Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Những điểm khác biệt giữa tư tưởng nho giáo và ấn độ giáo tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.82 KB, 43 trang )

ĐỀ TÀI: NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT GIỮA TƯ TƯỞNG ẤN ĐỘ
GIÁO VÀ PHẬT GIÁO
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát và lý do chọn đề tài
Nền đạo học phương đông đã dâng tặng cho nhân loại một kho tàng tri
thức vô tận về vũ trụ và nhân sinh. Trong mấy ngàn năm qua, nền đạo học này
đã và đang cống hiến cho nhân loại nhiều bài học vô giá về đạo đức, về triết lý
nhân sinh…. và nó như suối nguồn tuôn chảy bất tận vào hàng triệu triệu trái tim
con người trên khắp thế giới. Phương đông cũng là nơi cho ra đời nhiều tôn giáo
nhất như Phật Giáo, Ấn độ giáo, Đạo giáo, Khổng giáo, Hồi giáo…. Nền đạo
học ấy đã và đang ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội. Như Sử gia người Pháp
Y.Michelet (1798-1874) đã hết lời ca ngợi: “ Ở phương tây cái gì cũng chật hẹp.
Hy lạp nhỏ bé làm cho tôi ngột ngạt. Xứ Do Thái khô khan làm cho tôi khó thở.
Hãy để cho tôi hướng về châu Á cao cả và phương đông thâm trầm trong giây
lát. Chính nơi đó đã phát sinh ra bài thơ vĩ đại của tôi, mênh mang như Ấn Độ
Dương ngập tràn ánh nắng mặt trời rực rỡ, tốt lành… tạo nên không khí thái hòa
và tình thương vô bờ bến ngay giữa những cảnh tượng xung đột”.
Nói đến phương đông không thể không nhắc đến Ấn Độ. Ấn Độ là một
trong những cái nôi của nền triết học phương đông. Và cũng chính nơi đây đã
khai sinh ra nhiều trường phái triết học và tôn giáo lớn trên thế giới “một tiểu vũ
trụ của các tôn giáo và các nền triết học” . Nói đến Ấn Độ người ta liền nghĩ
ngay đến Phật giáo và Ấn Độ giáo. Đây là hai tôn giáo lớn của Ấn độ nói riêng
và của nhân loại nói chung. Mặc dù ra đời cách đây hơn mấy nghìn năm, trải
qua biết bao thăng trầm lịch sử, sự nghiệt ngã của dòng thời gian…nhưng nó
vẫn luôn mang tính thực tiễn cao và có thể đương đầu với mọi vấn đề của xã hội
hiện đại; Như nhà vật lý học nổi tiếng người Đức Albert Einstein (1879-1955)
đã nói về Phật giáo : “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của
khoa học hiện đại thì đó là Phật Giáo hay tôn giáo của tương lai sẽ là tôn giáo


toàn cầu vượt lên mọi thần linh giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát


cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên đặt trên căn bản của ý thức đạo lý phát
sinh từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trên. Trong cái nhất thể đầy
ý nghĩa đó chỉ có Đạo Phật đáp ứng đủ các điều kiện đó”.
Có một điều chúng ta không thể phủ nhận là Ấn Độ giáo và Phật giáo đều
ra đời tại Ấn độ nhưng về tư tưởng cũng như về giáo pháp có nhiều điểm khác
biệt. Với mong muốn nghiên cứu về những điểm khác biệt ấy nên người viết
mạnh dạn chọn đề tài “Những điểm khác biệt giữa tư tưởng Ấn Độ giáo và Phật
giáo” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Có thể nói đây là đề tài mới mẽ mà
Giáo sư Minh Chi gợi ý và hướng dẫn. Với luận văn này, Người viết chỉ xem
đây như là một công việc tự nghiên cứu, tìm hiểu cho chính bản thân mình và có
thể chia sẻ một phần nào đó cho những ai muốn tiếp cận với hai tôn giáo ấy. Tuy
nhiên, sự nỗ lực cũng có giới hạn, cho nên luận văn này không sao tránh khỏi
những khuyết điểm , ngưỡng mong các bậc thiện tri thức từ bi chỉ giáo.
2. Giới hạn đề tài và phương pháp thực hiện
“Những điểm khác biệt giữa tư tưởng Ấn độ giáo và Phật giáo” là một đề
tài lớn, có thể viết thành một cuốn sách mấy trăm trang. Vì luận văn tốt nghiệp
có độ dài giới hạn nên người viết chỉ giới thiệu đôi nét về sự khác biệt giữa hai
tôn giáo ấy mà thôi.
Để thực hiện luận văn, người viết dựa vào kiến thức đã học tập ở trường,
cũng như một số tư liệu hiện có để so sánh và đối chiếu. Với đề tài trên, người
viết sẽ trình bày khái quát về các quan niệm, tư tưởng của Phật giáo và Ấn độ
giáo và sau đó chỉ ra nhưng điểm sai khác.
3. Bố cục của luận văn
Luận văn này được trình bày theo bố cục sau :
DẪN NHẬP
NỘI DUNG
Chương 1 : Giới Thiệu Khái Lược Về Ấn Độ Giáo và Phật Giáo
1.1. Bối cảnh xã hội Ấn độ cổ đại
1.2. Ấn độ giáo



1.3. Phật giáo
Chương 2: Những Điểm Khác Biệt Giữa Tư Tưởng Ấn Độ Giáo Và
Phật Giáo
2.1. Quan niệm về giá trị con người
2.2. Quan niệm về Linh Hồn
2.3. Tư tưởng Nghiệp
2.4. Tư tưởng Giải thoát
KẾT LUẬN


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU KHÁI LƯỢC VỀ ẤN ĐỘ GIÁO
VÀ PHẬT GIÁO
1.1. BỐI CẢNH XÃ HỘI ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
Ấn độ cổ đại là một bán đảo có diện tích lớn nằm ở miền Nam châu Á.
Đông nam và tây nam giáp với Ấn độ dương; Phía bắc là dãy núi Hymalaya và
có hai con sông lớn: sông Ấn và sông Hằng. Từ hai con sông này đã hình thành
nên đồng bằng phù sa thuận lợi cho việc trồng trọt, đồng thời cũng là nơi sản
sinh ra nền văn hóa cổ xưa và rực rỡ nhất châu Á. Phía nam Ấn độ là cao
nguyên Decan, là vùng đất nghèo nàn, cằn cõi, khô hạn, quanh năm nắng nóng.
Do vậy, khí hậu giữa các miền của Ấn độ không đồng nhất với nhau, có
nơi quanh năm tuyết phủ, có nơi lại khô hạn, nắng nóng.
Thời cổ đại, Ấn độ có nhiều dân tộc sinh sống nên có nhiều ngôn ngữ
khác nhau. Đông nhất và có vị trí quan trọng là tộc người Dravidiens ở phía nam
và người Aryan sống ở phía bắc. Trong quá trình phát triển, có những quốc gia
và các dân tộc khác bên ngoài xâm nhập vào Ấn độ rồi định cư như người Ba tư,
Hi lạp….Những dân tộc này sống hòa lẫn với nhau xây dựng nên một nền văn
minh vĩ đại cho nhân loại, thể hiện qua các mặt sau:
Về kinh tế

Nông nghiệp lúa nước là ngành kinh tế chủ yếu của người Ấn độ cổ đại.
Họ biết đắp đê dẫn nước vào ruộng, biết dùng trâu cày và các công cụ bằng
đồng….Ngoài ra ngành chăn nuôi cũng phát triển mạnh, các súc vật được nuôi
thành từng đàn, từng bầy như ngựa, dê, lợn, gia cầm…..Vì nhu cầu cuộc sống
nên nghề làm đồ gốm, đồ đồng cũng phát triển; từ đây quan hệ buôn bán, trao
đổi xuất hiện ở hình thức sơ khai. Theo đà phát triển của xã hội, nghề thủ công
nghiệp đã xuất hiện và gặt hái những thành tựu đáng kể “những thợ thủ công
nghiệp đã tụ tập thành những tổ chức đặc biệt kiểu như phường hội. Những nghề
thủ công nghiệp phát đạt nhất thời đó là nghề dệt bông, đay, tơ lụa, nghề làm đồ
gốm và đồ trang sức”. [10, 25]
Về chính trị


Vào khoảng 1500 đến 1000 năm trước CN, tộc người Aryan đã di cư vào
Ấn độ. Lúc đầu họ sinh sống bằng nghề chăn nuôi, du mục. Khi tấn công và
chiếm đoạt được nhiều vùng đồng bằng tươi tốt của người Dravidien, họ đã học
tập được kỹ thuật canh tác của người dân bản xứ và thay đổi lối sống từ chăn
nuôi du mục sang định cư làm ruộng. Về sau người Aryan tổ chức ra các công
xã nông thôn và phân chia ruộng đất cho các thành viên trong công xã. Đứng
đầu công xã là xã trưởng và hội đồng bô lão của công xã. Họ vừa là người quản
lý công xã, vừa là người đại diện cho công xã giao thiệp với các cấp trên (tù
trưởng, sau khi thành lập quốc gia là vua).
Khoảng 1000 đến 600 năm trước CN, thế lực người Aryan bành trướng
dẫn đến kinh tế phát triển nhanh chóng, từ đây sự phân hóa giai cấp gay gắt tạo
điều kiện hình thành các quốc gia. Như ở miền bắc Ấn độ, thế kỷ thứ VI trước
CN có đến mười sáu quốc gia, hùng mạnh nhất là quốc gia Magadha ở hạ lưu
sông Hằng.
Về sau, vương triều Magadha bị lật đổ, thành lập nên triều đại Maurya
(312 trCN), Asoka đã thống nhất và kiểm soát toàn bộ Ấn độ. Sau khi Asoka
mất vương triều này suy sụp và dẫn đến diệt vong vào năm 28 trCN. Ấn độ lại bị

ngoại bang xâm lược, mãi đến thế kỷ IV thì mới mới được thống nhất dưới triều
Gupta và triều đại Harsa.
Về văn hóa
Về văn hóa, Ấn độ cổ đại đã thành tựu được một số lãnh vực sau:
- Ngôn ngữ và chữ viết: khi người Aryan xâm nhập vào Ấn độ họ đã dùng
tiếng nói của mình để sáng tác ra bộ Kinh Veda (ngôn ngữ Veda). Đến thế kỷ
thứ IV trước công nguyên Panini đã sáng tác ra ngôn ngữ Sanskrit (ngôn ngữ
này chỉ sử dụng trong tầng lớp quý tộc). Dân chúng mỗi vùng có một thứ tiếng
khác nhau. Do vậy ở Ấn độ có rất nhiều ngôn ngữ bình dân như Pali (ngôn ngữ
của Phật Giáo), tiếng Tamin của người Dravidien ở miền Nam Ấn.
- Thiên văn học: xuất hiện từ thời Veda, họ đã quy định được một tháng
gồm ba mươi ngày, một năm gồm có mười hai tháng…. và phỏng đoán được trái


đất hình cầu và quay quanh trục của nó. Cuối thế kỷ thứ V trước CN, Thiên văn
học đã giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.
- Toán học: người Ấn độ đã phát hiện ra chữ số thập phân và hình tượng
các chữ số. Đặc biệt là họ đã tính được số Pi khá chính xác, biết được định lý
Pitago, biết giải phương trình bậc hai, bậc ba….
- Y học: Người Ấn đã biết chữa bệnh bằng cách dùng các loại cây và các
phương pháp trị bệnh đơn giản. Về sau y học ngày càng phát triển, họ đã biết
điều trị bệnh lâm sàng một cách thuần thục và chính xác….
- Kiến trúc: nổi bật nhất là lối kiến trúc xây dựng chùa chiền, đền tháp.
- Văn học: dân Ấn đã sáng tác ra các áng văn chương bất hủ như bộ Veda
và các bộ sử thi: Mahabharata, Ramayana…..đây là niềm tự hào của nền văn hóa
Ấn độ.
1.2. ẤN ĐỘ GIÁO
1.2.1. Quá trình hình thành
Hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng Ấn độ giáo được hình thành và hoàn
chỉnh qua các giai đoạn sau :

1.2.1.1. Vệ Đà giáo hay Phệ Đà Giáo
Đây là tôn giáo được hình thành sớm nhất ở Ấn độ, cũng là giai đoạn đầu
tiên của Ấn Độ giáo. Nó ra đời dựa trên triết lý thánh kinh Vệ Đà.
Người ta thường gọi tôn giáo này là đa thần giáo, bởi họ thờ cúng rất
nhiều các vị thần như: Indra (thần sấm), surya (thần mặt trời), agni (thần lửa),
apas (thần nước), rudra (thần bảo tố), vayu (thần gió)…Có thể nói, hầu hết các
hiện tượng thiên nhiên đều có một vị thần trông coi, cai quản. Việc thờ cúng các
vị thần linh, đối với dân tộc Ấn độ cổ đại, không phải là mê tín mà do lòng tin
tưởng chân thành. Họ cho rằng cúng bái thần linh là lẽ sống, là nhu cầu thiết
yếu, cần thiết của con người. Do đó, “Bất cứ việc gì, đối với bản thân, gia đình
hay với bộ tộc, hơi động một tí là cúng bái trước đã. Thắng trận, thu được chiến
lợi phẩm dù ít hay nhiều, làm lễ cưới vợ, sinh được con cái, mua may bán đắt,
gia súc không bệnh tật và sinh đẻ nhiều, mưa nắng điều hòa, mùa màng tươi tốt,
trong nhà an vui khoẻ mạnh….nhất nhất đều cúng tế trước để tạ ơn hay kêu cầu


rồi sau đó có làm gì thì làm. Hoặc giả là làm điều gì không phải mà ăn năn, sám
hối, biết mình phạm tội nên cầu xin thần linh tha thứ đừng giáng tai họa trừng
phạt đều đến trước bệ thờ kêu cầu, khấn vái, rồi lựa những bài thánh tán ca xưng
tụng công đức từ bi của vị thần mình cầu xin để ca hát”. [15, 31-32]
Qua đây chúng ta thấy được rằng, các vị thần linh có nhiệm vụ chở che và
hộ trì mọi người, chuyển họa thành phúc…Do đó, người Ấn cổ đại bao giờ cũng
đặt trọn niềm tin của mình vào các vị thần linh.
1.2.1.2. Bà La Môn giáo
Đến những thế kỷ đầu của thiên niên kỷ thứ nhất trước CN, do xã hội phát
triển dẫn đến sự bất bình đẳng về giai cấp ngày càng sâu sắc; và dựa trên nền
tảng Vệ đà, cũng như các hình thức dân gian… đã tập hợp thành một tôn giáo
mới gọi là Bà La Môn. Đây cũng là giai đoạn chuyển bị thứ hai của quá trình
hình thành Ấn độả giáo sau này.
Lúc đầu, Bà La Môn giáo phát triển rất mạnh mẽ và có ảnh hưởng rất sâu

sắc đối với xã hội Ấn độ cổ đại. Nếu như Vệ đà giáo thờ cúng rất nhiều thần linh
thì Bà La Môn giáo chỉ tập trung tôn thờ ba vị thờ chính yếu như sau:Brahma
(Phạm thiên hay Đại Phạm Thiên),Visnu (Tì nữu), Shiva (Thấp bà thiên). Ngoài
ra Bà La Môn giáo còn thờ các vị thần khác như thần Agni, thần Indra, thần
surya…..và họ cũng sùng bái nhiều loại động vật như voi, khỉ và nhất là bò….
Bà la môn cũng đã góp công thiết lập và duy trì chế độ giai cấp xã hội. Do
vậy, xã hội Ấn độ thời bấy giờ được chia ra làm bốn giai cấp:Giai cấp Brahmin
(Bà la Môn), giai cấp Kshatriya (Sát đế lợi), giai cấp Vaisya (Vệ xá), giai cấp
Sudra (Thủ đà la). Ngoài các giai cấp trên còn có một giai cấp nữa gọi là Paria,
là những người nô lệ, cùng khổ.
Để củng cố cũng như bảo vệ hệ thống giai cấp trên, người Aryan còn tạo
ra một bộ luật Manu-đây là bộ luật nghiêm khắc và có rất nhiều điểm cực đoan.
Nói về các giai cấp, luật Manu viết: “Vì sự phồn vinh của cả thế giới, từ mồm,
tay, đùi và bàn chân của mình (Brahma) đã tạo ra Brahmin, Kshatriya, Vaisya,
Sudra” hay : “Do sinh ra từ bộ phận cao quý nhất của thân thể Brahma, do sinh
sớm nhất, do hiểu biết Veda, Bà la môn có quyền là chúa tể của tất cả các tạo vật


ấy” [20, 88]. Trong bộ luật này cũng khẳng định: “Bà la môn mười tuổi và vua
một trăm tuổi nên được coi là cha con nhưng trong ấy cha là Bà la môn”. [20,
88]
Vào thời kỳ này có đến sáu phái triết học: Sankhya (Số luận), Yoga (Du
già), Vaisesika (Thắng luận), Nyaya (Chánh lý), Mimansa (Di man tát) và
Vedanta (Phệ đàn đà). Các phái triết học này được xem thuộc hệ thống của Bà la
môn giáo.
Qua đây chúng ta thấy được rằng chế độ giai cấp ở Ấn độ thời bấy giờ
thật là nặng nề, khắc khe; nó buộc con người phải sống đúng thân phận của
mình và phải tuân thủ theo bộ luật Manu và những gì đạo Bà la môn quy định.
Bà la môn phát triển rộng rãi ở Ấn độ nhưng khi Phật giáo xuất hiện thì
bị suy tàn trong một thời gian dài.

1.2.1.3. Ấn Độ Giáo
Sau một thời gian dài suy vi, đến thế kỷ VII Bà la môn dần dần được chấn
hưng trở lại. Sau đó họ bổ sung thêm nhiều vấn đề mới như về đối tượng sùng
bái, về kinh điển, về nghi thức tế tự…. Về đối tượng sùng bái, họ tập trung và đề
cao ba vị thần : Brahma, shiva và visnu; về kinh điển họ tiến hành biên soạn lại
kinh điển như bộ Brahmana (Phạm thư)- bộ này nhầm chú giải và thuyết minh
những tinh hoa của Veda. Cũng từ đây các bộ lớn khác như Aranyaka (Lâm
trung thư), Upanishad (Áo nghĩa thư) cũng được biên soạn. Thời kỳ này người
ta gọi là Ấn độ giáo (hay Bà la môn canh tân). So với Bà la môn, thánh điển Ấn
độ giáo có phần khác hơn nhưng nền tảng chung thì vẫn là căn cứ vào bộ Veda
và chế độ giai cấp nặng nề, khắt khe của Bà la môn giáo gần như được giữ
nguyên.
Nói chung: Ấn độ giáo là một tôn giáo đa thần. Lúc đầu họ thờ cúng rất
nhiều vị thần linh, về sau được hệ thống hóa lại chỉ còn có ba vị thần chủ yếu mà
thôi. Các bộ thánh điển của tôn giáo này có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống
văn hoá xã hội cũng như các tôn giáo được khai sinh sau đó. Điểm đặc biệt của
Ấn độ giáo là không có một vị giáo chủ nào sáng lập rõ cả. Sự duy trì và truyền
bá của tôn giáo này hoàn toàn phụ thuộc vào các giáo sĩ mà thôi. Có một điều


chúng ta không thể phủ nhận, dù Ấn độ giáo không được truyền bá rộng rãi như
Phật giáo nhưng ở tại Ấn độ nó có ảnh hưởng rất lớn. Theo số liệu thống kê của
các nhà nghiên cứu vào năm 1991 thì ở Ấn độ có tới 83% dân số là tín đồ của
Ấn giáo, trong khi đó tín đồ Phật giáo chỉ chiếm 0.76% mà thôi.
1.2.2. Kinh điển của Ấn Độ Giáo
Kinh điển của Ấn độ giáo chủ yếu có ba bộ lớn như sau:
1.2.2.1. Bộ Veda (Vệ đà)
Veda bắt nguồn từ căn ngữ “Vid”, nghĩa là tri thức, kiến thức, hiểu biết.
Như vậy Veda là bộ sách của sự hiểu biết, bộ sách về tri thức. Bộ này vốn không
do một ai sáng tạo ra cả mà nó là bộ sách được sưu tập và biên soạn lại bằng

tiếng Sanskrit vào khoảng từ năm 1000 đến 800 trước CN, được mọi người tôn
xưng là “Thánh kinh Veda”. Theo các học giả hiện đại, Veda được sắp xếp theo
bốn tập sau:
Bốn tập Samhitas (Sam có nghĩa là cùng với nhau, hita là sắp xếp hay sưu
tập), cũng gọi là bốn bộ Veda
Rig Veda (thường được phiên âm là Lê câu vệ đà): gồm có 1028 bài thánh
ca nhằm ca tụng, tán dương các vị thần linh. “Những bài thánh ca này ngoài ý
nghĩa tín ngưỡng, nó còn là tác phẩm văn học có giá trị và thông qua đây chúng
ta cũng hiểu được về nhân sinh quan và vũ trụ quan của người Ấn độ cổ đại”
[27, 11]…Đây là quyển xưa nhất và quan trọng nhất trong bốn quyển Veda.
Sama Veda (Sa ma vệ đà): gồm có 1549 bài tán ca được trích ra từ Rig
Veda kết hợp với một ít bài mới. Nó được coi là “tri thức về các giai điệu ca
chầu, cầu nguyện thần linh khi hành lễ”.
Yajur Veda (Da du vệ đà): bộ này tập hợp những nghi thức khấn vái thần
linh và cách bố trí các lễ vật trong khi cúng tế. Có nhiều đoạn trong này được rút
ra từ Rig Veda. Tuy nhiên Yajur Veda lại có những đoạn văn xuôi ngắn và một
số đoạn tán ca có chung một đề tài.
Atharva Veda (A thát bà vệ đà): là bộ ghi chép những câu thần chú, ma
thuật…dùng để cầu phúc, cầu an, giải hạn, cầu cho mọi người tai họa được tiêu


trừ… nhằm đem lại điều may mắn tốt lành cho bản thân, gia đình và xã hội. Mặt
khác nó còn có thể gây thương tổn cho kẻ thù, nguyền rủa kẻ thù….
1.2.2.2. Upanishad (Áo nghĩa thư) có ba nghĩa chủ yếu
- Theo Max Muller, Upanishad có nghĩa là lớp học trong rừng, ở đây
những người học trò ngồi xung quanh thầy và nghe thầy giảng.
- Theo Deussen, thì Upanishad có nghĩa là giáo lý bí mật, mà người thầy
chỉ truyền trao cho một số ít học trò đã được thử thách và lựa chọn.
- Theo Sankara, nhà sớ giải nổi tiếng của tập Upanishad, thì Upanishad có
nghĩa là đoạn trừ, tiêu hủy tức là triết lý này đoạn trừ sự si mê, ngu dốt và mở

đường cho chánh kiến và giác ngộ, giải thoát.
Upanishad có tổng cộng 180 cuốn, được biên soạn vào cuối thời kỳ Veda.
Cho nên nó còn có tên là Vedanta, nghĩa là sự kết thúc của Veda (sự kết thúc ở
đây tức là sự hoàn chỉnh, hoàn thiện của tư tưởng Veda)
Nội dung chủ đạo của Upanishad là nhất nguyên và duy tâm
Nhất nguyên là vì các tác giả của Upanishad cho rằng: “Atman là
Brahman, ẩn sâu trong con người” [5, 25]. Cũng có nghĩa bản thể của vũ trụ
vạn hữu là cái bí mật của con người và biết được Atman tức cũng biết được
Brahman. Mà muốn “hiểu biết về Atman không thể đạt được bởi lý luận. Atman
sẽ trở nên dễ dàng lĩnh hội khi được giảng giải bằng cách khác (nhận thức trực
giác, hướng nội hay thực nghiệm tâm linh). Bây giờ ngươi đã đạt được sự hiểu
biết đó” [8, 100]. Như vậy muốn nhận ra được Atman, chúng ta phải quay về
bên trong bằng con đường thực nghiệm tâm linh thì mới có thể thấy được bản
chất của con người tức là Atman. Có khi người ta còn đồng nhất Atman với hơi
thở.
Duy tâm là vì Atman là cái nằm ẩn sâu bên trong, là cái bản chất của con
người, của mỗi chúng sanh, “Atman ẩn dấu sâu kín trong trái tim của vạn vật
đang sinh tồn. Người thoát khỏi sự ràng buộc của dục vọng và thế giới vật dục là
người thấy được vẻ uy nghiêm của Atman qua sự yên tĩnh của tri giác và trí tuệ,
người đó sẽ đạt được tự do từ khổ đau” [8, 103].


Trong Upanishad, chúng ta cũng tìm thấy được những thuyết nghiệp
(Karma), luân hồi và các phương pháp thực tập đưa đến giải thoát…….
1.2.2.3. Bhagavad Gita (Chí Tôn Ca )
Mahabharata là tác phẩm sử thi của Ấn độ nói riêng và của nhân loại nói
chung, được xem là cuốn “Bách khoa toàn thư”. Ngạn ngữ Ấn cũng đã khẳng
định: “Cái gì không được thấy trong Mahabharata thì cũng không thể thấy được
ở Ấn độ”. Bộ sử thi này gồm có 200.000 câu thơ, dài gấp bảy lần tổng số câu
của hai bộ sử thi cổ Hy Lạp Iliade và Odyssee cộng lại. Nó được biên soạn vào

khoảng năm 500 trước công nguyên, đây là công trình sáng tác tập thể của nhiều
thi nhân và trải qua nhiều thế hệ.
Dưới triều đại các vua của Gupta, Bhagavad Gita được bổ sung vào bộ sử
thi này và trở thành cuốn VI của toàn tập Mahabharata. Theo một số học giả thì
. Bhagavad Gita gồm có 700 câu thơ và được chia thành 18 đoạn.
Bhagavad Gita là bộ thánh điển quan trọng của Ấn độ giáo. Nó không
những là tác phẩm văn học có giá trị mà còn cô đúc được hầu như tất cả những
nguyên lý chính của đời sống tâm linh ấn độ cổ đại. Nội dung chủ yếu của thánh
ca này là trình bày về :
- Con đường tri thức
“Nhờ ánh sáng của Jnana (tri thức), nhà ngươi sẽ nhận biết Brahma trong
chính Atman của mình và ở trong Ta”. [13, 149]
- Con đường của hành động:
“Hành động của ai thoát khỏi dục vọng, được ngọn lửa của tri thức soi
sáng, người đó xứng đáng là bậc hiền giả ở đời” [13, 149]
- Con đường của sự sùng tín:
“…..Những ai có lòng thành kính, vọng tưởng đến Ta…..những người đó
mới thật là tông đồ mộ đạo, hiện hữu gần nhất bên Ta”. [13, 151]
1.3. PHẬT GIÁO
1.3.1. Quá trình hình thành
Trước khi Phật ra đời, xã hội Ấn độ rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng
về mọi mặt của đời sống xã hội. Thời kỳ này tầng lớp Bà La Môn được kính


trọng, tôn sùng tuyệt đối; bởi họ là những người được coi là có tri thức, có khả
năng giảng dạy đạo lý và cúng tế thần linh. Còn giai cấp Sát Đế lợi (vua chúa,
tướng lĩnh….) thống trị quốc gia, thâu tóm gần như toàn bộ đất đai. Trong khi
đó, các giai cấp dưới phải lao động vất vả, chịu mọi sự khổ cực để cung phụng
cho các giai cấp trên. Chính những lý do này khiến cho đời sống xã hội ngày
càng nảy sinh mâu thuẫn sâu sắc và dẫn đến sự phản kháng của đông đảo quần

chúng nhân dân lao động, đòi quyền tự do, bình đẳng. Cũng chính vào thời điểm
này ánh sáng từ bi trí tuệ của Phật giáo đã xuất hiện. “Phật giáo xuất hiện như là
sự đáp ứng nhu cầu tinh thần phản kháng xã hội; một mặt nó phản ánh nỗi bất
hạnh, đau khổ thực tế của nhân dân Ấn độ; mặt khác nó phản kháng chế độ đẳng
cấp nghiệt ngã, chống lại sự áp bức, bất bình đẳng giữa con người. Nó công khai
chống lại giáo lý truyền thống của kinh Veda và đạo Bà la môn, bác bỏ uy quyền
thần thánh, xây dựng niềm tin vào chính con người”.
Vậy Ai là người khai sáng ra Phật giáo ?
Đó chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni-Người đã khai sáng ra Phật giáo
ra đời vào năm 563 trCN tại vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni), trong thành
Kapilavastu (Ca tỳ la vệ) ở gần biên giới Nepan ngày nay. Ngài được đặt tên là
Siddhattha (có nghĩa là người được toại nguyện), họ Gotama. Cha là quốc
vương suddhodana (Tịnh Phạn)-trị vì vương quốc Kapilavastu; mẹ là hoàng hậu
Màyà (Ma Gia). Sau khi Siddhattha chào đời được bảy ngày thì hoàng hậu đột
ngột qua đời, việc nuôi dưỡng thái tử được giao lại cho em gái là Pajàpati
Gotamì.
Thời niên thiếu, thái tử được chăm sóc và dạy dỗ một cách toàn diện cả
hai lĩnh vực văn và võ. Không bao lâu Ngài đã tinh thông tất cả, đến nỗi các vị
danh sư nổi tiếng phải cúi đầu thán phục. Ngoài sự thông minh, văn võ toàn tài,
Thái tử còn được mọi người yêu mến vì sự hiếu thảo, tính khiêm cung và lòng
thương người…..
Khi mười sáu tuổi, vâng lời vua cha, thái tử kết hôn với công chúa
Yasodhara (Da du đà la)-một người em cô cậu cùng tuổi với Ngài, ít lâu sau
công chúa đã hạ sinh một hoàng nam tuấn tú đặt tên Ràhula.


Mặc dù sống trong cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh nhưng lúc nào
Thái tử cũng trầm ngâm, suy tư nhiều về kiếp sống nhân sinh “chính ta phải chịu
cảnh sanh, già, bịnh, chết, phiền não và nhiễm ô”. hay Ngài suy niệm: “cuộc
sống tại gia rất tù túng chật hẹp, là chỗ ẩn náu của bụi trần ô trược”.

Do không chấp nhận chế độ phân biệt chủng tộc, đẳng cấp của xã hội, vì
sự khát khao tìm cầu chân lý, nên thái tử Siddhattha từ bỏ tất cả, quyết chí ra đi
tìm đạo cứu đời. Trải qua bảy năm tầm sư học đạo, thái tử đã thọ học với các vị
danh sư nổi tiếng như Alàràma Kàlamà và Uddaka Ràmaputta và cũng đã kinh
qua đời sống tu hành khổ hạnh với năm anh em Kiều Trần Như; nhưng tất cả
điều không giải quyết thoả đáng ý nguyện của Ngài. Sau đó Thái tử quyết định
tĩnh toạ dưới gốc cây Tất bát la và thệ nguyện rằng: Nếu như không chứng được
đạo Vô thượng bồ đề, thà thịt nát xương tan Ta cũng không rời khỏi chỗ này.
Suốt bốn mươi chín ngày đêm suy tư thiền quán, cuối cùng khi sao mai vừa mọc
Thái tử hoát nhiên đại ngộ, sạch hết phiền não, chứng được đạo quả Vô thượng
Bồ đề hiệu Thích Ca Mâu Ni khi vừa tròn ba mươi lăm tuổi.
Sau khi viên thành đạo quả, Đức Phật liền đem giáo pháp của mình chứng
ngộ được truyền bá cho tất cả mọi người. Trước tiên, Ngài dự định hóa độ cho
hai vị danh sư Alàrà Kàlamà và Uddaka Ràmaputta. Sau khi thiền quán để xem
các vị ấy cư ngụ ở đâu, Phật biết được hai vị ấy vừa mới qua đời. Kế đến Ngài
nghĩ đến năm người bạn tu khổ hạnh, và biết họ đang vẫn còn tu tập tại Sarnath
(Vườn Nai). Ở đây Ngài đã tuyên dương chánh pháp bằng bài giảng Tứ Diệu
Đế. Sau khi nghe pháp năm anh em Kiều Trần Như đều xin quy y và trở thành
đệ tử xuất gia đầu tiên của Phật, cũng từ đây Ba ngôi Tam Bảo được hình thành.
Sau đó, Ngài tiếp độ Yasa-con vị thương gia giàu có cùng 54 người bạn
của ông trở thành đệ tử xuất gia. Không bao lâu những bậc vua chúa như vua
Bimbisara, Pasenadi….những bậc trí thức, đạo đức như uruvela kassapa, nadì
kassapa, Gaya kassapa, tôn giả Sariputta, Mogallana, Mahà Kassapa hay các vị
tỷ phú thương gia như Anàthpindika, visàkhà….đều lần lượt trở thành đệ tử xuất
sắc của ĐứcPhật.


Để hoàn thành hiếu đạo cũng như lợi ích cho hoàng gia, đức Phật trở về
quê hương Capilavastu thuyết pháp hóa độ cho vua cha và tiếp độ vô số hoàng
thân quốc thích như Ananda, Devadatta, Ràhula, Anuridha….Đặc biệt là Đức

Phật õ cho phép di mẫu Pajapati xuất gia làm tỳ kheo ni và cho phép thành lập
Ni đoàn.
Khi bước vào tuổi tám mươi, nhận thấy con đường giáo hóa đã viên mãn,
đức Phật cùng chúng tỳ kheo du hành về thị trấn Kusinàra, ở đây Ngài đã hóa độ
cho vị đệ tử cuối cùng là Subbadra, đồng thời cũng tuyên bố nhập niết bàn.
Trước khi từ giã cõi đời, Phật cho phép các tỳ kheo nêu lên những thắc mắc về
giáo pháp : “ Có nghi ngờ, thắc mắc, phân vân gì liên quan đến Phật, Pháp,
Tăng, đến đạo, đến phương pháp, hãy hỏi đi, đừng để sau này hối tiếc”. Và Ngài
cũng không quên khuyến khích các đệ tử hãy nổ lực tinh tấn thực hành giáo
pháp “Hỡi các đệ tử, Như Lai khuyên các con, các pháp hữu vi đều là vô
thường, hãy tận lực, liên tục chuyên cần”. Sau khi Phật nhập diệt, tôn giả Mahà
Kassapa đã chủ trì lễ trà tỳ . Xá lợi Phật được chia làm tám phần, được vua quan
và Phật tử các nước xây tháp phụng thờ.
Sau khi Phật nhập niết bàn, Phật giáo được các vị đại đệ tử của Ngài
truyền bá đi khắp nơi trên xứ Ấn độ. Đặc biệt là vào thế kỷ thứ III trước công
nguyên, dưới triều đại của vua Asoka, vị Hoàng đế này có công rất lớn trong sự
nghiệp hoằng dương thánh giáo. Asoka gởi các đoàn truyền giáo đi khắp nơi,
trong ấy có đại đức Mahinda-con của ông cùng với bốn vị tu sĩ khác được gởi
sang Tích Lan truyền bá Phật giáo. Đến thế kỷ thứ II trước công nguyên, vua
Kanishaka cũng nhiệt tình ủng hộ Phật giáo. Ông đã ra lệnh cho khắc tam tạng
kinh điển lên lá đồng và cho người bảo quản một cách cẩn thận.
Trong quá trình phát triển, để phù hợp với từng thời đại, thích nghi với
từng dân tộc, Phật giáo dần dần phân hóa thành hai bộ phái lớn đó là tiểu thừa
và đại thừa hay còn gọi là Phật giáo nam truyền và Phật giáo bắc truyền. Mặc dù
trên hình thức họ không đồng nhất với nhau về giáo lý cũng như về quan điểm…
nhưng mục đích cứu cánh của hai truyền phái này là xiển dương thánh giáo
nhằm đem lại lợi ích cho bản thân, tha nhân và xã hội.


Phật giáo nam truyền được truyền bá qua hầu hết các nước đông nam á

như Tích lan, Miến điện, Thái lan, Lào, Campuchia, Việt nam….còn Phật giáo
bắc truyền thì được truyền bá qua các nước như Trung Quốc, Nhật bản, Triều
Tiên….trong đó có Việt nam
Ngày nay, do sự nhiệt tình hoằng pháp của các vị tổ sư nên Phật giáo
cũng đã được truyền bá sang các nước như Mỹ, Pháp, Anh, Đức…..
1.3.2. Kinh Điển Cơ Bản Của Phật Giáo
Nói đến kinh điển Phật giáo thì phải đề cập đến Tam Tạng kinh điển
1.3.2.1.Kinh tạng
Sau khi Phật nhập niết bàn, các vị đại đệ tử của Ngài đã đúc kết lời Phật
dạy thành năm bộ kinh chủ yếu như sau:
Kinh Trường Bộ: đây là bộ kinh tập hợp những bài kinh dài do Phật nói
gồm có 34 bài kinh, tương đương với Kinh Trường A Hàm thuộc hệ thống Hán
tạng.
Kinh Trung Bộ : đây là bộ kinh tập hợp những bài kinh trung bình gồm có
152 kinh, tương đương với Trung A Hàm thuộc Hán tạng.
Kinh Tăng Chi Bộ: bộ kinh này được sắp xếp theo pháp số, có mười một
chương gồm 171 phẩm, có 2203 bài kinh, tương đương với Tăng Nhất A Hàm
thuộc Hán tạng.
Kinh Tương Ưng Bộ: đây là bộ kinh tập hợp những bài kinh có cùng
chung thể loại theo sự tương quan của từng vấn đề, gồm có 7762 bài kinh, tương
đương với Kinh Tăng Nhất A Hàm thuộc Hán tạng.
Kinh Tiểu Bộ: đây là bộ kinh tập hợp những bài kinh ngắn, và không có
tương đương trong Hán tạng. Nội dung của kinh này chia làm mười lăm loại
sau: kinh Tiểu Tụng, kinh Pháp Cú, kinh Tự Thuyết, Như Thị Ngữ, Kinh Tập,
Thiên Cung Sự, Ngạ Quỷ Sự, Trưởng Lão Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ, Thí Dụ, Kinh
Bổn Sanh, Vô Ngại Giải Đạo, Kinh Phật Chủng Tánh, Sở Hành Tàng, Nghĩa
Thích.
1.3.2.2. Luật Tạng: là những giới điều mà Phật đã chế định, về sau được
đúc kết thành các bộ như:



Tứ Phần Luật: gồm có 60 quyển
Ngũ Phần Luật: gồm có 30 quyển
Thập Tụng Luật: 60 quyển
Ma ha Tăng Kỳ Luật: gồm 40 quyển
Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da: gồm 50 quyển
1.3.2.3. Luận Tạng: không phải do Phật trực tiếp nói ra mà là những giải
thích về Kinh, Luật do các vị đệ tử sáng tác, gồm có các bộ sau:
Pháp Tập Luận: bộ này nhằm phân loại, giải thích tất cả pháp
Phân Biệt Luận: bộ này cũng nhằm phân loại, giai thích tất cả pháp trên,
có người cho rằng đây là bộ tục biên của Pháp Tập Luận.
Giới luận: trình bày về mối quan hệ giữa Uẩn, Xứ và Giới.
Nhân Thi Thiết Luận: bộ này nhầm thuyết minh về sáu phần: Uẩn, Xứ,
Giới, Căn, Đế, Nhân.
Song Luận: gồm có mười phẩm nhầm nói rõ các mối hỗ tương của các
pháp và các mối quan hệ sinh khởi và biến diệt.
Phát Trí Luận: bộ này nhằm nói rõ mối liên hệ của 122 môn và 24 duyên.
Luận Sự: gồm có 313 phẩm, 217 luận nhằm đả phá những chấp trước sai
lầm của các bộ phái.
Trên đây là những kinh điển căn bản của Phật Giáo, được nói ra từ kim
khẩu của Đức Phật hay các vị đệ tử xuất sắc của Ngài. Ngoài ra, sau khi đại thừa
Phật Giáo phát triển đã hình thành nên một số bộ Kinh, luận lớn như sau: Bộ
Kinh Đại Bát Nhã, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Duy Ma, Kinh
Lăng Già, Kinh Đại Bát Niết Bàn….về luận thì có Bộ Đại Trí Độ Luận, Trung
Quán Luận, Thập Nhị Môn Luận, Thành Duy Thức Luận, Du Già Sư Địa
Luận….
Nói chung: Phật Giáo là một tôn giáo lớn của nhân loại, do Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni sáng lập. Dù ra đời cách đây hơn hai mươi thế kỷ, nhưng
những lời dạy bất hủ của Phật vẫn còn thiết thực, đã và đang có ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống văn hóa của châu Á nói riêng và cho toàn nhân loại nói chung.



Chương 2: NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT GIỮA TƯ TƯỞNG ẤN ĐỘ
GIÁO VÀ PHẬT GIÁO
2.1. QUAN NIỆM VỀ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
2.1.1. Quan niệm về giá trị con người của Ấn độ giáo
Là con người thì ai cũng muốn có được một cuộc sống hạnh phúc trên hai
phương diện vật chất và tinh thần. Trong xã hội Ấn độ cổ đại, nhất là vào thời
kỳ Bà La Môn Giáo (giai đoạn thứ hai của quá trình hình thành Ấn độ Giáo),
không phải người nào cũng có quyền được mong cầu như thế, chỉ có những
tầng lớp thượng lưu, những người của đẳng cấp trên, cụ thể là Bà la môn và Sát
đế lợi. Thời kỳ này đạo Bà La Môn phát triển rất mạnh, chiếm địa vị độc tôn
trên vũ đài tư tưởng, chi phối gần như toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Vì
để củng cố thế lực cũng như địa vị ấy nên Bà La Môn đã phân chia xã hội ra
làm bốn giai cấp lớn như sau:
Giai cấp Brahmin (Bà la Môn): đây là giai cấp cao nhất gồm toàn bộ giới
tăng lữ, là những người có khả năng đảm trách tín ngưỡng, lo việc cúng tế, lễ
nghi và có quyền thay mặt xã hội giao tiếp với các đấng thần linh.
Giai cấp Kshatriya (Sát đế lợi): là giai cấp của những người nắm quyền xã
hội, thống trị lãnh thổ.
Giai cấp Vaisya (Vệ xá): gồm các thành phần thương gia, địa chủ…
Giai cấp Sudra (Thủ đà la): là giai cấp của những người tiện dân, cùng
khổ, tôi tớ….
Ngoài các giai cấp trên còn có một giai cấp nữa gọi là Paria, là những
người nô lệ, cùng khổ. Họ không được phép sống trong cộng đồng của bốn giai
cấp trên, họ chỉ được sống ở những nơi bìa rừng hay ở xa làng xóm. Họ cũng
không được phép nói chuyện hoặc quan hệ hôn nhân với các người thuộc giai
cấp trên. Hằng ngày những người thuộc giai cấp này làm những việc khó nhọc
như thiêu xác người, đổ phân, quét đường….
Nói về sự phân chia giai cấp trong Rig Veda cũng đã khẳng định : giai cấp

Bà la môn được sinh ra từ miệng của Brahma, hai tay của Ngài tạo thành đẳng


cấp sát đế lợi. Hai bắp đùi của ngài là đẳng cấp Phệ xá. Từ hai bàn chân của
Ngài là giai cấp thủ đà la.
Qua đây cho chúng ta thấy được rằng, Ấn độ giáo quan niệm về giá trị
con người hết sức bất công và không có sự bình đẳng. Đây là sự phân biệt chủng
tộc, màu da, cũng như về nguồn gốc xuất thân. Những người thuộc giai cấp dưới
phải tuân thủ nghiêm ngặt và phải tin tưởng tuyệt đối vào sự an bài này, cụ thể
là của những giáo sĩ Bà là môn. Bà là môn sở dĩ được coi là giai cấp tối cao, bởi
vì họ là người độc quyền về tri thức. Họ không nhữngỉ giải thích, chú giải các
bộ kinh về Veda, dạy dỗ mọi người mà còn có quyền thay mặt mọi người tiếp
xúc với các đấng thần linh. Thời bấy giờ không phải ai cũng được học, đọc, hay
nghe kinh thánh. Nếu người sudra mà nghe thánh kinh thì tai sẽ bị điếc, bị đổ chì
vào. Nếu họ tụng thánh kinh thì sẽ bị cắt lưỡi. Còn người nào học thuộc lòng
thánh kinh thì thân thể sẽ bị chặt làm hai. Đạo Bà la môn lúc ấy chỉ là đạo riêng
của những người Bà la môn mà thôi, họ không cho bất cứ tầng lớp nào len lỏi
vào.
Không những thế, trong quan hệ giao tiếp, hôn nhân cũng được quy định
rất chặt chẽ. Những người thuộc giai cấp thấp, nhất là giai cấp Puria không được
quyền giao tiếp, sinh hoạt với những người thuộc giai cấp trên. Họ còn cho rằng,
nếu người nào thuộc giai cấp Bà la môn không may bị người Paria giẫm lên cái
bóng của mình thì người ấy phải làm lễ tẩy trần bằng cách nhịn ăn, và tắm nước
thánh cả ngày hôm đó hay những người thuộc giai cấp thấp muốn đi qua một
khu phố hay một khu chợ thì phải báo hiệu cho mọi người biết để tránh xa họ….
Về hôn nhân họ cấm không cho các giai cấp khác nhau kết hôn với nhau. Thậm
chí các vương tôn công tử thuộc giai cấp Sát đế lợi không được phép kết hôn với
con gái của Bà la môn. Còn nếu người Bà la môn cưới một người vợ thuộc giai
cấp sudra thì con cái của họ sinh ra bị giáng xuống đẳng cấp hèn hạ nhất.
Sự phân chia giai cấp này hết sức nghiệt ngã và quá bất công. Nếu ai

không may sinh ra trong giai cấp hèn hạ, họ phải chấp nhận số phận đó cho đến
khi nhắm mắt lìa đời mà không cóù cơ hội vươn lên địa vị cao hơn. Sự an bài
các giai cấp trên đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các giai cấp dưới nên gây


ra một cuộc phản kháng hết sức dữ dội nhằm đòi lại quyền tự do bình đẳng từ
tay của những người thuộc giai cấp trên đã chèn ép, áp đặt cho họ.
Như vậy, theo Ấn giáo, cụ thể là Bà la môn giáo thì thân phận con người
không được tôn trọng như nhau, những người thuộc giai cấp trên thì được tôn
trọng tuyệt đối, còn những người thuộc giai cấp dưới được coi là những kẻ nô lệ.
Đời sống vật chất của những người thuộc giai cấp thấp còn chưa đầy đủ, thì làm
gì có cơ hội thăng hoa trong đời sống tinh thần. Đây là quan điểm của Ấn giáo
về giá trị con người.
2.1.2. Quan điểm của Phật giáo về giá trị con người
Vì nhận ra được cuộc đời là chuổi dài của khổ đau, luôn bị sanh, lão,
bệnh, tử chi phối nên thái tử Tất Đạt Đa từ bỏ tất cả cung vàng điện ngọc, vợ
đẹp con thơ, quyết chí ra đi tìm đạo cứu đời. Sau khi chứng được quả vị Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, Đức Phật đã lên đường giáo hóa chúng sinh,
mang đến cho xã hội Ấn độ một luồng gió mới, một tư tưởng cách mạng mới.
Như chúng ta biết, thời bấy giờ đạo Bà la môn chiếm địa vị độc tôn và họ đã
thiết lập ra các giai cấp nhằm tước đoạt mọi quyền sống khiến cho con người rơi
vào cảnh lầm than, khổ sở….. Vì lòng từ bi vô hạn cũng như với tuệ giác siêu
việt Đức Phật từng bước thiết lập lại xã hội và đưa ra nhiều quan điểm đặc sắc
để “chống lại” những tư tưởng tiêu cực và khắt khe của xã hội lúc bấy giờ. Về
thân phận con người cũng như nói về các giai cấp, Đức Phật khẳng định:
“Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt
nước mắt cùng mặn. Một người được coi là quý tộc hay hạ tiện là ở nơi hành vi
của họ mà không phải ở đẳng cấp sinh ra”. Như vậy, Phật đã xác định sự bình
đẳng giữa người với người, không có ai là quý tộc và cũng không có ai là hạ
tiện. Quý tộc hay hạ tiện không phải do nơi giai cấp quy định. Đây là một tư

tưởng hết sức mới mẻ, độc đáo và nó được thể hiện rất rõ trong suốt quá trình
hoằng dương thánh giáo của Ngài. Đức Phật mở rộng cánh cửa giải thoát nhằm
tiếp nhận tất cả mọi người bất kể sang giàu, cao thượng hay hèn hạ…. Do vậy,
trong tăng đoàn của Ngài có đủ mọi tầng lớp của xã hội, như Xá Lợi Phất, Mục
Kiền Liên thuộc tầng lớp Bà la môn, A Nan thuộc tầng lớp Sát đế lợi, Ưu Ba Li


thuộc tầng lớp Thủ đà la…..Đức Phật nói rõ rằng: “Này các tỳ kheo, các con
sông lớn đổ về đại dương thì mất tên trước kia của chúng và chỉ được gọi là đại
dương. Cũng vậy, bốn giai cấp Bà la môn, Sát đế lợi, Vệ xá và Thủ đà la xuất
gia, từ bỏ gia đình vào Pháp luật này được Như Lai tuyên bố, đều mất danh tánh
và dòng dõi trước kia và chỉ còn được xem là Sa môn Thích tử”.
Hơn thế nữa, Đức Phật luôn đề cao giá trị của con người, bất luận là nam
hay nữ. Ngài cho rằng ai cũng có thể tu tập và đạt được quả vị giác ngộ giải
thoát. Nghĩa là một người cho dù xuất thân từ giai cấp Bà la môn cao quý hay ở
những giai cấp thấp, nếu thực hành theo giáo pháp của Ngài thì đều được thưởng
thức hương vị thánh đạo, “Này các tỳ kheo, đại dương chỉ có một vị, đó là vị
mặn. Cũng vậy, Pháp và Luật của Ta cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát”.
Điểm đặc biệt nhất là Đức Phật tiếp nhận nữ giới vào trong giáo đoàn. Vì
Ngài thấy rõ “người nữ có khả năng thành tựu các đạo và các quả”. Có thể nói
đây là một cuộc cách mạng về giới tính đầy tính nhân văn của Phật. Bởi người
nữ xưa kia không được trọng đãi, tôn trọng. Đạo Bà la môn xem phụ nữ như là
vật sở hữu của nam giới, sinh ra để phục tùng cho nam giới mà thôi và “cuối
thời Veda và thời kỳ sử thi, phụ nữ phải chết theo chồng”[30,176]. Còn đạo Jain
thì cho rằng “Phụ nữ là ngọn đèn chiếu sáng con đường dẫn đến cánh cửa địa
ngục”. Trước khi Phật ra đời, người phụ nữ không được hưởng quyền tự do,
bình đẳng nên họ không có cơ hội thăng hoa về đời sống tâm linh của mình. Sau
khi Ni đoàn được thành lập, hầu hết các vương phi, công chúa cho đến hàng thứ
dân, gái giang hồ….. bất luận ở đẳng cấp nào cũng hưởng được “mùi vị” tự do,
bình đẳng ấy. Cũng có rất nhiều cô gái, đáng lẽ mãi mãi bị lãng quên trong bóng

tối khổ đau đã tỏ ra xuất sắc và đã thành tựu được giác ngộ giải thoát sau khi
nương tựa vào giáo pháp của Như Lai.
Nói chung: Phật giáo nhìn nhận giá trị thật của con người, không phải do
sanh ra hay nguồn gốc xuất thân mà quyết định sự cao thượng. Sự cao thượng
hay hèn hạ đều phụ thuộc vào hành động, nhân cách của con người. Và Đức
Phật cũng khẳng định : Tất cả chúng sinh đều có tánh Phật, có khả năng thành


Phật. Đây là điểm khác biệt chủ yếu về giá trị con người giữa Phật giáo và Ấn
giáo
2.2. QUAN ĐIỂM VỀ LINH HỒN
Ngoại trừ Phật giáo, hầu hết các tôn giáo ở Ấn độ đều chấp nhận có một
linh hồn bất biến tồn tại trong mỗi con người. Ấn độ giáo cho rằng linh hồn bất
biến ấy chính là Atman hay Purusa, Jiva, chính là cái Ta, cái Ngã hay là cái thực
thể tuyệt đối trường cửu trong con người. Trong kinh Upanishad đề cập nhiều
ví dụ nói về linh hồn :
Chàndoya Upanishad nói:
“Này con, nếu có ai chích vào rễ của một cây lớn thì cây sẽ chảy nhựa
nhưng cây vẫn sống, thậm chí đốn ngang cây, thì cây vẫn sống, chặt hết đọt cây
thì cây vẫn sống trong nó và cây tiếp tục dần dần hút nước và thức ăn từ lòng đất
để tiếp tục đâm lá ra cành.
Nhưng nếu linh hồn sống rời bỏ một cành là cành ấy khô héo, rời bỏ hai
cành là hai cành khô héo, và nếu rời bỏ cả cây thì cây ấy chết khô.
Giống hệt như vậy đó con trài à ! thân xác này chết, rời bỏ linh hồn sống;
nhưng linh hồn thì không chết. Cái bản chất tinh anh nhất trong tất cả mọi vật
tồn tại chính là linh hồn. Điều đó thật sự là chân lý”[8, 738]
Như vậy, bản chất linh hồn là vĩnh cửu, vô tận; dù thân xác có bị tiêu hủy
nhưng linh hồn vẫn tồn tại từ kiếp này đến kiếp khác “Sau cái chết của thân xác,
linh hồn đi về một trạng thái siêu việt khác mà phẩm chất của trạng thái đó được
xác định tùy vào hành nghiệp (karma) quá khứ, trong đó bản chất nguyên thủy

của tự ngã có thể được khám phá. Nhưng từ tình trạng siêu việt này, Atman có
thể quay về thế giới vật chất nếu chưa thành tựu được thực tại tối hậu” [14, 48]
Trong The Bhagavad Gita có đề cập đến sự bất tử , vĩnh cửu của linh hồn:
“Này Ajuna, linh hồn đã hiện thân thì vĩnh cữu, vô hủy diệt, bất khả tri và
vô tận chứ không tạm bợ như thân xác. Vậy thì hãy chiến đấu. Kẻ nào có thể cho
rằng linh hồn có thể giết được và kẻ nào có thể cho rằng linh hồn có thể bị giết,
cả hai kẻ ấy đều ngu xuẩn. Linh hồn không thể giết được ai và cũng không hề bị
giết. Linh hồn không sinh thì không tử. Linh hồn đã hiện hữu sẽ không ngừng


hiện hữu. Linh hồn vô sinh, trường tồn vĩnh cửu, dù khi thân xác đã chết, linh
hồn vẫn còn tồn tại……binh đao không thể đâm chém được linh hồn, lửa không
thể làm khô héo được linh hồn. Linh hồn đã hiện thân không thể bị đâm chém,
không bị thiêu hủy, không tan như nước, không khô héo. Linh hồn thường còn,
linh hồn truyền sức sống vào vật, linh hồn bất biến, bền bỉ, là bất diệt”. [11,17]
Như vậy, Ấn độ giáo chủ trương có một linh hồn (Atman) bất biến, tồn tại
sau khi chết “Atman không sinh ra và cũng không mất đi……khi con người chết
nó không chết” [16, 36]. Chính linh hồn này tái sinh vào các cảnh giới khác
nhau và chịu sự chi phối của luân hồi.
Phật giáo không chấp nhận quan điểm của Ấn độ giáo về Atman (linh
hồn). Theo Phật “ý tưởng về linh hồn, về Ngã là một sự tin tưởng sai lạc, không
có thực trong thực tại và nếu tin tưởng như thế sẽ phát sinh những tư tưởng bất
thiện về “tôi”, và “của tôi”, dục vọng ích kỷ, kiêu căng ngã mạn, gây ra xung đột
giữa cá nhân với cá nhân và giữa dân tộc này với dân tộc khác…” [21, 79]. Do
đó, Phật đã tuyên thuyết rằng: tất cả vũ trụ vạn hữu trên thế gian này dù là vật
chất hay phi vật chất đều vô ngã do duyên sinh, theo nguyên tắc sau:
“Do cái này có mặt nên cái kia có mặt
Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt
Do cái này sinh nên cái kia sinh
Do cái này diệt nên cái kia diệt”.

Cho dù linh hồn-được hiểu đơn giản là phần phi vật chất trong con người
cũng phải do duyên sinh. Đức Phật phân tích một người là tập hợp của năm yếu
tố: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong đó sắc (thuộc vật chất), bốn cái còn
lại(thuộc phi vật chất). Nói cách khác, ngũ uẩn là một hợp thể duyên sinh vô
ngã, không có cái nào tồn tại vĩnh cữu. Muốn tồn tại được phải nhờ nhân duyên,
chẳng hạn như khi thức tồn tại phải nhờ “sắc làm điều kiện, làm đối tượng, sắc
làm nơi nương tựa….Thức phát triển, hưng thịnh nhờ sắc. Thức tồn tại
nhờ….thọ….tưởng….hành…. Nếu có ai nói tôi sẽ chỉ ra sự ra đi, sự đến, sự
sinh, sự diệt của thức biệt lập với sắc, thọ, tưởng, hành thì người ấy đã nói lên
một điều không thực” [2].


Trong hệ thống kinh tạng Nikàya, khi nói đến Ngũ Uẩn, Phật thường hỏi
các thầy Tỳ kheo : “Sắc này là thường hay vô thường ?
Bạch Thế Tôn ! Vô thường
Vô thường thì đưa đến khổ hay vui ?
Bạch Thế Tôn ! Khổ
Cái mà vô thường, khổ thì có hợp lý khi cho rằng cái này là tôi, là của tôi,
là tự ngã của tôi ?
Bạch Thế Tôn ! Không hợp lý
Tương tự đối với thọ, tưởng, hành, thức…… [2]
Hay có một cách phân tích khác nữa, chia sắc uẩn ra làm bốn yếu tố: địa,
thủy, hỏa, phong; tập hợp các yếu tố phi vật chất lại thành một nhóm, gọi là
thức. Như bài thơ của thiền sư Đạo Huệ thời Lý:
“Địa, thủy, hỏa, phong, thức
Nguyên lai nhất thiết không
Như vân hoàn tụ tán
Phật nhật chiếu vô cùng….”
“Đất, nước, lửa, gió, thức
Nguyên lai vốn rỗng không

Cũng như mây lúc tụ, lúc tán
Mặt trời Phật chiếu khắp nơi không hạn chế…”
Qua đây cho chúng thấy được linh hồn mà Ấn giáo cho là trường cữu, khi
nhìn dưới lăng kính Duyên sinh và qua phân tích về Ngũ Uẩn, Ngũ Đại của Phật
thì không còn thấy gì là Ngã, là Tôi…chỉ là một thực thể vô ngã do nhân duyên
nhóm lại mà thành, không có bất cứ cái gì tồn tại độc lập và vĩnh cửu.
Mặt khác, Đức Phật bác bỏ về linh hồn nhằm không muốn cho các đệ tử
của Ngài mất thời gian tư biện về những vấn đề siêu hình. Theo Ngài những vấn
đề này không liên quan gì đến mục đích phạm hạnh, không có ích trong việc diệt
trừ khổ đau, thành tựu chánh trí và chứng ngộ niết bàn. Trong kinh
Alagaddùpama Sutta thuộc Majjhimà Nikàya Phật dạy: “......Này các Tỳ kheo, ta


không thấy một linh hồn nào mà nếu chấp nhận sẽ không còn phát khởi buồn
sầu, bi thương, thống khổ, phiền muộn, đớn đau” [21, 88]
2.3. TƯ TƯỞNG NGHIỆP
Nghiệp tiếng Phạn là Karma, tiếng Pali là Kamma, có nghĩa là hành động
hay tạo tác.
Nghiệp là giáo lý quan trọng đối với hầu hết các tôn giáo ở Ấn độ.
“Thuyết Karma bắt nguồn từ đâu ? Điều này không rõ. Nhưng vào thời Phật
thuyết Nghiệp đã được chấp nhận rộng rãi, hầu như tất cả mọi tôn giáo, như là
đáp án logic nhất, có sức thuyết phục nhất đối với mọi “bất công”, “sai biệt”
trong đời sống con người” [5, 29]
Theo Ấn độ giáo, Nghiệp là “hành động cá nhân, đóng vai trò chủ chốt
trong mọi việc, duy trì sự hài hòa vũ trụ, nhưng nó cũng ảnh hưởng quan trọng
đến sự liên hệ của một người trong thế giới vật chất và quần thể”[17, 38].
Mặt khác, Nghiệp còn đóng vai trò quan trọng quyết định số phận của
con người và nó là động cơ chính tạo ra vòng luân hồi tái sinh. Trong
Chàndogya Upanishad có nói: “Những người khi ở trần gian này biết cư xử tốt,
thì rồi cũng nhanh chóng sẽ được sinh ra ở những đẳng cấp cao như giới

Brahman, như Kshatriga, hay là như Vaisya. Nhưng những kẻ ở trần gian này
hành động, làm việc tồi tệ, độc ác… thì kiếp sau họ sẽ được sinh ra như sự độc
ác mà họ đã cư xử, sinh ra làm con chó, con heo, hoặc làm giới Chandala (hạng
người thấp kém nhất của xã hội, dạng thối tha, bị xã hội ruồng rẫy)” [8, 714]
Đối với Phật giáo, Đức Phật cũng đã sử dụng thuyết Nghiệp ấy. Bởi vì
trong giáo lý của Phật nói đến Nghiệp rất nhiều. Nghiệp còn “có một ý nghĩa
trọng yếu đối với nhân sinh quan Phật giáo, nếu không có nó thì không thể nào
thuyết minh được những hình tướng nhân sinh, thậm chí không thể nói rõ chỗ
quy hướng của lý tưởng nhân sinh” [24, 174].
Mặc dù Phật tiếp thu tư tưởng Nghiệp ấy nhưng chính Đức Phật đã giải
thích tận tường và trình bày đầy đủ về giáo pháp cao siêu ấy, hay “việc làm cho
thâm diệu và phát triển quy luật Nghiệp báo là công trình của riêng Ngài, chứng
tỏ Ngài là một tư tưởng gia đầy sáng tạo tân kỳ và một nhà tâm lý tinh tế”.


Điểm sáng tạo và khác biệt thứ nhất là : Phật đã trình bày Nghiệp hết sức
rõ ràng và nhấn mạnh tầm quan trọng của Tác ý, hay tâm, trong khi đó Ấn độ
giáo chỉ nói chung chung và không rõ ràng.
Đức Phật suy xét: “Nếu một hành động đều phải góp phần tạo nên sự hiện
hữu trong một kiếp tương lai sau bao giờ cũng đầy đau khổ, thì sẽ không thể nào
thoát khỏi hiện hữu và khổ sầu. Vì không ai tránh khỏi hành động. Do đó yếu tố
quyết định cuộc đời tương lai của cá nhân cùng đặc tính của nó không thể tìm
được trong hành vi ấy mà phải nằm trong động lực thúc đẩy hành vi ấy” [22,
320-321]
Qua đây cho chúng ta thấy rằng thuyết Nghiệp của Phật, chú trọng đến
động lực thúc đẩy, điều khiển hành vi bên trong, đó chính là tác ý. Trong kinh
Phật cũng thường khẳng định: “Này hỡi các Tỳ Kheo, Như Lai xác định rằng,
chính tác ý là nghiệp” [23, 341]. Theo Phật thì có ba nghiệp căn bản là : Thân
nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, trong ấy ý nghiệp là quan trọng nhất. Có thể
nói: nó là đầu mối của mọi tội lỗi và nó cũng có công nhất trong tiến trình giác

ngộ, giải thoát của con người (công vi thủ, tội vi khôi). Hay trong kinh Pháp Cú
1, 2 Phật dạy:
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như xe chân vật kéo”.
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình” [4, 11- 12]


×