhiệm có thể tìm cho mình những biện pháp
thích hợp, không nên áp dụng rập khuôn máy móc bất kỳ một phương pháp tiên

tiến nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là “con người.” Tuy nhiên điều cơ bản nhất là
giáo viên chủ nghiệm phải tạo được uy tín với học sinh và đồng nghiệp về năng lực
chuyên môn và tư cách đạo đức, tác phong công việc. Chỉ có thể trở thành GVCN
tốt khi thực sự là một tấm gương mẫu mực trong cuộc sống, giải quyết tốt các mối
quan hệ không chỉ đối với học sinh lớp chủ nhiệm mà còn với gia đình, đồng
nghiệp, với mọi người ở nơi cư trú. Có thể thấy mọi cử chỉ, cách ăn mặc, nói năng,
đi đứng, thái độ biểu hiện của GVCN đối với mọi hiện tượng xã hội lúc có mặt học
sinh hay không có mặt học sinh đều có ảnh hưởng đến nhân cách học sinh lớp chủ
nhiệm.
Xây dựng tập thể lớp vững mạnh là hết sức phong phú và phức tạp. Đòi hỏi ngoài
những phẩm chất và năng lực của mọi giáo viên bình thường khác, giáo viên chủ
nhiệm lớp còn phải có lòng nhiệt tình, yêu nghề, yêu trẻ sâu sắc, chấp nhận gian
khó và rèn luyện năng lực hoạt động xã hội, đoàn thể, chính trị, ... để làm tốt công
tác chủ nhiệm của mình.
Trong công tác này giáo viên chủ nhiệm không nên nóng vội, áp đặt, mà cần có
lòng kiên nhẫn, có nghệ thuật giao tiếp với học sinh, luôn đặt quyền lợi của học
sinh lên trên hết, giành nhiều thời gian và tâm sức thì khi đó công tác chủ nhiệm sẽ
không còn khó khăn phức tạp mà sẽ là niềm vui cho mỗi giáo viên khi đến trường.
Trên đây là một số biện pháp nhằm xây dựng tập thể lớp vững mạnh trong công
tác chủ nhiệm mà tôi đã sử dụng và đạt được kết quả rất tốt sau nhiều năm làm
công tác chủ nhiệm. Tôi đưa ra đây để đồng nghiệp và bạn đọc cùng tham khảo.
Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của cấp trên, đồng nghiệp, các bạn đọc để
tôi có dịp bổ sung, sửa chữa và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm hay.
2. Khuyến nghị

17


18




×