Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Cảm thức thân phận trong thơ Nguyễn Bính và Vũ Hoàng Chương trước năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.15 KB, 29 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đã hơn 80 năm trôi qua kể từ ngày phong trào Thơ mới ra đời. Trải qua bao
cuộc thăng trầm trong sự nhìn nhận, đánh giá, đến nay Thơ mới đã tự khẳng định
vị thế của mình trên tiến trình lịch sử văn học dân tộc, trở thành mối quan tâm của
nhiều thế hệ người đọc và thế hệ các nhà nghiên cứu – phê bình.
Sánh ngang cùng những tên tuổi sáng chói như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân
Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử… Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương
xứng đáng có một vị trí vinh dự trong những thi nhân xuất sắc nhất nền thơ Việt
Nam nói chung và phong trào Thơ mới nói riêng.
Cảm thức về thân phận là tâm trạng chung của cả một thế hệ thanh niên trí
thức tiểu tư sản những năm 1932 – 1945. Đó là tiếng nói của những con người
luôn day dứt về thân phận, đau đớn về thời thế, về tài năng uổng phí, công danh lỡ
dở. Cảm thức về thân phận trong thời đại bấy giờ là một biểu hiện của ý thức cá
nhân, ý thức khao khát sống và cống hiến của cả một thế hệ. Tìm hiểu về cảm thức
thân phận là thấy được một phần giá trị nhân đạo, nhân văn của phong trào Thơ
mới.
Ở mỗi một tác giả, cảm thức về thân phận được thể hiện với đa dạng sắc thái
khác nhau. Vậy mà trong sâu thẳm tâm hồn của hai thi sỹ Nguyễn Bính, Vũ Hoàng
Chương, người đọc lại nhận thấy những nét đồng điệu. Qua thi phẩm của họ, người
đọc đều có chung một cảm nhận về một “cái tôi” tha hương, lạc loài, giang hồ, cô
đơn, đau khổ trong tình yêu, trong sự nghiệp, trong cuộc đời.
Đến với đề tài “Cảm thức thân phận trong thơ Nguyễn Bính và Vũ Hoàng
Chương trước năm 1945”, người viết mong muốn làm sáng tỏ giá trị nhân văn
tỏa ra từ tâm hồn của hai thi sỹ. Từ đó, luận văn muốn góp thêm tiếng nói khẳng
định hồn thơ độc đáo của hai tài năng thi ca trong phong trào Thơ mới 1932 -1945.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu về thơ của Nguyễn Bính và Vũ Hoàng
Chương
2.1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu về thơ Nguyễn Bính
Trước Cách mạng 8/ 1945



1


Phần lớn những sáng tác THƠ có giá trị của Nguyễn Bính được ra đời trong
giai đoạn này, và đương thời ông đã nhận được sự mến mộ của đông đảo người
đọc. Tuy nhiên, sự quan tâm của giới nghiên cứu đến với thơ ông chưa nhiều. Điều
này đã được Hoài Thanh lý giải trong “Thi nhân Việt Nam” như sau: “…Cái đẹp
kín đáo của những vần thơ Nguyễn Bính, tuy cảm được một số đông công chúng
mộc mạc, khó lọt vào con mắt các nhà thông thái thời nay”. Việc nghiên cứu về tác
giả Nguyễn Bính chỉ mới dừng lại ở những nhận định mở đầu mang tính khái quát.
Sau Cách mạng 8/ 1945 đến 1975
1945 – 1954, do yêu cầu của cuộc kháng chiến, thơ Nguyễn Bính ít được quan
tâm. Đó cũng là tình trạng chung đối với các tác giả trong phong trào Thơ mới. Sau
biến động của vụ báo Trăm Hoa, Nguyễn Bính dường như càng im hơi bặt tiếng
trên văn đàn.
Ở miền Bắc, trong một số công trình viết về Thơ mới vào những năm 60 của
thế kỷ trước, thơ Nguyễn Bính chỉ được điểm qua và sự khẳng định của người viết
còn hết sức dè dặt. Ở miền Nam, Nguyễn Bính được nhắc tới nhiều hơn trên các
báo, tạp chí và xuất hiện trong một số cuốn sách. Tuy nhiên, để nói tới một công
trình nghiên cứu xứng tầm với Nguyễn Bính thì chưa có.
Từ 1975 đến nay
Sau đổi mới 1986, chính sách mở của văn nghệ đã tạo điều kiện cho giới
nghiên cứu được đưa cây bút trong bầu khí quyển tự do thực sự. Thơ Nguyễn Bính
được nghiên cứu rất rầm rộ và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Hàng loạt những
tuyển tập thơ và những cuốn sách viết về cuộc đời, con người, đặc sắc sáng tạo của
thi nhân liên tục xuất bản.
Rất nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học như Tô Hoài, Hà Minh Đức, Chu
Văn Sơn, Lại Nguyên Ân, Đỗ Lai Thúy, Tôn Phương Lan, Nguyễn Đăng Điệp, Lê
Quang Hưng…đã viết về Nguyễn Bính với tình cảm yêu mến, trân trọng và cảm

phục. Thơ Nguyễn Bính đã được khai thác khá sâu sắc trên nhiều phương diện. Vị
trí của Nguyễn Bính trên thi đàn đã được khẳng định vững chắc.
2.2.2. Khái quát lịch sử nghiên cứu về thơ Vũ Hoàng Chương
Trước Cách mạng 8/1945
Giai đoạn này những sáng tác của Vũ Hoàng Chương chưa được chú ý nhiều.
“Thi nhân Việt Nam” của tác giả Hoài Thanh và “Nhà văn hiện đại” của Vũ Ngọc
2


Phan là những cuốn sách đầu tiên có ý kiến đánh giá về thơ Vũ Hoàng Chương.
Trong những nhận định mang tính khái quát về Vũ Hoàng Chương, giữa hai nhà
nghiên cứu đã thể hiện những quan điểm đánh giá trái chiều.
Sau Cách mạng 8/1945 đến 1975
Thơ Vũ Hoàng Chương bắt đầu được chú ý, đồng thời xuất hiện nhiều hơn
những quan điểm nhìn nhận, đánh giá không đồng nhất.
Ngoài Bắc, tình hình nghiên cứu không sôi nổi bằng trong Nam, những bài
viết về Vũ Hoàng Chương còn hạn chế về số lượng, bị chi phối nhiều bởi quan
điểm chính trị. Tiêu biểu có cuốn “Văn học lãng mạn Việt Nam”, ra đời năm 1966.
Đứng trên quan điểm phê bình Macxit, tác giả đã có cái nhìn tương đối tiêu cực đối
với thơ Vũ Hoàng Chương. Ở miền Nam, tên tuổi và các sáng tác của thi nhân xuất
hiện nhiều trên báo, tạp chí. Tiêu biểu là Tạp chí Văn học Sài Gòn.
Ngoài
ra,
thơ Vũ Hoàng Chương còn được nhắc đến trong một số công trình nghiên cứu của
các tác giả như Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng, Uyên Thao, Tạ Tỵ.
Từ 1975 đến nay
Sau 1975, đặc biệt từ sau đổi mới đến nay, khi cái nhìn đối với Thơ mới trở
nên cởi mở, khách quan, thì thơ Vũ Hoàng Chương cũng được nhắc đến nhiều hơn
trên văn đàn, việc đánh giá thơ ông đã có nhiều chiều hướng tích cực.
Năm 1992, Đỗ Lai Thúy cho ra mắt độc giả cuốn “Con mắt thơ” (Phê bình

phong cách Thơ mới). Đây là công trình đầu tiên có một bài viết công phu, tỉ mỉ về
Vũ Hoàng Chương và thơ ông. Năm 1997, cuốn Một thời đại trong thi ca (về
phong trào Thơ mới 1932 -1945) được xuất bản. Trong đó, tác giả của cuốn sách
đã dành một phần dung lượng để viết riêng về “Thơ tình Vũ Hoàng Chương”. Năm
1998, trong cuốn “Tinh hoa Thơ mới, thẩm bình và suy ngẫm”, tác giả Lê Quang
Hưng đã có một bài viết rất hay về “Say” – thi phẩm được đánh giá là xuất sắc nhất
trong sáng tác của thi sỹ họVũ.
Ngoài ra, trên các trang mạng văn học trong và ngoài nước, hàng loạt các bài
viết về Vũ Hoàng Chương được đăng tải. Số lượng tương đối nhiều, song chưa đạt
được những thành tựu đáng kể.
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề “cảm thức thân phận trong thơ Nguyễn
Bính, Vũ Hoàng Chương trước 1945”.
Vấn đề “cảm thức thân phận trong thơ Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương” đã
được đề cập xa gần trong một số công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước.
3


Trong giới hạn tài liệu hiện có, người viết xin dẫn ra đây một số ý kiến tiêu biểu
nhất.
2.2.1. Trong “Mười gương mặt văn nghệ”, tác giả Tạ Tỵ đã có những lời
đánh giá về Nguyễn Bính và Vũ Hoàng Chương:
“Sinh ra trong một hoàn cảnh khốn khó không đủ phương tiện ăn học, lớn lên
Tình Yêu làm thui chột ước mơ, ở lãnh vực Thi Ca Bính cũng không làm sao thoát
ra khỏi khuôn thước tầm thường của nhân thế. Nhưng đó không phải là cái dở mà
chính là sự may mắn cuối cùng mà Thượng Đế dành cho Bính, tuy rằng sự may
mắn đó Bính phải trả bằng nước mắt với muôn vạn nhục nhằn. Sự lỡ dở do Tình
Yêu, do cuộc đời, do bạn hữu, do bản thân tạo nên, tất cả như tan vào nhau để làm
cho tiếng thơ buồn của Bính vút lên rồi toả ra những làn ánh sáng kỳ diệu giữa trời
thơ nước Việt hôm qua, hôm nay và mãi mãi.” [67]
Sự “đầu thai lầm thế kỷ” mà Vũ đã viết ra, hét to lên trong cơn mê loạn của

thể xác, trong nỗi vò xé của tâm linh trước cuộc sống nghẽn lối, trước cơn bi phẫn
của con chim bị trúng tên rã cánh, nhìn trời cao mà không vút lên được, nhìn trái
ngọt mà không vừa an hưởng, nhìn thân phận trôi đi, trôi đi như ảo ảnh để nuối tiếc
giấc mơ thành bướm thuở nào.”[67]
2.2.2. Nhà phê bình Thanh Việt trong bài viết “Tình yêu trong thơ Nguyễn
Bính” có đoạn ghi:
“Thơ Nguyễn Bính là tiếng lòng buồn bã, lỡ làng của trái tim đang thổn thức yêu
đương và đến với người đọc như một cô gái quê kín đáo, duyên dáng. Thơ tình
Nguyễn Bính được nhiều bạn đọc yêu mến ở cả nông thôn và thành thị, miền Bắc và
miền Nam cũng bởi tính chất mộc mạc, sâu sắc, tế nhị, hợp với phong cách Á
Đông.”[tr162/31]
Cũng trong bài viết này, tác giả Thanh Việt đã có đoạn so sánh giữa thế giới
tình yêu trong thơ Nguyễn Bính với thế giới tình yêu trong thơ Vũ Hoàng Chương:
Thế giới quan chi phối sáng tác của nhà thơ. Vũ Hoàng Chương trốn vào tình
yêu nhưng tình yêu ấy xen nhiều nhục thể và không có chỗ bám víu nào vững chắc,
đi ra ngoài cuộc đời. Nguyễn Bính không ở trong tình cảnh thoát ly, nhà thơ vẫn
gắn bó với cuộc đời. Sự tưởng tượng trong thơ tạo nên một thế giới ảo gần gũi với
cuộc đời thật và có mối liên hệ với cuộc đời thực.[tr165/31]
2.2.3. Trong cuốn “Một thời đại trong thi ca” của tác giả Hà Minh Đức có đoạn
viết:
4


“Vũ Hoàng Chương không tìm được sự hòa hợp với cuộc đời chung cho dù là
một khoảnh khắc và một mảnh đất riêng tư nào. Chuyện thành bại trực tiếp là ở tác
giả song cũng có nguyên nhân sâu xa trong đời. Thời cuộc lúc này như vây hãm
mọi người trong vòng tù túng, tước bỏ những khả năng và uốc mơ sáng tạo. Chính
Xuân Diệu cũng phải thốt lên “Chúng ta nay trong cuộc thế ao tù” và Huy Cận
cũng cầu mong sự giải thoát ở Thượng đế. Tù hãm, bơ vơ, chốn trần thế này chẳng
còn hứa hẹn một điều gì. Vũ Hoàng Chương đã nói lên cảm giác lạc loài của một

kẻ không tìm thấy những mối liên hệ với cộng đồng và rơi vào tình trạng mất
phương hướng, buông xuôi như con thuyền mặc cho đời vỗ sóng.” [tr219/15]
2.2.4. “Ba đỉnh cao thơ mới” của nhà phê bình Chu Văn Sơn là một công
trình nghiên cứu khá đầy đủ về Nguyễn Bính, tác giả cuốn sách đã có những lời
đánh giá rất sâu sắc về thơ ông:
“Nguyễn Bính là tiếng lòng bất an của anh chàng tiểu nông, là tiếng lòng bất
an của thời đại. Đứt rễ khỏi đất cũ, chưa bén rễ vào đất mới, lòng thời héo hon, lá
thời héo úa. Nguyễn Bính là tiếng lòng héo hắt của cuộc biên thiên kia [tr131/69]
…Cái tôi Nguyễn Bính từ bỏ quê để luôn khắc khoải nhớ quê, tìm vào đô thị để
chán chường đô thị, tìm kiếm công danh chỉ gặp dở dang, theo đuổi tình duyên chỉ
gặp lỡ làng; dứt bỏ bồn phận để chạy theo khát vọng: bổn phận không tròn, khát
vọng ta vỡ. Cái gì của ó cũng lỡ dở. Cho nên Nguyễn Bính là cái tôi lỡ dở của thời
đại ấy. Tôi cho rằng chính Nguyễn Bính chứ không phải ai khác, mới là nhà thơ
mang đầy đủ tấn bi kịch của thời đại mình – một tâm trạng bất đắc trí mênh mông
dằng dặc.”[tr144/69]
2.2.5. Tác giả Đoàn Đức Phương trong công trình “Nguyễn Bính hành trình
sáng tạo thi ca” có đoạn viết về Nguyễn Bính như sau:
“Thật đúng khi có ý kiến cho rằng Nguyễn Bính là người lái đò qua lại giữa
hai bờ nông thôn và thành thị trên khúc sông của buổi giao thời: “Bỏ lại vườn cam
bỏ mái gianh/ Tôi đi dan díu với kinh thành” (Hoa với rượu). Nguyễn Bính thường
coi hành động bỏ lại vườn cam để ra sống ở kinh thành của mình là chuyện lỡ
bước sang ngang và bản thân ông là chim kìa đàn. Với một thôn dân như ông,
khuôn mặt thành thị hiện ra thật xa lạ, nó mang nghĩa đối lập với nông thôn (phồn
hoa đối thanh đạm, xứ người đối quê mình), nó gắn liền với những gì dễ đổi thay,

5


bất an, tha hóa… Tất cả những điều đó tạo cho con người cảm giác lạc loài, bơ vơ
và lo âu mà Nguyễn Bính định danh đó là sầu đô thị.”[tr39/49]

Nhìn lại khái quát lịch sử nghiên cứu về hai tác giả Nguyễn Bính, Vũ Hoàng
Chương, có thể thấy: Riêng về Nguyễn Bính, tuy được giới nghiên cứu hết sức
quan tâm, nhưng vấn đề “cảm thức thân phận” hiện nay chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ. Đã có nhiều cuốn sách, bài báo, khóa luận xa gần nói
đến vấn đề này nhưng chỉ dừng lại ở một khía cạnh nào đó. Đối với Vũ Hoàng
Chương, như trên đã thấy, lịch sử nghiên cứu về thi nhân chưa nhiều, và chủ yếu
mới tập trung vào mảng đề tài “tình yêu”, “thú say”, hoặc thẩm bình một số bài thơ
tiêu biểu của tác giả. Tính đến thời điểm này, vấn đề “cảm thức thân phận” trong
thơ trước 1945 của hai thi sỹ vẫn đang bỏ ngỏ và là đề tài đáng được quan tâm.
Đặc biệt, việc nghiên cứu một cách sóng đôi cảm thức thân phận của cả hai thi sỹ
(vốn rất khác nhau về phong cách) thực sự là một đề tài mới mẻ và hấp dẫn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Là các tập thơ của hai tác giả Nguyễn Bính và Vũ Hoàng Chương sáng tác
trong thời kì trước Cách mạng tháng Tám:
Nguyễn Bính: Lỡ bước sang ngang (1940), Tâm hồn tôi (1940), Hương cố
nhân (1941), Một nghìn cửa sổ (1941), Người con gái ở lầu hoa (1942), Mây tần
(1942), Mười hai bến nước (1942).
Vũ Hoàng Chương: Thơ say (1940), Mây (1943).
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn xác định giới hạn phạm vi nghiên cứu chủ yếu là “Cảm thức
thân phận trong thơ” của hai thi sỹ Nguyễn Bính và Vũ Hoàng Chương trong
những tập thơ nêu trên.
4. Nhiệm vụ của đề tài:
4.1. Xác định khái niệm cảm thức thân phận và phân tích cơ sở hình thành
nên cảm thức ấy trong thơ Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương.
4.2. Phân tích những biểu hiện của cảm thức thân phận trong thơ Nguyễn
Bính, Vũ Hoàng Chương.
4.3. Tìm hiểu phương thức thể hiện cảm thức thân phận của hai nhà thơ.
5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp thống kê, phân loại
6


5.2. Phương pháp so sánh – đối chiếu
5.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp
5.4. Phương pháp lịch sử
5.5. Phương pháp hệ thống
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tư liệu tham khảo, Phần nội dung của luận
văn bao gồm ba chương chính như sau:
Chương I: Khái niệm cảm thức thân phận. Những nhân tố tạo nên cảm thức
thân phận trong thơ Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương
Chương II: Cảm thức thân phận trong thơ Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương
nhìn về mặt phương thức biểu hiện
Chương III: Phương thức biểu hiện cảm thức thân phận trong thơ Nguyễn
Bính, Vũ Hoàng Chương
CHƯƠNG I
KHÁI NIỆM CẢM THỨC THÂN PHẬN.
NHỮNG NHÂN TỐ TẠO NÊN CẢM THỨC THÂN PHẬN TRONG
THƠ NGUYỄN BÍNH, VŨ HOÀNG CHƯƠNG
1. Khái niệm “Cảm thức” và “Cảm thức thân phận”
1.1. Khái niệm cảm thức
Cảm thức là sự tổng hòa hữu cơ giữa lý trí mang tính tỉnh táo với cảm
xúc tự nhiên, vô thức. Hay nói theo cách khác, cảm thức là sự nhận thức của con
người một cách đầy đủ, bao gồm cả nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
1.2. Khái niệm “Cảm thức thân phận”
“Cảm thức thân phận” được hiểu là sự nhận thức và cảm xúc của cá nhân
về vị trí, giá trị bản thân mình trong đời sống. Cảm thức thân phận bởi thế là một
biểu hiện tiêu biểu của “cái tôi” cá nhân.

Ý thức cá nhân càng phát triển thì cảm thức thân phận càng phong phú, sâu
sắc, thậm chí chạm tới cả phần vô thức trong con người.
Những người nghệ sỹ, nhất là những văn sỹ, thi sỹ thì ý thức cá nhân lại
luôn thường trực trong tâm hồn của họ. Chính vì thế mà cảm thức thân phận dường
như cũng song hành với suy nghĩ và tình cảm của người nghệ sỹ. Cảm thức thân

7


phận là một thứ “ăng-ten” vô cùng nhạy cảm đối với các nhà văn, nhà thơ trong xã
hội.
2. Cơ sở hình thành cảm thức thân phận trong thơ Nguyễn Bính, Vũ
Hoàng Chương
2.1. Cảm thức thân phận trong văn học Việt Nam trước thời kỳ Thơ mới
Ở mỗi giai đoạn lịch sử, giai đoạn văn học, do sự chi phối của những yếu
tố văn hóa tư tưởng, trình độ tri thức, lý tưởng thẩm mỹ và nhu cầu sống của mỗi
con người mà cảm thức thân phận được bộc lộ với nhiều diện mạo và những cung
bậc khác nhau.
2.1.1 Trong văn học, cảm thức thân phận đã xuất hiện khởi nguồn từ dòng
văn học dân gian, biểu hiện tập trung hơn cả là mảng ca dao than thân, với những
chủ đề tình yêu, hôn nhân và cuộc sống lao động sản xuất của người bình dân. Đó
là những vấn đề gắn bó trực tiếp và liên quan đến tâm tư nguyện vọng của họ.
2.1.2. Các tác gia văn học trung đại phần nhiều là những trí thức Hán học
khoa bảng tài hoa, có người xuất sỹ làm quan to, có người trở thành văn nhân, tài
tử nhưng phần nhiều họ lại đều có chung thân phận, cảnh ngộ bi kịch, trớ trêu,
sóng to, gió cả trong cuộc đời! Thông qua nhiều tác phẩm văn chương của các tác
gia tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cao Bá Quát, Nguyễn Công
Trứ, Tứ Xương, Tản Đà ta cũng có thể thấy được cảm thức thân phận của tầng lớp
trí thức phong kiến xưa.
Đến giai đoạn giữa thế kỷ XVII-XIX, khi dòng văn học nhân đạo chủ

nghĩa ra đời với tên tuổi của những tác gia Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Hồ
Xuân Hương và đặc biệt là Nguyễn Du...cảm thức thân phận của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến được thể hiện hết sức sâu sắc.
2.2. Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương trong cuộc đời chung của những
thi nhân Thơ mới
Đầu thế kỷ XX đến những năm ba mươi của thế kỷ này, hiện thực cuộc
chiến tranh và chính trị u ám đã gây ra không khí lo sợ, bi quan, hoảng loạn trong
toàn xã hội, đặc biệt đối với tầng lớp sỹ phu, nhà nho và cả lớp trí thức tiểu tư sản
đang trong tình trạng mất phương hướng, bế tắc.
Nạn khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 từ Pháp tràn về Đông
Dương khiến đời sống xã hội trở nên khó khăn. Thất nghiệp là mối lo âu chung của
những thanh niên trí thức Tây học. Không thể hòa nhập với xã hội kim tiền ô trọc,
8


họ rơi vào túng quẫn, nợ nần. Tình cảnh ấy được phản ánh chân thực trong một số
sáng tác của các tác giả như Nguyễn Vỹ, Tản Đà, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử…
Vào buổi giao thời, những giá trị văn hóa xưa cũ đã sụp đổ nhưng những
giá trị văn hóa mới chưa kịp hình thành, tất yếu đẩy con người vào tình trạng bơ
vơ, lạc lõng. Hình ảnh “con nai bị chiều đánh lưới/ Không biết đi đâu đứng sầu
bóng tối” trong thơ Xuân Diệu, cùng với hình ảnh “Con nai vàng ngơ ngác/ Đạp
trên lá vàng khô” (Tiếng thu) trong thơ Lưu Trong Lư cũng là những hình ảnh tiêu
biểu cho lớp thanh niên trí thức tiểu tư sản mất phương hướng, không tìm được
đường đi trong xã hội thời ấy.
Cùng chung cảnh ngộ của những người thanh niên trí thức “đầu lòng
của thế kỷ XX”, hai thi sỹ Nguyễn Bính và Vũ Hoàng Chương hơn thế, còn thể
hiện một cảm thức, một tâm trạng bế tắc, lạc lõng và cô đơn đến vô cùng! Trong
nỗi buồn chung của thời đại, Nguyễn Bính và Vũ Hoàng Chương mang những nét
cảm thức thân phận tương đồng. Đó là tâm lý của những con người luôn hướng về
giá trị xưa cũ, tâm lý của con người cá nhân lỗi thời.

Tư tưởng tự do cá nhân lên ngôi, giữa hoàn cảnh xã hội đầy u uất, đau
thương, đã khiến cái tôi mang đậm tâm trạng thời đại: cô đơn, buồn nản, bế tắc,
chán chường… Tâm trạng ấy là kết quả của cuộc hành trình ý thức sâu sắc về giá
trị con người cá nhân trước thực tại đời sống. Phong trào Thơ mới bởi vậy mang
một ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
2.3. Dòng đời không phẳng lặng của hai thi sĩ tài năng: Nguyễn Bính
và Vũ Hoàng Chương
2.3.1. Nguyễn Bính trong tình cảnh côi cút bơ vơ và nỗi lận đận đường tình
a. Tình cảnh côi cút bơ vơ
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo vào buổi cuối mùa, cảnh nhà tuy
chẳng giàu sang nhưng êm ấm. Cha Nguyễn Bính là ông đồ Nguyễn Đạo Bình một nhà nho có cốt cách. Mẹ Nguyễn Bính là bà Bùi Thị Miện, một người phụ nữ
nết na, xinh đẹp, con gái một gia đình khá giả, có truyền thống yêu nước. Bà sinh
hạ được ba người con trai: Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường), Nguyễn Ngọc Thụ
và Nguyễn Trọng Bính.
Khi chào đời vừa tròn ba tháng tuổi, Nguyễn Bính đã mất mẹ do bà bị rắn
độc cắn. Mấy năm sau, vì cảnh nhà neo người cha Nguyễn Bính cưới bà Phạm Thị

9


Duyên làm kế mẫu. Thương tình gia cảnh khó khăn, Bính được cậu Bùi Trình
Khiêm đón về nuôi dạy.
Năm mười bốn tuổi, Nguyễn Bính rời quê theo anh lên Hà Nội kiếm sống,
kể từ đó, hai anh em bắt đầu cuộc sống tự lập đầy khó khăn. Sau này, họ hàng thân
thích của Nguyễn Bính cũng vì cuộc sống mưu sinh mà ly tán mỗi người một ngả.
Quê hương – nơi duy nhất bù đắp tình cảm cho nhà thơ nay không còn nữa,
nỗi buồn ấy đã ám ảnh hồn thơ ông, đặc biệt trong những năm tháng nhà thơ phiêu
bạt giang hồ.

b. Nỗi lận đận đường tình

Là một thi sĩ tài hoa, đa tình, Nguyễn Bính đã từng yêu rất nhiều người, và
cũng rất nhiều người phụ nữ đem lòng yêu Nguyễn Bính, nhưng tình yêu không
thuận buồm xuôi gió đi tới bến bờ của hạnh phúc. Phần lớn những cuộc tình ấy đều
trở thành dang dở, dù người ta yêu Bính, hay mình Bính đơn phương, hoặc có khi
đó là cuộc tính đầy mộng đẹp của cả hai người, thì cuối cũng chỉ là kỷ niệm, những
kỷ niệm đẹp mà buồn. Nguyễn Bính đến với tình yêu lần nào cũng đầy rung động
và rạo rực, như mỗi tình buổi đầu biết yêu, thế nên mỗi sự đổ vỡ đều để lại trong
nhà thơ nỗi đau khổ, day dứt. Bao nhiêu nỗi niềm ấy đã đi vào trong thơ, và tình
yêu đã song hành với rất nhiều sáng tác của Nguyễn Bính.
Thi nhân đi nhiều, và yêu nhiều, cũng đau khổ không ít, sâu thẳm trong trái
tim ông vẫn là nỗi cô đơn trống lạnh khi tình yêu không một lần được trọn vẹn. Đó
cũng là một bất hạnh trong nhiều nỗi bất hạnh của đời Nguyễn Bính, và làm nên thơ
ông.
2.3.2. Vũ Hoàng Chương – nỗi bất hạnh của chàng thi sỹ chung tình
Về phần gia cảnh, Vũ Hoàng Chương có nhiều may mắn hơn Nguyễn
Bính. Ông sinh ra trong một gia đình khoa bảng giàu có, thân phụ là ông Vũ Thiện
Thuật, làm quan tri huyện, có vốn Nho học uyên thâm, sành về văn học. Thân mẫu
họ Hoàng - một tiểu thư vốn dòng khuê các, hay chữ, giỏi đàn tranh, buôn bán gạo
tại bến thóc Nam Định, kinh tế gia đình chủ yếu dựa vào tài buôn bán giỏi giang
của bà.
Tuy nhiên, nỗi lận đận tình duyên đã khiến Vũ Hoàng Chương cũng không
kém phần đau khổ - nỗi đau khổ đã đeo bám đời sống và cả một đời thơ ông. Khác
10


với Nguyễn Bính – chàng thi sỹ đa tình, yêu nhiều và thất bại nhiều, Vũ Hoàng
Chương lại ôm mối sầu muộn bởi sự chung tình. Cuộc tình lỡ dở giữa nhà thơ với
người con gái Hà Thành mang tên Tố Uyên đã ám ảnh những sáng tác của Vũ
Hoàng Chương suốt mấy chục năm.
2.3.3. Đôi cuộc đời phiêu bạt.

Những năm trước cách mạng, bầu không khí ngột ngạt của xã hội cộng với
sự bế tắc trên con đường đi tìm lý tưởng sống, đã cho ra đời một thế hệ nhà văn
thèm đi. Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương cũng mắc cái bệnh thông thường đó:
căn bệnh giang hồ. Họ ra đi với nhiều lý do, đi để thay đổi cuộc đời “tẻ nhạt như
tàu không đổi chuyến” (Huy Cận) hay nói như Hàn mặc Tử là ra đi để “Tìm cái phi
thường, cái ước mơ”, đi để tìm cảm hứng mới, để thực hiện lý tưởng đời mình, mà
cũng có những chuyến “đi chỉ để mà đi” – những cuộc di dời không định hướng…
Mang trên mình hành trang tư tưởng và niềm hi vọng vào những hứa hẹn
trên mảnh đất mới, nhưng càng đi đôi chàng thi sỹ càng lún sâu vào những bi kịch
đời mình, họ cảm nhận thấm thía, sâu sắc hơn cảm giác cô đơn, lạc loài, đau khổ.
Những tháng ngày lang thang phiêu bạt, họ vấp phải nỗi khổ chung là thiếu thốn
vật chất, thiếu thốn tình cảm con người, bi kịch đổ vỡ lý tưởng. Nguyễn Bính trở
thành kẻ tha hương, Vũ Hoàng Chương đắm mình trong những say sưa, trụy lạc để
quên sầu đời.
CHƯƠNG II
NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CẢM THỨC THÂN PHẬN
TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH, VŨ HOÀNG CHƯƠNG
1. Cảm thức cô đơn, lạc loài
1.1.Sống trong thời đại đầy những biến động đau thương của đời sống xã hội,
thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư sản Việt Nam đấu thế kỷ XX vấp phải bi kịch đổ
vỡ lý tưởng, mất phương hướng trước cuộc đời. Sự ra đời và lên ngôi của chủ
nghĩa cá nhân càng dần đẩy sâu con người chìm vào những bế tắc, chán chường.
Ngay từ khi mới xuất hiện, trong những vần thơ của Tản Đà, Thế Lữ, Lưu
Trọng Lư…. đã nhuốm màu tâm trạng ấy. Đến những sáng tác của Xuân Diệu, Huy
Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương,
chủ nghĩa cá nhân đã đi được một chặng đường khá dài, cái tôi trữ tình rơi vào
11


trạng thái cô đơn, lạc loài đến tận cùng. Trong cảm thức của mỗi thi nhân, tâm

trạng chung đó lại được biểu hiện với nhiều sắc thái, cung bậc khác nhau.
1.2.Con người trong thơ Nguyễn Bính tồn tại sự bất biến một cách có ý
thức, giữ mãi nét chân quê. Nhà thơ tôn thờ quá khứ đến mức chối từ mọi sự đổi
thay của thời thế, trong khi đến cả ông giời cũng đổi thay. Không đơn giản là
chối bỏ, mà một cách tự nhiên nhất, con người ấy không thể tiếp nhận cuộc sống
mới, vì thế mà trở nên lẻ loi, lạc loài. Nhân vật trữ tình trong thơ Vũ Hoàng
Chương cũng là con người lạc lõng, khép lòng trước hiện tại, hướng về những
giá trị truyền thống. Đây chính là điểm chung trong cảm thức về thân phận của
hai nhà thơ.
Tuy nhiên, giữa chàng trai thôn dân Nguyễn Bính, với chàng trai thị thành
Vũ Hoàng Chương, cảm thức thân phận cô đơn lạc loài vẫn mang nhiều điểm
khác biệt độc đáo.
Nếu như Nguyễn Bính hướng về với ngày xưa của nông thôn Việt Nam mà
chối bỏ thị thành, thì dường như Vũ Hoàng Chương lại đề cao những giá trị mang
tính khuôn thước, cổ kính của văn hóa Đông phương.
Nếu như Nguyễn Bính vấp phải bi kịch của một kẻ thôn dân bị vứt bỏ giữa
chốn thị thành, không thể nhập cuộc mà trở nên lạc lõng, thì Vũ Hoàng Chương lại
vấp phải bi kịch của một con người luôn ý thức cao về cá nhân, muốn được đem
cái tài của mình ra khẳng định với đời nhưng không được thỏa mãn nên cảm thấy
bơ vơ, lạc loài như kẻ “đầu thai lầm thế kỷ”.
Những năm tháng tuổi thơ sống gắn bó với miền quê thôn Vân đất mẹ đã nuôi
dưỡng tâm hồn dung dị, mộc mạc trong Nguyễn Bính. Những tư tưởng và nếp sinh
hoạt bao đởi đã ăn sâu trong thi sỹ từ rất sớm. Buổi giao thời với những đổi thay
của đời sống xã hội đã khiến chàng trai thôn dân Nguyễn Bính dứt áo từ bỏ “vườn
cam”, “mái gianh” để đi “gian díu với kinh thành”, mong ước xây mộng đẹp đời
mình. Nhưng một kẻ nặng lòng với quá khứ như Nguyễn Bính tuy háo hức với những
cái mới đang hình thành, vẫn không thoát khỏi nỗi niềm khắc khoải, day dứt trước
những giá trị cũ đang mất đi. Bước chân vào đời sống đô thị với nhiều hi vọng và mơ
ước, nhưng Nguyễn Bính ngày càng trở nên xa lạ, lạc lõng trước sự tha hóa và đổi
thay của nó. Mà trước hết là ở sự đổi thay của tình người, trong đó có tình cảm bạn

bè, tình yêu đôi lứa. Gía trị của đồng tiền ngày càng lẫn át những giá trị nhân văn tốt
đẹp khác, và đó cũng là lúc Nguyễn Bính nhận ra cái bạc, cái bất hạnh của kiếp đời thi
12


sỹ. “Sự cô đơn, lòng sầu xứ, tâm trạng lưu đày, nỗi bế tắc, cảm giác không hòa
nhập được với cuộc sống phồn hoa đã mang tới cho cái tối trữ tình Nguyễn Bính
hơi thở chua chát, thê lương và đốt cháy lên ngọn lửa khao khát ngày về”. Con
người ấy mặc dù không thể hòa nhập với thị thành, nhưng từ sâu thẳm tâm hồn, cát
bụi kinh thành đã tạo nên khoảng cách lớn giữa Bính với thôn quê, khiến Nguyễn
Bính khao khát mà chẳng thể trở về. Thi sỹ mang nặng mặc cảm tha hương, bất
nghĩa lỗi đạo. Cảm thức cô đơn, lạc loài trong thơ Nguyễn Bính gắn liền với cảm
thức tha hương.
1.3.Xuất thân từ gia đình quan chức, sống trong nhung lụa từ thuở lọt lòng, lại
được học hành đủ đầy bằng cấp, nên trong dòng máu của chàng thanh niên họ Vũ
vốn chứa đựng chút tự tin, kiêu ngạo. Giữa cuộc đời tẻ nhạt, tầm thường, cái tôi
kiêu ngạo ấy không có chỗ đứng, nó càng ý thức về mình lại càng trở lên xa lạ, lạc
lõng, sống giữa đời mà như vô nghĩa, bơ vơ như kẻ đầu thai lầm thế kỷ:
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ.
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ,
(Phương xa)
Vũ Hoàng Chương chọn cách ra đi để tìm lý tưởng đời mình, nhưng càng đi
càng mất phương hướng. Như con thuyền nhỏ lênh đênh giữa biển cả mênh mông,
có lúc Vũ bất lực buông xuôi cuộc đời mình cho số phận, chẳng còn “xá gì phương
hướng nữa”. Nhưng một kẻ vẫn luôn thiết tha với cuộc đời thì trong sâu thẳm tâm
hồn vẫn nhiều khi nhen lên niềm hi vọng mỏng manh. Theo thời gian, trước sự va
đập phũ phàng của thực tế đời sống, bao nhiêu hi vọng và niềm tin ban đầu đều bị
dập tắt. Vũ rơi vào tuyệt vọng với nỗi sự đau khổ tận cùng. Thi nhân tìm đến rượu,
thuốc phiện như một liều thuốc tinh thần. Cuối cùng thì nỗi đau trong lòng nhà thơ
vẫn hằn in nhức nhối, không thứ gì có thể giải tỏa được.

Sao lòng ta đêm nay buồn không thể nguôi?
Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi.
(Túy hậu cuồng ngâm)
2. Cảm thức về ái tình đau khổ
2.1.Cũng như nhiều thi nhân ngày ấy, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương tìm
cho mình lối thoát trong tình yêu – con đường thoát ly quen thuộc của Thơ mới.
Nhưng sống giữa cuộc đời muôn vàn nỗi đau khổ, tình yêu cũng không đủ sức cứu
cánh cho những tâm hồn ấy. Hay như lời Hoài Thanh: “….động tiên đã khép, tình yêu
13


không bền, điên rồi lại tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ…”, họ trở thành con người thất bại, lỡ
làng, mất mát trong tình ái.
Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương bước đời mình vào yêu đương với những
trái tim chân thành, nồng cháy, yêu bằng tất cả sự thơ ngây và bằng cả những trải
nghiệm. Hai chàng thi sỹ ấy đã hiến dâng cho vị thần tình ái trọn vẹn trái tim si mê,
rạo rực của tuổi trẻ, nhưng hạnh phúc không thân thiện mỉm cười với họ.
2.2.Thơ Nguyễn Bính viết nhiều về tình yêu, nhưng không mấy khi người ta bắt
gặp ở đó nụ cười mãn nguyện mà chỉ thấy nhiều buồn đau và nước mắt. Bởi phần lớn
những cuộc tình là đơn phương thầm lặng, hoặc người ta bỏ nhà thơ mà đi, cho nên
cái ấn tượng về sự khổ đau nó hằn in trong tâm trí, đi vào thơ một cách tự phát. Con
tim đa tình kia đã bao lần trao gửi, nhưng không nơi nào cho nó một bến đỗ bình yên.
Hết lần này đến lần khác, trái tim đa cảm ấy rơi vỡ và ngày càng mang nhiều thương
tích.
Yêu thương và oán hận, Nguyễn Bính yêu say mê, đắm đuối để rồi khi người
ta phụ bạc, bao nhiêu yêu thương ấy uất nghẹn thành nỗi căm hận, có khi bật ra
thành tiếng chửi cay đắng, thái độ bất cần. Thi nhân viết những câu thơ đầy mỉa
mai gửi đến người đã cùng chung mộng uyên ương một thời. Nhưng trong sâu
thẳm lòng thi sỹ, vẫn nhiều đêm dâng lên nỗi niềm chua chát. Đằng sau những lạnh
nhạt, mai mỉa bên ngoài, là cả nỗi niềm suy tư, sầu muộn, cả thế giới niềm tin đổ

vỡ. Dù có đôi khi Nguyễn Bính viết những lời thơ gay gắt, nhưng nhìn lại, cái
buồn đau trong thơ ông phần nhiều là sâu lắng, ngậm ngùi, tủi khổ.
Ở vào chặng đường cuối của Thơ mới, khi cái tôi cá nhân đã rơi vào tình cảnh
bế tắc cực độ, những bài thơ tình của Vũ Hoàng Chương dường như rơi vào trạng
thái tuyệt vọng, nỗi đau dằng xé, day dứt, có những lúc tê dại, mê man. Suốt mười
năm, hai mươi năm, ba mươi năm, Vũ Hoàng Chương vẫn khắc ghi trong tâm trí hình
ảnh một người con gái. Yêu và chung thủy đến tuyệt đối, tình yêu với Vũ là nguồn
sống, nguồn năng lượng duy nhất để cứu rỗi linh hồn đầy chán nản, bế tắc trước cuộc
đời. Và lý tưởng sống đó đã tiêu tan, vào cái ngày mười hai tháng sáu - ngày người yêu
đi lấy chồng. Tuyệt vọng đến không cùng, chàng xây nấm mồ tình yêu để nó ngủ
yên trong dĩ vãng. Nhưng con tim không làm theo lý trí, Vũ chỉ chôn nổi đời mình,
mà không chôn nổi tình yêu. Nước mắt chàng trai trẻ vẫn chảy dài mỗi đêm, giọt
nước mắt mặn mòi nhỏ xuống vết thương tình ái làm nó càng thêm xót xa, đau
đớn.

14


Bao nhiêu cố gắng trong đời thực không đáp đền cho thi sỹ một tình yêu hạnh
phúc tuyệt đối. Trốn vào cõi mộng là phương cách hóa giải nỗi đau mà nhiều thi nhân
Thơ mới ngày ấy cũng tìm đến. Nhưng khác với những nàng tiên lộng lẫy, với cảnh
thiên thai trong mộng của Thế Lữ, thế giới mộng của Vũ Hoàng Chương là những
quỷ, ma, hồn. Tìm đến với tình yêu trong cõi mộng cũng là một thể nghiệm của thi
nhân trên con đường tìm kiếm sự hòa hợp. Nhấn chìm hồn mình trong ảo mộng, thơ
Vũ dần tiến đến bến bờ của chủ nghĩa siêu thực. Nhà thơ dường như vứt bỏ hoàn toàn
thực tại, siêu thoát mình vào cõi hư vô. Từ Say đến Mây, thơ Vũ Hoàng Chương đã đi
một bước khá dài. Vào chặng đường cuối của Thơ mới, sự chạy trốn, chối bỏ thực tại
đến tuyệt cùng đã thể hiện con đường bế tắc không thể giải thoát của chủ nghĩa cá
nhân.
2.3.Trước thực tại tình yêu đầy bất hạnh, Nguyễn Bính cũng tạo cho mình một

thế giới mơ. Trong đời thực người ta không yêu nhà thơ, Nguyễn Bính mơ để yêu
và được yêu. Nhưng trạng thái mơ của Nguyễn Bính vẫn có nét thực tế, nó gắn liền
với không gian sống của con người, xuất phát từ chính những khát khao hạnh phúc
lứa đôi của thi nhân, chứ không chập chờn như giấc mộng liêu trai của Vũ Hoàng
Chương. Ngoài những giấc mơ gắn liền với đời thực, có lúc trong thơ Nguyễn
Bính xuất hiện những giấc mơ mang tính chất huyền mộng. Như trong bài thơ Cô
hái mơ, Người hàng xóm.
Từ giấc mơ giàu tính chất đời thường, đến giấc mơ huyền mộng là một chặng
đường biến đổi trong hồn thơ Nguyễn Bính. Những ước mơ tươi đẹp, nhiều nét
chân thực, sinh động khởi phát từ một tâm hồn tuổi trẻ giàu niềm tin và hi vọng
vào cuộc sống. Cái mơ ấy có phần tỉnh táo của lý trí, vừa là ao ước, vừa là dự định
trong đời. Nhưng trước những va đập lạnh lùng của đời sống, ước mơ đó trở thành
giấc mộng xa vời. Trái tim thi sỹ dần nhuốm đầy khổ đau, ngày càng trở nên cô
đơn tận cùng, tạo thành một ấn tượng, ám ảnh trong vô thức. Bởi vậy, mà một cách
tự phát, giấc mơ của Nguyễn Bính hướng về mộng ảo, tự phân đôi mình để có đối
tượng tâm tình. Tuy nhiên, có thể nói rằng, từ giấc mộng trong thơ Nguyễn Bính
đến giấc mộng trong thơ Vũ Hoàng Chương còn là một khoảng cách lớn.
2.4. Tình yêu nhục thể là vấn đề được đề cập nhiều trong Thơ mới. Với sự du
nhập của những tư tưởng Tây học phóng khoáng, tình yêu thân xác trở thành thứ
tình cảm được đề cao và bộc lộ một cách tự nhiên, chân thực, với những hình ảnh
của trai gái, ái ân, thể xác….Tuy nhiên, điểm giống nhau đặc biệt giữa Nguyễn
Bính và Vũ Hoàng Chương lại khác biệt so với quan điểm về tình yêu của các thi
15


sỹ cùng thời. Không kém phần mãnh liệt, đắm say, si mê nhiều khi đến cuồng dại,
thế nhưng viết về ái tình nhục dục dường như không được hai thi sỹ này hưởng
ứng
Trong con người nhà quê Nguyễn Bính vẫn tôn thờ thứ tình cảm yêu đương
trong trắng, thuần khiết, điều ấy cũng phù hợp với tâm lý của thi nhân. Trong thơ

Vũ Hoàng Chương, tuy có sự xuất hiện của tình yêu nhục cảm, nhưng đó không
phải là cái đích cuối cùng thi nhân tìm đến, mà chỉ là một thể nghiệm trên con
đường kiếm tìm tình yêu lý tưởng. Thi nhân chấp nhận tình dục là một mặt của tình
yêu, nhưng mặt khác lại ghê tởm mặt sinh lý của nó. Con đường thể nghiệm đi tìm
thế giới lý tưởng và sự hòa hợp của thi sỹ rơi vào bế tắc.
3. Cảm thức về công danh lỡ lở, tài năng uổng phí
3.1.Là những thanh niên trí thức tiểu tư sản, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương
đều được học hành đầy đủ, am hiểu về chữ nghĩa, văn chương. Và như bao thanh
niên trẻ ngày ấy, họ sớm mang trong mình nhiệt huyết, khát vọng thành danh. Giữa
thời đại cái tôi lên ngôi, họ càng khao khát hơn được khẳng định tài năng, vị thế
của mình trong xã hội. Nhưng chính cơn chuyển mình đầy biến động của thời thế,
đã đẩy những con người ấy vào biết bao bi kịch. Họ lâm vào cảnh ngộ của những
con người đổ vỡ lý tưởng, uổng phí tài năng, công danh lỡ dở.
Đọc thơ Nguyễn Bính, người ta thấy ông mơ nhiều tới hình ảnh Quan Trạng.
Giấc mộng Trạng nguyên là ước mơ thành danh bao đời của các chàng Nho sinh
trong xã hội cũ.
Sớm được tiếp thu nền Hán học uyên thâm từ Người cậu Bùi Trình Khiêm, lại
sinh ra trong gia đình có truyền thống khoa bảng mấy đời hiển đạt, nên giấc mộng
Trạng Nguyên ám ảnh tâm tư, ước vọng của Nguyễn Bính một cách sâu sắc. Ước
muốn trở thành Trạng Nguyên trong ông không chỉ là khát vọng được khẳng định
tài năng, có một vị trí cao trong xã hội, mà có lẽ còn xuất phát từ chính cái nghèo.
Một điều dễ nhận thấy, là trong thơ Nguyễn Bính, giấc mộng công danh luôn hòa
quyện, vấn vít cùng giấc mơ ái tình. Hình ảnh Quan Trạng thường được đặt sóng đôi
cùng bóng giai nhân. Khi chàng nho sinh trở thành Quan Trạng, cũng là khi chàng có
trong tay tình yêu viên mãn. Thậm chí có lúc trong giấc mơ vinh hoa của Bính, chàng
Trạng Nguyên còn trở thành phò mã: “Ngựa bạch buông chùng áo trạng nguyên…
“Lòng Trạng lâng lâng màu phú quý” chờ “Công chúa cái trâm thả tú cầu”.

16



Thời thế nay đã đổi thay, giấc mơ của thi sỹ chỉ sống trong những ngày xa
xưa. Niềm hạnh phúc trong mơ khi ở vào đỉnh điểm của nó, lại va vấp và đổ ngã
trước thực tế phũ phàng. Cả ba con đường lý tưởng, công danh, tình yêu đều đi vào
ngõ tối, nhà thơ ngậm ngùi, cay đắng mang kiếp đời bất hạnh.
3.2.Nếu như Nguyễn Bính xây mộng đời mình với ước mơ trở thành Quan
Trạng, thì lý tưởng công danh của Vũ Hoàng Chương xuất hiện với giấc mộng
“phong hầu”:
Gối vải mộng phong hầu,
Vàng son mờ gác xép
Trước Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát cũng là những nhà
Nho có tài, bởi vỡ mộng công danh, mà dẫn đến tâm trạng u uất, bế tắc, lâm vào
con đường phá phách, ngông cuồng, hoặc đề cao triết lý hưởng lạc thậm chí tới
mức cực đoan “Nhân sinh bất hành lạc, thiên tuế diệc vi thương”.
Sinh vào buổi giao thời, Vũ Hoàng Chương được truyền thụ cả hai nền học
vấn Hán học và Tây học, ở phương diện nào thi sỹ cũng là kẻ tài hoa. Khát khao
được đem cái tài hoa khẳng định với đời, nhưng hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ
không dành cho Vũ Hoàng Chương những ưu ái. Hán học nay đã lỗi thời, Vũ
không thể theo nghiệp cha làm một ông quan huyện nghiêm trang đĩnh đạc, một
mặt những tư tưởng lãng mạn của phương Tây đã sớm thấm nhuộm tâm hồn chàng
thi sỹ từ khi còn rất trẻ, nên trong Vũ Hoàng Chương luôn khao khát một cái gì đó
lý tưởng hơn, khác lạ hơn, tài hoa hơn. Đứng giữa đôi bờ thời đại, thi nhân cũng
rơi vào tình trạng như Nguyễn Bính, muốn tìm thấy sự cưu mang từ cả hai phía,
nhưng cuối cùng chỉ rơi vào lạc lõng, bế tắc, quay mặt bốn phương thấy chông gai
mịt mù.
Cố gắng bao nhiêu mộng không thành, thi nhân chán chường, thất vọng, ngoài
nỗi đau thời cuộc, có lúc trong thơ Vũ còn viết những lời thơ bất mãn, mỉa mai
chính mình, tự cho rằng mình là kẻ bất tài vô dụng. Thậm chí, có lúc thi nhân như
muốn rũ bỏ, phá tan tất cả, buông xuôi cuộc sống, không còn thiết tha nuôi lý
tưởng trong đời. Ở chính phút giây thi nhân tuyệt vọng nhất, quyết định dứt bỏ mọi

ước mơ, cố gắng, cũng là lúc chìm vào men rượu. Con người ấy thực chất không
bao giờ chấp nhận sống vô nghĩa trước cuộc đời, nên đâu thể dễ dàng rũ bỏ mọi
thứ. Sau mỗi cơn say dài, nỗi đau trong lòng thi nhân càng thêm nhức nhối.

17


CHƯƠNG III
CẢM THỨC THÂN PHẬN
TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH, VŨ HOÀNG CHƯƠNG
NHÌN VỀ MẶT PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN
1. Hình ảnh và biểu tượng
1.1. Tìm hiểu hình ảnh và biểu tượng trong thơ chính là đi vào đặc trưng cơ bản
nhất của văn học, bởi văn học phản ánh hiện thực và bộc lộ thế giới nội tâm của nhà
thơ thông qua việc xây dựng hệ thống hình ảnh và biểu tượng bằng ngôn từ nghệ
thuật.
Mỗi nhà thơ đều có cách biểu hiện, khai thác và sử dụng biểu tượng theo sự
nhận thức riêng của mình, mang dấu ấn cá nhân và sự trải nghiệm của từng thi
nhân. Các nhà thơ lãng mạn của Phong trào Thơ mới (1932-1945), nhất là với
Nguyễn Bính và Vũ Hoàng Chương, hình ảnh thơ vừa kế thừa những hình ảnh của
văn học truyền thống, vừa có sự liên tưởng, sáng tạo độc đáo, từ đó đem đến những
biểu hiện mới, những rung cảm thẩm mỹ mới.
1.2. Mất hướng đi trong cuộc đời, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương dấn thân
vào bước giang hồ, gắn đời mình với những chuyến đi. Cuộc hành trình phiêu bạt ấy
đã gắn bó đôi chàng thi sỹ với hình ảnh dòng sông, bến nước, con thuyền. Và khi đi
vào thơ, đó không đơn thuần là những hình ảnh thực tế mà đã trở thành biểu tượng
cho sự lênh đênh, nổi trôi không hạn định của cuộc đời.
Trở về với ca dao, Nguyễn Bính tiếp nhận hình ảnh con thuyền, nhưng đã đem
đến cho những ý nghĩa biểu đạt mới mẻ, hình ảnh con thuyền là biểu tượng cho sự trôi
dạt “ngược xuôi” không định hướng, lạc lõng giữa dòng đời muôn trùng sóng gió.

Trong thơ Nguyễn Bính, hình ảnh dòng sông, con thuyền không chỉ mang ý
nghĩa về cuộc đời nổi lênh, phiêu bạt, mà dường như còn chuyên chở biết bao nỗi
niềm về chuyện tình ái. Hai hình ảnh gắn bó với nhau tạo nên motip lỡ làng của
tình duyên đôi lứa. Thuyền kia không còn là thuyền tình, nó trở đầy bất hạnh, đớn
đau, sông kia không còn là nơi hò hẹn – chiếc cầu tơ duyên cho nhiều gái trai.
Xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính, dòng sông đã trở thành ranh giới cách ngăn,
thành rào cản, là nơi đánh dấu sự trắc trở, chia phôi.
Ta bắt gặp trong thơ Vũ Hoàng Chương nhiều nhất cũng là hình ảnh con thuyền.
Con thuyền thực đưa thi nhân đi những chuyến giang hồ, con thuyền mộng đưa thi
18


nhân vào cõi mơ và thơ. Cả con thuyền thực và con thuyền mơ đều là phương tiện để
đưa tác giả chạy trốn khỏi thực tại chán chường, bế tắc!
Cũng có nhiều khi hình ảnh con thuyền trong thơ thi sỹ Vũ Hoàng Chương đầy
thơ mộng. Nhà thơ đã đẩy con thuyền tới cõi mơ, với biết bao sương khói bao phủ và
mặc nó trôi mãi về phương trời xa. Con thuyền mơ ấy đã trở thành cầu nối đưa hồn thi
nhân thoát khỏi thực tại, phiêu du nơi mộng ảo để lánh đời. Vũ Hoàng Chương đã “thi
vị hóa” con thuyền giang hồ cuộc đời mình bằng những hình ảnh thiên nhiên mềm
mại, đầy sắc hương. Nhưng bao trùm lên tất cả hình ảnh con thuyền trong thơ Vũ vẫn
là hình ảnh con thuyền say, lạc giữa mênh mông dòng đời, mất phương hướng.
1.3. Viết về tình yêu, trong thơ Nguyễn Bính xuất hiện nhiều lần cặp hình
ảnh “bướm” và “hoa”, đã trở thành những hình ảnh và biểu tượng thể hiện cho tình
yêu lứa đôi, cho anh và em, cho chàng và nàng. Đây là biểu tượng về tình yêu quen
thuộc trong ca dao Việt Nam xưa. Lấy tư liệu từ nguồn văn học dân gian nhưng
Nguyễn Bính đã gắn cho nó những ý nghĩa, xúc cảm mới. Xưa kia, nói đến hoa và
bướm, người ta liên tưởng ngay đến thứ tình yêu lãng mạn bay bổng, sự quấn quýt
lứa đôi. Đến thơ Nguyễn Bính, “bướm” và “hoa” không mấy khi thành đôi, nên
“vợ” thành “chồng”, mà thường xa nhau. Cũng có lúc hình ảnh “cánh bướm” trong
thơ Nguyễn Bính được nhắc đến như chiếc cầu tơ duyên, nhưng nó mới chỉ mối

mai cho cái ý tình mà chưa thành yêu đương, cũng chẳng thể vẹn tròn, câu chuyện
“bướm – hoa” phần nhiều là lỡ dở, khổ đau.
Trong quan niệm của người xưa bướm không mấy thủy chung, thường tượng
trưng cho người con trai bạc bẽo, dễ đổi thay. Nhưng trong thơ Nguyễn Bính
không chỉ có chàng trai mới là kẻ ong bướm qua đường, mà chính người con gái
cũng dễ dàng phụ bỏ người yêu. Và nhà thơ không biết đã bao lần bị người ta phụ
bạc.
Nhà thơ tự ví phận mình như cánh bướm giang hồ, mang thân lạc loài thì
biết khi nào và đến bao giờ mới gặp được bông hoa mỹ nhân ở nơi khuê các? Với
hình ảnh “Hoa khuê các, bướm giang hồ” trong dòng thơ trên, nhà thi sỹ đã bộc lộ
một nỗi buồn mênh mang, mang dư vị chua chát về thân phận mình.
1.4. “Bướm trắng” đi với “tơ vàng”, hình ảnh “sợi tơ” cũng xuất hiện rất
nhiều lần trong thơ Nguyễn Bính, như một biểu tượng của chuyện tình yêu. Trong
ca dao xưa, người bình dân thường chọn “tơ” như một biểu tượng để bộc lộ nỗi
lòng tương tư. Sợi tơ mỏng mảnh, vướng mắc cũng như thứ tình cảm vô hình mà
19


không thể dứt bỏ của lòng người. Sự liên tưởng độc đáo mối tương tư của con
người với “sợi tơ” xuất phát từ chính công việc lao động nghề canh cửi, xe tơ dệt
lụa. Nếu như sợi tơ tằm dệt nên mảnh lụa đẹp, thì sợi tơ lòng cũng dệt nên một tấm
yêu đương.
Trong ca dao, “sợi tơ” không đơn thuần là sự vấn vương của tình cảm gái
trai, mà nhiều hơn nó còn là định mệnh, là sợi dây gắn kết vô hình tạo hóa đã dùng
để nối buộc số phận hai con người. Vậy mà khi đi vào thơ Nguyễn Bính, “sợi tơ”
lại là biểu tượng cho sự nhỡ nhàng. Vì nghèo lại trót mang kiếp long đong, Nguyễn
Bính chẳng mong lấy được sợi tơ tình từ tấm lòng của người con gái. Lòng cô
chẳng có dây tơ để chàng thi sỹ có thể sang xin một ít cho đàn có dây.
Viết về tình yêu trong thơ Nguyễn Bính, phần lớn là ân ái nhỡ nhàng, dở
dang duyện phận. Cảm thức về ái tình đau khổ đã chi phối một cách tự nhiên nhất

đến việc lựa chọn, sử dụng hình ảnh. Chịu ảnh hưởng từ ca dao, những hình ảnh
mang tính biểu tượng như “bướm”, “hoa”, “dây tơ” xuất hiện trong thơ Nguyễn
Bính đã góp phần bộc lộ sâu sắc hơn cảm thức thân phận ấy.
1.5. Đến với những vần thơ tình yêu của Vũ Hoàng Chương, người đọc cũng
không ít lần chứng kiến chàng thi sỹ ôm mối tình đau khổ vùi chôn thành nấm mồ
dĩ vãng. Hình ảnh nấm mồ đã tạo được cảm giác và ấn tượng trong tâm thức người
đọc. Với mong muốn có thể rũ bỏ mọi khổ đau, Vũ Hoàng Chương đã xây nên nấm
mồ tình ái, chôn đi quá khứ buồn thương, và cũng để chôn một phần của đời mình.
Nấm mồ kia là nấm mồ tình ái, nên thi nhân phải vùi chôn nó bằng chính
những nỗi đau đớn của lòng mình, chất chứa lên nó biết bao sự kìm nén. Đẩy tình yêu
xuống tận cùng đáy huyệt, cùng là nhấn sự khổ đau xuống tận đáy tim. Nấm mồ ấy,
bởi thế chính là biểu tượng cho trái tim đã chết của chàng thi sỹ. Bao nhiêu bất hạnh
trong cuộc tình đã hóa cả vào những vần thơ. Vũ Hoàng Chương lấy thơ để xoa dịu
nỗi đau, để trải lòng. Bởi thế mà thơ đến với Vũ như một phương cách để chôn vùi
quá khứ.
Ta cũng từng gặp trong thơ Nguyễn Bính hình ảnh nấm mồ. Tuy không xuất
hiện nhiều thành hệ thống, nhưng nó cũng mang ý nghĩa của một tình yêu đã mất.
Nếu như Vũ Hoàng Chương chôn tình vỡ bằng thơ thì Nguyễn Bính xây nấm mồ
ấy bằng trăm ngàn giọt nước mắt đớn đau, sầu tủi.
Trong tâm thức của Vũ Hoàng Chương, con người thực đang tồn tại của thi
nhân dường như đã chết. Và linh hồn ấy nhiều lần phiêu du vào cõi mộng ảo, có
20


lúc lang thang giữa đôi bờ mơ – thực, để cảm nhận được sự tồn tại của nhưng linh
hồn bất hạnh khác nơi cõi âm. Hình ảnh “nấm mồ” trong bài thơ “Bạc tình” hiện
lên đầy ám ảnh.
Một buổi chiều thăm mộ người thương xưa, nhà thơ thấy mình mắc nợ
người đã chết. Nay linh hồn nằm sâu dưới mồ lên tiếng khóc than đòi trả lại yêu
đương. Có lẽ đây cũng chính là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật linh hồn bất

hạnh đó. Dù tình yêu và nỗi đau đã chôn vùi sâu lắm, nhưng nỗi uất hận vẫn chẳng
thể nguôi ngoai, vẫn mong ngày nào đó được người xưa trả nợ ái tình.
Có thể thấy, hình ảnh nấm mồ cũng là một trong số những hình ảnh có tần số
xuất hiện khá nhiều lần trong thơ Vũ Hoàng Chương. Nó biểu tượng cho sự diệt
vong, bi thảm. Hình ảnh nấm mồ tạo nên một cảm giác u buồn, đau xót trong tâm
hồn, tình cảm của nhà thơ họ Vũ.
1.6. Sinh ra làm kiếp đời thi sỹ, dường như đã sẵn phải mang bất hạnh vào
mình, bởi cái nghề thơ đã bạc, lại cộng thêm tâm hồn thi sỹ đa sầu đa cảm, niềm
vui thì chốc lát, còn nỗi buồn cứ thấm tận tâm can. Nguyễn Bính, Vũ Hoàng
Chương đã không ít lần cất tiếng khóc trong thơ. Hình ảnh giọt nước mắt bởi thế
cũng rất có ý nghĩa trong việc bộc lộ cảm xúc thân phận đau khổ của đôi chàng thi
sỹ.
Những giọt nước mắt rơi trong nhiều dòng thơ của Nguyễn Bính để lại nơi tâm
hồn người đọc những xót đau về thân phận cuộc đời. Nước mắt nhà thơ rơi về một
mối tình đã qua với người con gái vườn Thanh, khóc cho một trinh nữ từ biệt tuổi đôi
mươi, có khi thi sỹ khóc vì nhớ lại một chuyện tình thuở thiếu thời, rồi khóc vì yêu
thầm “người hàng xóm”, khóc khi tương tư (Nửa chừng lệ đã trào tuôn), khóc khi
chia tay người tình, và khóc khi giang hồ trôi dạt mãi về phương Nam, nhớ nhà da
diết
Ta thấy Nguyễn Bính khóc nhiều lắm, khóc cho mình và khóc cả cho người,
với một tấm lòng cảm thông và thương xót chân thành. Tuy nhiên, giọt nước mắt
buồn thương, chua chát, ngậm ngùi nhất vẫn dành cho bao nhiêu đau khổ của tình
ái.
Giống như Nguyễn Bính, trong thơ Vũ Hoàng Chương cũng đầy vơi nước
mắt! Thi nhân khóc cho nỗi đau khổ chung của kiếp người nghệ sỹ. Cuộc đời của
nhạc sĩ, họa sĩ, thi nhân trong xã hội xưa đều chứa ngàn giọt lệ đau khổ, bất hạnh.

21



Giọt nước mắt mặn đắng những đớn đau của nhà thơ, phần nhiều rơi cho ái tình đã
mất.
Tìm đến thú vui bên “nàng tiên má hồng nâu”, sau những cơn đê mê để quên
hết nỗi sầu, ngay giây phút đầu tiên khi phần ý thức được đối diện với cuộc đời
thực, Vũ Hoàng Chương đã nhận ra nỗi đau khổ tận cùng của đời mình. Gục đầu
bên “nấm mộ đen”, nhà thơ lại cất tiếng khóc than chua chát. Nước mắt đã thẫm
đẫm những trang đời đã qua và sẽ qua của thi nhân.
Với Nguyễn Bính người ta thấy giọt nước mắt có pha chút tủi hận của kẻ
túng nghèo, lận đận, bởi nhà thơ sinh ra từ một gia đình cũng chẳng mấy khá giả,
khi lênh đênh quê người thì lúc nào túi cũng rỗng không! Còn với Vũ Hoàng
Chương, hình ảnh giọt lệ chảy trong thơ vẫn có chút đài các, phong lưu, bởi gia
cảnh của thi nhân họ Vũ cũng khấm khá hơn nhiều so với nhà thơ Nguyễn Bính.
Nếu như giọt nước mắt trong thơ Vũ Hoàng Chương phần lớn khóc cho ái tình, sự
nghiệp và cho đời mình, thì ở Nguyễn Bính, giọt nước mắt ấy đa cảm hơn. Thi
nhân không thỉ xót thương cho chính cái số kiếp giời đày của bản thân, mà còn cho
bất cứ nỗi bất hạnh nào khác của con người, nhất là những thân phận chung nỗi
niềm đồng cảm.
2. Ngôn ngữ và giọng điệu
Là những cá nhân luôn cảm thấy lạc loài trong thế giới thực tại, Nguyễn
Bính, Vũ Hoàng Chương cùng mang tâm trạng của những kẻ lỗi thời, luôn hướng
về quá khứ với giấc mộng vàng son. Cảm thức ấy vô hình chi phối đến việc lựa
chọn các phương thức nghệ thuật trong sáng tác. Trong đó, có nghệ thuật sử dụng
ngôn từ.
Là một thi nhân của phong trào Thơ mới, nhưng Nguyễn Bính dường như rất
ít chịu sự ảnh hưởng của lối thơ Phương Tây, ngôn từ trong thơ ông vẫn đậm chất
quê kiểng. Vũ Hoàng Chương là một trí thức Tây học, những tư tưởng mới ảnh
hưởng rất nhiều đến tâm hồn của thi nhân, ngay cả trong sáng tác. Tuy nhiên, trong
những bài thơ của thi sỹ, người ta vẫn nhận thấy một sự tổng hòa cân đối giữa
ngôn ngữ Phương Đông và ngôn ngữ Phương Tây một cách rõ nét.
2.1. Nguyễn Bính là nhà thơ của đồng quê, nên ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính

như xưa nay người ta vẫn nhận xét, đó là thứ ngôn ngữ mang hơi thơ của “hương
đồng gió nội”. Ngay khi bộc lộ cảm thức về thân phận xót xa, đau khổ và lênh
đênh, giang hồ của mình, ngôn từ giọng điệu của Nguyễn Bính cũng vẫn mang sắc
22


thái của ngôn ngữ dân gian, với việc sử dụng vốn từ ngữ dân giã và thành ngữ, tục
ngữ.
Những bài thơ Nguyễn Bính làm trong thời gian tha hương là những bài thơ
bộc lộ rõ nhất, nhiều nhất cảm thức về thân phận buồn tủi của nhà thơ. Nhìn nhận
một cách tổng quát, thơ Nguyễn Bính thể hiện một giọng điệu rầu rĩ, xót xa, ngậm
ngùi và buồn tủi. Nhiều khi trong thơ ông xuất hiện lối nói “đay nghiến”, hậm
hực, mỉa mai.
2.2. Tự nhận mình cùng với những nhà thơ của Phong trào Thơ mới là những
kẻ “lạc loài” và “đầu thai nhầm thế kỷ”, Vũ Hoàng Chương muốn “quên” đi những
tháng ngày bế tắc, chán chường, để sống mê man trong những cơn “say” dài. Thế nên,
đọc thơ của thi sỹ họ Vũ ta như thấy, nhiều khi tâm trạng của ta như cùng hòa vào với
những cơn say đủ sắc màu của thi nhân. Ấy là vì Vũ Hoàng Chương đã khéo léo sử
dụng ngôn từ và giọng điệu lột tả được cái trạng thái đê mê ấy!
Bài thơ “Say đi em” có lẽ là một bài thơ bộc lộ rõ nhất tâm trạng chán
chường và thân phận cùng cực của một kẻ “lạc loài” bế tắc trong cuộc đời. Sử
dụng những dòng thơ sóng đôi, đối ngẫu, hô ứng với nhau, tạo cảm giác chếnh
choáng, lảo đảo. Trong bài thơ này, thi nhân hầu như không dùng từ Hán Việt, mà chủ
yếu dùng phép lặp từ, như “thương”, “xưa”, và phép dùng từ đối lập: “cùng-càng”,
“tươi-héo”, “xưa-nay” để làm nổi rõ cảnh ngộ lụi tàn, bế tắc của cuộc đời.
Trường ngôn từ trong thơ của Vũ có lẽ gồm nhiều từ chỉ sự tơi bời, tàn phai, héo
úa, đắng cay của cuộc đời và tình duyên như: tiêu sơ, cay, đắng, đắng cay, trôi giạt, gió
sương, chia phôi, tắt, nhạt, héo, lạnh lẽo… Đã biểu hiện sâu sắc cảm nhận về cuộc sống
lụi tàn, không lối thoát của tác giả.
Ngôn ngữ thơ của Vũ Hoàng Chương nhìn chung có sắc thái sang trọng, có

sự tổng hòa của ngôn ngữ phương Đông và phương Tây. Những bài thơ bộc lộ cảm
thức thân phận của thi sỹ họ Vũ cũng nằm trong giọng điệu và trường ngôn ngữ ấy.
Khổ thơ này lại có sự hài hòa giữa ngôn từ Hán Việt và ngôn từ thuần Việt. Chẳng
hạn, các từ Hán Việt, như “duyên”, “huyệt”, “ái ân” đi liền với các từ thuần Việt,
như “tơi bời”, “tan tành”, “níu”... làm cho khổ thơ có sự hài hòa, vừa có sắc thái
quý phái vừa có sắc thái bình dân. Bên cạnh đó, vẫn dùng lối điệp ngữ (Trên nẻo
ấy,...) và với cách ngắt nhịp 3/2/3 hoặc 3/5, giọng điệu của khổ thơ vừa chất chứa
sự “chua chát” vừa có sắc thái “hằn học và bi đát riêng” (Hoài Thanh - Hoài Chân
– Thi nhân Việt Nam).
23


Với Vũ Hoàng Chương, người ta nhận thấy ở đó một giọng điệu thơ mạnh
mẽ, phóng khoáng và pha chút ngất ngưởng, nhưng cũng nhiều lúc lâm ly, nghẹn
ngào, chán chường, hoài cảm, tiếc nuối, đôi lúc là giọng điệu tự trào, mai mỉa.
Nhà thơ sử dụng nhiều thể thơ khác nhau, như thất ngôn, ngũ ngôn và cả lục
bát xen lẫn với thể tự do, nhịp ngắn, dài tùy theo tâm trạng, nhằm diễn tả nỗi “U
tình”, cuộc đời “Chết nửa vời”, sống với “Con tàu say”, trong cảnh “Đời tàn ngõ
hẹp”.
Có những bài thơ thi sỹ sử dụng ngữ điệu thơ thể “ngâm” cổ điển Trung Hoa
với hàng loạt những từ đệm “xế”, “hồ”, “xang”, “xự” không những chỉ làm cho bài
thơ trở nên giàu nhạc tính mà còn diễn tả sâu sắc nỗi đau đớn đến điên cuồng, tê
dại của thi nhân. Những câu thơ với tiết nhịp gấp gáp, cuồng loạn đã tạo nên một
giọng điệu thơ chuếnh choáng, như “say” ngất trời, chứa chan niềm uất hận, bi
thương.
Xuyên suốt tâm trạng và cuộc đời của Vũ Hoàng Chương là sự bất cần, phá
phách cùng với những tháng ngày “say” và “quên”. Ngôn ngữ và giọng điệu thơ
Vũ thực cũng sực mùi men rượu, ngất ngưởng, “chếnh choáng. Sự kết hợp hài hòa
ngôn ngữ Phương Đông và Phương Tây, vừa thể hiện đặc tính của một cá nhân
luôn trân trọng những giá trị xưa cũ, vừa làm cho câu thơ trở nên giàu nhạc tính –

đó là khúc nhạc lòng lâm ly, não nề, có khi điên cuồng, uất ức. Giọng điệu trong
thơ Vũ Hoàng Chương có khi mạnh mẽ, phóng khoáng, có lúc chán chường, mê
loạn, cũng không hiếm khi đầy hoài cảm, tiếc nuối. Tất cả đã góp phần làm sâu sắc
hơn cảm thức về thân phận bất hạnh của tác giả qua thơ.
3. Không gian và thời gian nghệ thuật
Nguyễn Bính và Vũ Hoàng Chương là hai thi nhân của Phong trào Thơ mới
lãng mạn 1932-1945, họ đều là những thi sĩ lãng du, phiêu bạt, lênh đênh. Chính
trong những không gian và thời gian phiêu bạt ấy, với biết bao nhiêu đau khổ, buồn
tủi, uất hận và bế tắc, Nguyễn Bính và Vũ Hoàng Chương đã bộc lộ rõ nhất cảm
thức thân phận đời mình.
3.1. Sống vào thời kỳ đất nước nô lệ, lầm than, nhưng ít nhiều có được học
hành, Nguyễn Bính cũng như nhiều thanh niên trí thức thời đó bế tắc và vô vọng
trước con đường công danh, sự nghiệp, quay về hướng nào cũng không có lối đi.
Nguyễn Bính từ bỏ quê nhà dấn thân vào thành thị kiếm tìm chân trời ước mơ.Trải
qua bao đắng cay, gian khổ trên bước đường phiêu bạt, nhà thơ mới nhận ra quê
24


hương là nơi đẹp đẽ, bình yên nhất. Không gian ấy trở về trong tâm tưởng của thi
nhân suốt những ngày tháng giang hổ. Đến với thơ Nguyễn Bính, người đọc nhận
thấy hai miền không gian phổ biến và đối lập, đó là không gian thành thị và không
gian thôn quê.
Không gian thôn quê hiện lên gần gũi, thân thương với có vườn chè, cây lê,
giậu mồng tơi, giàn trầu, hàng cau và với những người con gái chân quê chăn tằm,
quay tơ dệt vải. Không gian thôn quê bình yên, thơ mộng là nơi lưu giữ biết bao kỷ
niệm về gia đình, làng xóm, bè bạn, người thương.Không gian ấy luôn luôn rực rỡ
những nét đẹp của văn hóa truyền thống: hội hè, đình đám. Đọc thơ Nguyễn Bính,
ta như thấy sống dậy không khí vui tươi, rộn ra của ngày tết cổ truyền với những
buổi hội làng, những đêm hát chèo, những tín ngưỡng tôn giáo và tập quán, những
trò chơi dân gian…

Không gian thôn quê được mường tượng qua lăng kính của một trái tim luôn
đau đáu trở về cố hương sau bao tháng ngày lang thang phiêu bạt, đã cảm nhận
được “quê người đắng khói, quê người cay men”, càng trở nên đẹp đẽ.
3.2. Từ giã quê hương, bàn chân của thi nhân đã từng bước đi lang bạt đến
nhiều nơi, qua nhiều không gian đô thị, từ Bắc vào Nam. Không gian thị thành
cũng in đậm dấu chân nhà thơ. Là một thi sỹ nghèo, Nguyễn Bính không thể hòa
nhập vào cuộc sống phồn hoa rộn rã áo xiêm đó được. Dấn thân vào chốn thị
thành, đôi khi nhà thơ giật mình nhận ra đây không phải là một không gian êm đềm
thơ mộng, mà đó chỉ là một nơi vui với kẻ có tiền, chẳng vui với những người tay
trắng. Cuộc sống nơi thành thị xô bồ, đông đúc, rộn rã, nhưng Nguyễn Bính vẫn cảm
thấy bơ vơ, không có lấy một người tri kỷ.
Càng đi nhiều, Nguyễn Bính càng chuốc thêm nhiều đau khổ trên con đường
giang hồ. Tiếng gọi trở vể quê hương càng cồn lên dã diết, cháy bỏng. Có nhiều
lần trong thơ thi nhân tự gọi mình quay lại, lần nào tiếng gọi ấy cũng nghẹn ngào,
cay đắng, chứa chan nỗi buồn, sự nuối tiếc.
3.3. “Mùa xuân” là thời gian được nhiều thế hệ thi nhân xưa nay khai thác,
bởi nó được coi là quảng thời gian đẹp nhất trong bốn mùa, mùa của sinh sôi nảy
nở, mùa của tình yêu. Nguyễn Bính cũng viết nhiều về mùa xuân, nhưng sự xuất
hiện của mùa xuân trong thơ ông đã chứa đựng trong nó sự đối nghịch lớn. Đó là
sự khác biệt đến đớn đau, nghiệt ngã của mùa xuân xưa và mùa xuân nay. Cái mùa
của sự sinh sôi nảy nở, của tình yêu đôi lứa, của những ngày hội làng rộn rã ấy chỉ
25


×