Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Học thuyết hình thái kinh tế xã hội – Giá trị khoa học và cách mạng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.02 KB, 18 trang )

Đề tài: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội – Giá trị khoa học và cách
mạng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

Lời mở đầu
Trải qua rất nhiều thăng trầm của lịch sử từ khi đất nước được hình thành
nước ta đã qua nhiều cuộc cải cách, nhưng cuộc cải cách năm 1986 đã đánh dấu
một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Đại hội
đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra mục tiêu là: Xây dựng nước ta thành một
nước công nghiệp hoá- hiện đại hoá, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng
an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Mục tiêu
đó là sự cụ thể hoá học thuyết hình thái kinh tế-xã hội. Hình thái kinh tế-xã hội
là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử do C.Mác xây dựng lên. Nhờ có
lý luận đó, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, nội tại
của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Lý luận đó
giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và khoa học sự vận hành của xã
hội trong giai đoạn phát triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử nói
chung của xã hội loài người. Hiện nay, nước ta đang tiếp tục tiến hành công
cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đó đang
đặt ra hàng loạt vấn đề đòi hỏi các nhà khoa học trên các lĩnh vực khác nhau
phải tập chung nghiên cứu giải quyết. Trên cơ sở làm rõ giá trị khoa học và cách
mạng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, lý luận hình thái
kinh tế-xã hội, việc vận dụng lý luận đó vào điều kiện Việt Nam; vạch ra những
mối liên hệ hợp quy luật và đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện thắng
lợi công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam thành một nước giàu, mạnh, xã hội
công bằng văn minh cũng là một nhiệm vụ thực tiễn đang đặt ra.
Với chuyên đề tiểu luận “học thuyết hình thái kinh tế - xã hội – Giá trị
khoa học và cách mạng của nó đối với sự nghệp đổi mới ở nước ta hiện
nay” cần phải nắm được một số mục tiêu sau:


+ Về kiến thức: Nắm vững bản chất của học thuyết hình thái kinh tế - xã


hội, từ đó liên hệ đến sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
+ Về kỹ nawg: Góp phần nâng cao kỹ năng vận dụng học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội để phân tích sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Na;
+ Về tư tưởng: Góp phần củng cố niềm tin vào giá trị trường tồn của học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội ở học viên

NỘI DUNG
1. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử và cũng là một trong những nội dung quan trọng của chủ nghĩa
Mác; nó là sự thể hiện tập trung nhất quan niệm duy vật về lịch sử- một trong
hai phát minh vĩ đại của C.Mác. Kế thừa thành tựu của những người đi trước
trong việc nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, đặc biệt là xã hội tư bản, C.Mác
đã hình thành nên học thuyết hình thái kinh tế-xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là khái niệm dùng để chỉ xã hội ở một giai đoạn
lịch sử cụ thể với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng (phù hợp) với một trình
độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó.
Hình thái kinh tế - xã hội bao gồm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất,
kiến trúc thượng tầng.
1.1. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Theo C.Mác và Ph. Ăngghen, để tồn tại, để sống, trước hết con người cần
phải có ăn, mặc, ở; rồi sau đó mới nói đến làm chính trị, khoa học, nghệ thuật.
Muốn có ăn, mặc, ở thì con người buộc phải tiến hành lao động, đặc biệt là lao
động sản xuất ra của cải vật chất. Muốn sản xuất ra của cải vật chất, một mặt,


con người phải kết hợp với tư liệu sản xuất, dùng công cụ lao động, bằng sức lực
của mình tác động vào đối tượng sản xuất, đối tượng lao động nhằm cải tạo,

biến đổi giới tự nhiên phục vụ cuộc sống của con người; sự kết hợp đó tạo nên
lực lượng sản xuất; mặt khác, con người phải kết hợp với nhau, bởi lẽ, riêng lẻ
từng cá nhân thì không thể sản xuất được, không thắng nổi tự nhiên; và sự kết
hợp thứ hai này hình thành nên quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nằm trong mối liên hệ mật thiết,
khăng khít với nhau, không tách rời nhau và thống nhất với nhau trong phương
thức sản xuất. Đó là một sự thật hiển nhiên, và chừng nào sự thật hiển nhiên đó
còn tồn tại thì quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác còn tồn tại.
Trong Hệ tư tưởng Đức, theo C.Mác, phương thức sản xuất vật chất
không chỉ đơn thuần là tái sản xuất sự tồn tại thể xác của cá nhân, mà nó còn là
phương thức họat động nhất định của những cá nhân ấy, một phương thức sống
nhất định của họ. Với các phương thức trên thì phương thức mà con người tiến
hành trong quá trình sản xuất là quan trọng nhất. Như vậy, thực chất, phương
thức sản xuất biểu thị cách thức, phương thức mà con người thực hiện, tiến hành
trong quá trình sản xuất ở những giai đoạn nhất định của lịch sử xã hội; nó qui
định tính chất, kết cấu, đặc điểm của xã hội. Về điều này, C.Mác cho rằng những
thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ
chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào.
1.1.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, nó
thể hiện năng lực của con người trong việc chinh phục giới tự nhiên, là nội dung
của phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm người sản xuất, tư liệu
sản xuất. Trong lực lượng sản xuất, người sản xuất là yếu tố quan trọng nhất.
Nhưng người sản xuất không phải là cái gì đó nhất thành bất biến mà trong mỗi
thời đại kinh tế, với tư cách là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất
nó cũng luôn thay đổi. Chẳng hạn, trong thời kỳ công trường thủ công, sức lực
cơ bắp (lao động chân tay) thể hiện rõ nhất ở người sản xuất; trong thời kỳ cơ
khí máy móc thì khía cạnh năng lực, kỹ năng, kinh nghiệm điều hành máy móc



lại nổi trội hơn (lao động chân tay kết hợp với lao động trí óc); còn trong thời
đại kinh tế tri thức hiện nay (hàm lượng tri thức trong sản phẩm chiếm đến 70%)
thì khía cạnh tri thức lại nổi trội. Như vậy, cái quan trọng có tính chất quyết định
trong lực lượng sản xuất hiện nay không phải là sức lực cơ bắp, không phải là kỹ
năng, kinh nghiệm sử dụng, vận hành máy móc, mà là tri thức của người sản
xuất (lao động trí óc). Từ đó, đối với các nước trên thế giới hiện nay, đầu tư cho
giáo dục là đầu tư có tính chất chiến lược, vô cùng quan trọng. Ở nước ta hiện
nay, Đảng ta chủ trương giáo dục, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một yếu tố nữa của lực lượng sản xuất là tư liệu sản xuất bao gồm công
cụ sản xuất (công cụ lao động), đối tượng sản xuất (đối tượng lao động), phương
tiện sản xuất (phương tiện lao động). Trong lực lượng sản xuất, nếu người sản
xuất là yếu tố quan trọng nhất thì công cụ sản xuất (công cụ lao động) là yếu tố
động nhất. Trình độ phát triển của công cụ sản xuất, công cụ lao động thể hiện
trình độ hay thước đo việc chinh phục giới tự nhiên của con người. Sự thay đổi
một cách căn bản công cụ lao động theo nghĩa nào kéo theo sự thay đổi của các
thời đại kinh tế. Theo nghĩa này, C.Mác cho rằng cái cối xay quay bằng tay đưa
lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư
bản công nghiệp. Chính vì quan trọng như vậy, nên người ta còn phân thời đại
theo công cụ lao động như thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng, thời đại đồ sắt, …
Trong lịch sử, trình độ của công cụ sản xuất, công cụ lao động nhìn chung đã
trải qua ba giai đoạn chủ yếu: thủ công, cơ khí máy móc và tự động hóa. Cái cối
xay hiện nay không phải quay bằng tay, không phải chạy băng hơi nước mà là tự
động hóa.
Ngay đối tượng sản xuất hiện nay cũng khác trước rất xa. Nếu trong nền
văn minh nông nghiệp, đối tượng sản xuất chủ yếu là ruộng đất; trong nền văn
minh cơ khí, đối tượng sản xuất lại được mở rộng ra, ngoài ruộng đất thì đối
tượng sản xuất chủ yếu của thời kỳ này là các nguyên vật liệu như than đá, chất
đốt, dầu khí, các nguyên liệu hóa thạch, các hầm mỏ, sắt, thép, sợi, … nói chung
là các nguyên vật liệu cần cho các ngành công nghiệp, các nhà máy, công



xưởng; thì đối tượng sản xuất trong thời đại ngày nay ngoài những đối tượng
trên, chủ yếu lại là thông tin. Hiện nay thông tin cũng là của cải.
Trong tư liệu sản xuất còn bao gồm cả phương tiện sản xuất như đường
xá, cầu cống, xe cộ, bến cảng, kho chứa, …
Hiện nay khoa học, đặc biệt là khoa học kỹ thuật và công nghệ cũng trở
thành lực lượng sản xuất vì nó là nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi trong
sản xuất và trở thành một nhân tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất;
nó thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất và đem lại sự thay đổi về
chất của lực lượng sản xuất; nó ngày càng được áp dụng rộng rãi trong sản xuất,
nó làm cho quá trình sản xuất chính là quá trình ứng dụng, áp dụng khoa học kỹ
thuật; do đó, nó có ý nghĩa sống còn đối với nhiều quá trình sản xuất.
Nếu người sản xuất là yếu tố quan trọng nhất xuyên suốt trong lịch sử
của lực lượng sản xuất thì khoa học kỹ thuật, theo Đặng Tiểu Bình, hiện là lực
lượng sản xuất số một, còn theo Giang Trạch Dân, là biểu hiện tập trung, tiêu
chí chủ yếu của lực lượng sản xuất tiên tiến (đại diện cho lực lượng sản xuất tiên
tiến).
Theo đà phát triển của sản xuất, khối lượng và chất lượng của cải xã hội
sẽ được quyết định bởi ứng dụng khoa học vào sản xuất. Từ đó một số học
thuyết của các nhà tư tưởng tư sản đã đi đến chỗ tuyệt đối hóa, thổi phồng,
khuyếch đại vai trò của khoa học kỹ thuật, chẳng hạn như học thuyết các nền
văn minh, học thuyết xã hội hậu công nghiệp, xã hội thông tin, học thuyết kỹ trị,
... nhằm mục đích thay thế học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của C.Mác.
Nhưng như chúng ta đã biết, dù có trở thành lực lượng sản xuất quan trọng, khoa
học kỹ thuật cũng chỉ là một bộ phận của lực lượng sản xuất. Trong lực lượng
sản xuất, yếu tố quyết định vẫn là người sản xuất, mặc dù khoa học kỹ thuật
nâng cao địa vị, vị thế, vai trò, sức mạnh của người sản xuất. Những máy vi tính
có thể tính nhanh và chính xác gấp triệu lần con người; những rôbốt người máy
có thể làm được những việc mà con người không thể làm nổi. Nhưng những cái

đó suy cho cùng đều do người sản xuất chế tạo ra, nếu thiếu người sản xuất, thì
tự bản thân chúng cũng không thể phát huy tác dụng, cũng không thể làm gì


được. Khoa học kỹ thuật muốn phát huy tác động phải thông qua người sản xuất,
chịu sự chi phối của người sản xuất.
Lực lượng sản xuất tồn tại một cách khách quan, bởi lẽ, theo C.Mác,
người ta không được tư do lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình, vì mọi lực
lượng sản xuất là lực lượng đã đạt được, tức là một sản phẩm của một hoạt động
đã qua, không phải do họ tạo ra, mà do thế hệ trước tạo ra (chẳng hạn như đối
tượng sản xuất, phương tiện sản xuất). Mỗi thế hệ sau đã có sẵn những lực
lượng sản xuất do những thế hệ trước xây dựng lên và được thế hệ mới dùng
làm nguyên liệu cho sự sản xuất mới (Thư C.Mác gửi P.V.Annencốp
28.1.1846). Do đó lực lượng sản xuất là vật chất dưới dạng xã hội.
Lực lượng sản xuất trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, nó
không chỉ được xã hội hóa như trước kia, mà nó ngày càng được toàn cầu hoá,
quốc tế hoá. Toàn cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa lực lượng sản xuất, toàn cầu
hóa công cụ, phương tiện sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ của những yếu tố cấu
thành nó như trình độ của công cụ lao động, trình độ khoa học kỹ thuật, trình
độ của người lao động (kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức, trình độ tổ chức, quản
lý, phân công, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật, cách thức mà con người
tiến hành trong quá trình sản xuất).
1.1.2.Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là khái niệm dùng để chỉ quan hệ giữa con người và con
người trong quá trình sản xuất vật chất; nó là hình thức của phương thức sản
xuất, là cơ sở kinh tế, cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, xã hội là sản phẩm của sự tác
động qua lại lẫn nhau giữa người với người. Quan hệ giữa người với người tạo
nên cái gọi là quan hệ xã hội, trong đó quan hệ sản xuất là cơ sở, nền tảng và có

ý nghĩa quyết định. V.I.Lênin viết: “Trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội, ông (C.Mác) đã làm nổi bật riêng lĩnh vực kinh tế, bằng cách là trong tất


cả mọi quan hệ xã hội, ông đã làm nổi bật riêng những quan hệ sản xuất, coi đó
là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ khác"1.
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan
hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm. Ba quan hệ đó liên hệ khăng
khít với nhau, thống nhất với nhau tạo nên một hệ thống mang tính ổn định
tương đối so với lực lượng sản xuất, trong đó yếu tố thứ nhất đóng vai trò quyết
định, nó qui định hai yếu tố sau. Quan hệ sản xuất, mặc dù là quan hệ giữa con
người với con người trong quá trình sản xuất vật chất, nhưng nó không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của họ, bởi lẽ như trên đã nói, riêng lẻ từng cá nhân
thì không thắng nổi tự nhiên; và như vậy, muốn sản xuất ra của cải vật chất,
buộc người ta phải kết hợp với nhau dù muốn hay không. Do đó quan hệ sản
xuất cũng là vật chất dưới dạng xã hội, cái mà trước kia các nhà tư tưởng không
phát hiện ra.
1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất liên hệ mật thiết với nhau,
không tách rời nhau thể hiện ở chỗ mọi lực lượng sản xuất (người sản xuất, công
cụ sản xuất, đối tượng sản xuất, phương tiện sản xuất) đều nằm trong những
quan hệ nhất định nào đó của quan hệ sản xuất (đều nằm trong một tổ chức sản
xuất, dưới sự quản lý của một đơn vị sản xuất nào đó); ngược lại, mọi quan hệ
sản xuất đều là những quan hệ nhất định của một lực lượng sản xuất nào đó, nó
phải chứa đựng một nội dung nào đó.
- Lực lượng sản xuất suy cho cùng quyết định quan hệ sản xuất. Điều này
được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, lực lượng sản xuất thay đổi, sớm muộn cũng kéo theo sự thay
đổi của quan hệ sản xuất, vì lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là

hình thức, nội dung quyết định hình thức. Phân tích sâu thêm, ta thấy mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên, tức lực lượng sản xuất, xét đến cùng, qui định
mối quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất vật chất, tức quan hệ
1

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1974, T1, Tr.159


sản xuất. Điều đó có nghĩa là mức độ chinh phục của con người đối với giới tự
nhiên (rộng hay hẹp, ít hay nhiều) qui định mức độ quan hệ giữa con người với
con người (rộng hay hẹp, ít hay nhiều). Quan hệ giữa con người với con người
trong thời đại tự động hóa, khác quan hệ giữa con người với con người trong
thời đại thủ công. Nói cách khác, thời đại kinh tế khác nhau thì quan hệ giữa con
người với con người trong sản xuất vật chất cũng khác nhau. Đó là bí mật mà
C.Mác đã phát hiện ra.
Thứ hai, tư liệu sản xuất đặc biệt là công cụ lao động, nó qui định cách
thức tổ chức quản lý sản xuất. Đối với cái cối xay chạy bằng hơi nước có cách tổ
chức quản lý khác với đối với cái cối xay chạy bằng tay. Điều này còn thể hiện
rõ nét trong lĩnh vực quân sự, khi xuất hiện vũ khí mới thì cách thức tổ chức
quân đội cũng sẽ khác trước.
Thứ ba, trình độ khoa học kỹ thuật khác nhau cũng sẽ đưa lại cách thức tổ
chức quản lý khác nhau.
- Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lực
lượng sản xuất.
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ nó
có đời sống riêng của nó; nó có thể thay đổi nhanh, chậm, hoặc đi song hành với
sự phát triển của lực lượng sản xuất; nhưng nhìn chung, nó thường thay đổi
chậm so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, quan hệ sản xuất qui định trực tiếp mục đích xã hội của nền sản
xuất; qui mô, tốc độ, hiệu quả, xu hướng, nhịp điệu của sản xuất; qui định

khuynh hướng phát triển của công nghệ. Chẳng hạn, ai, giai cấp nào nắm quyền
sở hữu tư liệu sản xuất thì họ đề ra mục tiêu, qui mô, tốc độ sản xuất có lợi cho
người đó, giai cấp đó.
Thứ ba, nếu phân phối hợp lý theo đúng mức lao động mà người ta bỏ ra
thì có thể kích thích sự hăng say làm việc, kích thích sáng chế phát minh, cải
tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật, khiến cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Từ mối quan hệ biện chứng trên ta rút ra qui luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.


Trước hết ta phải thấy rằng trong lịch sử không phải lúc nào quan hệ sản
xuất cũng phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (những lúc xã
hội đi xuống, chế độ xã hội quá già nua, bảo thủ); nhưng muốn sản xuất phát
triển (mà sản xuất phát triển, nhìn chung, sẽ kéo theo xã hội phát triển) thì quan
hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng
thế nào là quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất? Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đó là một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển tất yếu của
lực lượng sản xuất, tức trong đó, các yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất tạo
địa bàn đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng sản xuất phát triển, tạo
điều kiện tối ưu cho việc kết hợp giữa con người, tư liệu sản xuất và khoa học
kỹ thuật, làm cho lực lượng sản xuất phát triển hết khả năng của nó.
Nhưng mặt khác, lực lượng sản xuất lại luôn luôn thay đổi, biến đổi, đặc
biệt là công cụ sản xuất, công cụ lao động, bởi vậy, đến một giai đọan nào đó,
trình độ của nó chuyển sang giai đoạn mới cao hơn, lúc đó tình trạng phù hợp sẽ
bị phá vỡ. Mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt và đến một lúc nào đó quan
hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan của
sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi xã hội bằng cách này hay cách khác
phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ (mà xã hội cũ gắn liền với giai cấp bảo thủ
muốn duy trì) và thay bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực

lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất mới phát triển.
Giai cấp mới đại diện cho lực lượng sản xuất mới này phải phá bỏ quan hệ sản
xuất cũ bằng cách tiến hành cuộc cách mạng xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là sự
diệt vong của một phương thức sản xuất lỗi thời và ra đời một phương thức sản
xuất mới.
Sự không phù hợp của quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, quan hệ sản xuất lạc hậu so với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất như ta đã phân tích ở trên. Sự không phù hợp thể hiện ở hình thức sở


hữu, quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm không theo kịp trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi
quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, chẳng hạn như ở Việt
Nam trước kia (1975-1986) muốn xây dựng quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước
mở đường (chỉ còn sở hữu toàn dân và tập thể), bất chấp trình độ thấp kém và
không đồng đều của lực lượng sản xuất.
Con người hoặc không phát hiện được mâu thuẫn này, hoặc phát hiện
được nhưng lại giải quyết một cách sai lầm chủ quan, duy ý chí thì quan hệ sản
xuất trở thành nhân tố phá họai lực lượng sản xuất.
Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất thường biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp, giữa giai cấp bảo thủ muốn
duy trì quan hệ sản xuất lạc hậu với giai cấp tiến bộ đại diện cho lực lượng sản
xuất tiên tiến. Phân tích sự phát triển của lịch sử xã hội loài người ta sẽ càng
thấy rõ điều này.
1.2. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng là tổng hợp các quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của một xã hội nhất định. Nó bao gồm các quan hệ sản xuất thống trị đặc trưng
cho phương thức sản xuất, các quan hệ sản xuất đan xen cũng như các quan hệ

sản xuất tàn dư và các quan hệ sản xuất tương lại dưới dạng mầm mống đang
tồn tại trong xã hội đó. Cơ sở hạ tầng ở phương Đông rất phức tạp, nó bao gồm
nhiều những dấu vết, tàn tích của các xã hội, cơ sở hạ tầng trước đó, tạo nên
những lớp ngói chồng chéo lên nhau, nhưng lớp sau không hề che khuất lớp
trước.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cùng với những thiết chế tương ứng như
nhà nước, đảng phái, giáo hội và các đoàn thể được hình thành trên một cơ sở hạ
tầng nhất định. Nó khác ý thức xã hội ở các thiết chế tương ứng. Trong xã hội có
giai cấp, kiến trúc thượng tầng cũng mang tính giai cấp, trong đó, nhà nước là
công cụ quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế.


Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng liên hệ mật thiết với nhau, không
tách rời nhau, bởi lẽ cơ sở hạ tầng bao giờ cũng là cơ sở hạ tầng của một kiến
trúc thượng tầng nhất định; ngược lại, kiến trúc thượng tầng bao giờ cũng là
kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Cơ sở hạ tầng suy cho cùng quyết định kiến trúc thượng tầng. Điều này
được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng
phải thay đổi theo. C.Mác cho rằng cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến
trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng. Ông còn cho rằng
không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái
nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người để
giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan
hệ và hình thái đó đều bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất…. Nếu ta
không thể nhận định về một người căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với
bản thân, thì ta cũng không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ
vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu
thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản

xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội. Đây chính là quan điểm duy vật
triệt để của C.Mác.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng sản sinh ra kiến trúc thượng tầng; quan hệ sản xuất,
quan hệ kinh tế suy cho cùng quyết định quan hệ về chính trị, pháp quyền, tư
tưởng; mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, qui định mâu thuẫn trong
lĩnh vực tư tưởng.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng qui định tính chất của kiến trúc thượng tầng; giai
cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế, giai cấp đó chiếm địa vị thống trị trong
kiến trúc thượng tầng.
Nhưng kiến trúc thượng tầng cũng có tính độc lập tương đối và sự tác
động đến cơ sở hạ tầng.
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ
nó có đời sống riêng của nó; nó có qui luật vận động riêng của nó; nó có thể thay


đổi nhanh, chậm, hoặc đi song hành với cơ sở hạ tầng, nhưng nhìn chung nó
thường thay đổi chậm so với cơ sở hạ tầng.
Thứ hai, các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều có khả năng gây ra
những biến động không nhỏ đối với cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức, theo
những cơ chế, khuynh hướng (tích cực, tiêu cực) khác nhau. Ph.Ăngghen cho
rằng một nhân tố lịch sử một khi được những nhân tố khác, xét đến cùng là
nguyên nhân kinh tế, làm nảy sinh ra thì nhân tố lịch sử đó cũng có thể tác động
trở lại đến môi trường của nó, và thậm chí đến những nguyên nhân đã tạo ra nó.
Ông còn cho rằng trong khi phản bác lại những người chống lại chúng tôi, chúng
tôi đã phải nhấn mạnh nguyên lý chủ yếu mà họ bác bỏ, và không phải lúc nào
cũng tìm được thời gian, địa điểm và khả năng đánh giá đúng những nhân tố còn
lại tham gia vào sự tác động qua lại.
Thứ ba, các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không phải lúc nào cũng
đồng bộ theo một hướng, nhưng với chức năng bảo vệ, phát triển cơ sở hạ tầng
hiện có, thì nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng; nó chi phối và trong nhiều

trường hợp, quyết định khả năng tác động của các bộ phận khác của kiến trúc
thượng tầng đến toàn bộ đời sống xã hội và đến cơ sở hạ tầng.
Chúng ta cần lưu ý rằng nếu quá nhấn mạnh sự tác động của kiến trúc
thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng mà không thấy chiều quyết định ngược lại dễ
rơi vào duy tâm chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí như thời kỳ 1976-1986.
Hạt nhân của mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
chính là mối liên hệ giữ kinh tế và chính trị. Kinh tế là tổng thể các quá trình sản
xuất, trao đổi, phân phối; tổng thể các mối quan hệ trong quá trình sản xuất. Như
vậy, theo nghĩa rộng, kinh tế là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi. Theo
nghĩa hẹp, thực chất của kinh tế là lợi ích, là sở hữu, là hạt nhân của cơ sở hạ
tầng. Chính trị là quan hệ các giai cấp, các lực lượng chính trị; quan hệ giữa các
dân tộc, quốc gia xung quanh vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị
mà tập trung ở quyền lực nhà nước. Như vậy, chính trị, thực chất là giải quyết
các quan hệ chính trị nhằm giành lấy quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực
nhà nước để giải quyết các quan hệ lợi ích, chủ yếu là lợi ích kinh tế cho giai


cấp, lực lượng cầm quyền. Kinh tế và chính trị liên hệ mật thiết với nhau, không
tách rời nhau; không có kinh tế tách rời chính trị; ngược lại, không có chính trị
tách rời kinh tế. Như vậy, không có kinh tế và chính trị thuần túy, tách rời nhau.
Kinh tế (không phải là yếu tố duy nhất) quyết định chính trị mà là xét đến
cùng; kinh tế thay đổi, sớm muộn chính trị cũng phải thay đổi theo. Trình độ
kinh tế nhất định sẽ có một trình độ nhất định chính trị tương ứng; chính trị suy
cho cùng là sản phẩm của kinh tế. Theo Ph.Ăngghen, lĩnh vực mà chúng ta
nghiên cứu càng xa rời lĩnh vực kinh tế, đi gần tới lĩnh vực tư tưởng trừu tượng
thuần tuý chừng nào thì chừng đó chúng ta lại càng nhìn thấy sự ngẫu nhiên
trong quá trình phát triển của nó, khi đó đường biểu diễn của nó càng đi theo
đường chữ chi. Nhưng nếu vạch đường trục trung bình của đường biểu diễn, sẽ
thấy rằng thời gian nghiên cứu càng dài, lĩnh vực nghiên cứu càng rộng thì cái
trục đó sẽ càng đi gần cái trục của sự phát triển kinh tế.

Chính trị có tính độc lập tương đối của nó, nó có thể thay đổi nhanh,
chậm, song hành, thậm chí vượt trước kinh tế, nhưng nhìn chung nó thay đổi
chậm so với kinh tế. Chính trị là một trong những hình thức biểu hiện của kinh
tế, nhưng là hình thức biểu hiện tập trung nhất, cô đọng nhất; nó có tác động trở
lại kinh tế. Chính trị có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự thành bại trong
việc vận dụng các qui luật; tạo điều kiện, môi trường pháp lý cho sự phát triển
của kinh tế; khi nắm bắt được các qui luật kinh tế, chính trị có thể định hướng,
đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, hình thức, biện pháp, bước đi cho sự phát triển của
kinh tế. Không có định hướng chính trị, kinh tế sẽ dễ rối loạn. Chính trị không
chỉ lãnh đạo kinh tế mà còn tham gia kiểm soát chặt chẽ các vấn đề then chốt
của kinh tế như ngân sách, vốn, tiền tệ, tài chính. Chính trị thông qua nhà nước
tác động đến kinh tế theo ba khả năng: cùng chiều (thúc đẩy); ngược chiều (kìm
hãm); một số cùng chiều, một số ngược chiều (vừa thúc đẩy, vừa kìm hãm).
Trong lịch sử, chúng ta thấy, thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề, điều
kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Hồ Chí Minh cho rằng
chăm lo phát triển kinh tế, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân, đó


là nhiệm vụ chính trị hàng đầu. “Phải nhớ là chính trị đi đầu (tư tưởng phải
thông suốt), chính trị tốt thì sản xuất mới được tốt”.
Như vậy, đường lối chính trị thể hiện rõ nhất ở đường lối kinh tế. Ở nước
ta từ 1976 đến 1986, cả trong lĩnh vực chính trị lẫn kinh tế, ta mắc bệnh chủ
quan duy ý chí, nóng vội; tức làm ngược, dùng chính trị tiến tiến kéo quan hệ
sản xuất lạc hậu (cách mạng quan hệ sản xuất là hàng đầu trong ba cuộc cách
mạng), dùng quan hệ sản xuất tưởng là tiên tiến để kéo lực lượng sản xuất lạc
hậu bằng cách xây dựng quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước mở đường; hậu quả
là khủng hoảng kinh tế, từ đó dẫn đến khủng hoảng xã hội; khiến cho quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, “tiến” mà không
“thẳng”, “bỏ” mà không “qua”. Đó cũng là sai lầm chung của hệ thống xã hội
chủ nghĩa trước kia là sau khi hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc lại chú

trọng quá mức đến chính trị mà ít quan tâm đến kinh tế, ít chú trọng phát triển
lực lượng sản xuất, xa rời phát triển sức sản xuất.
Ngày nay, nhờ có đường lối chính trị đúng đắn với chủ trương kết hợp
chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, mà chúng ta đã đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường,
chính trị xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững, vị thế nước ta
trên trường quốc tế không ngừng nâng cao, sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã
tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển
vọng tốt đẹp.
Nhưng chúng ta cần lưu ý rằng chính trị đúng đắn phải có phải có cơ chế,
bước đi, lộ trình thực hiện để hiện thực hóa trong đời sống.
1.3. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử -tự nhiên


Thế nào là một quá trình lịch sử - tự nhiên? Trong tự nhiên thì rõ, các quá
trình phát triển đều diễn ra một cách tự nó, tuân theo những qui luật khách quan
vốn có, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người; còn các quá trình
phát triển trong xã hội đều có sự tham gia tích cực của con người. Con người
không chỉ tham gia mà còn sáng tạo ra lịch sử, nhưng không phải sáng tạo một
cách tuỳ tiện, chủ quan, mà sáng tạo trong những điều kiện, hoàn cảnh, tiền đề
vật chất nhất định, phù hợp với qui luật khách quan (tránh chủ nghĩa chủ quan
cũng như khách quan thuần tuý).
Xã hội là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người, là tổng
số những mối liên hệ, quan hệ của các cá nhân. Nhưng những cá nhân này luôn
có những lợi ích, ý chí, nguyện vọng, mong muốn chủ quan không giống nhau,

thậm chí trái ngược nhau; điều mà người này muốn lại bị người kia cản trở; và
xu hướng phát triển của xã hội, cuối cùng xuất hiện ra như là một cái mà không
có ai mong muốn cả, không theo ý muốn chủ quan của người này người nọ; bởi
vậy, cho đến nay, lịch sử đã phát triển theo kiểu một quá trình tự nhiên, và về
căn bản, cũng bị chi phối bởi cùng những qui luật vận động như tự nhiên. C.Mác
nói:"Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử - tự nhiên". Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên là quá trình diễn ra một cách
khách quan, tuân theo những qui luật vốn có của nó, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người..
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội cũng tuân theo những qui
luật vốn có của nó, cụ thể là ba qui luật khách quan (qui luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng qui định
kiến trúc thượng tầng, qui luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp),
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người, nó đi từ thấp đến cao, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện, từ cộng sản nguyên thủy lên phong kiến, tư bản
và cộng sản chủ nghĩa, bởi vậy, nó cũng là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Trong ba qui luật này thì qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quan trọng nhất. V.I.Lênin cho rằng chỉ có đem
qui những quan hệ xã hội về quan hệ sản xuất, đem qui quan hệ sản xuất về trình


độ của lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để
quan niệm sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử
- tự nhiên.
II: GIÁ TRỊ KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đối với sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
Học thuyết này chỉ rõ, sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội,
phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Do vậy, không

thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng thuần túy để giải thích các hiện tượng xã hội
mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất vật chất.
Để nhận thức đúng xã hội, phải tìm hiểu quy luật phát triển của xã hội,
không được tùy tiện, chủ quan. Bởi lẽ, học thuyết hình thái kinh tế xã hội chỉ ra
rằng: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự
nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Việc vận dụng sáng tạo học thuyết này vào công cuộc xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội đối với Việt Nam là chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

PHẦN KẾT LUẬN
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học. Trong
điều kiện hiện nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Nó đưa ra một phương pháp
hữu hiệu để phân tích các hiện tượng trong cuộc sống xã hội để từ đó vạch ra
phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Những thành tựu mà công cuộc đổi mới mang lại đã chứng minh cho sự
đúng đắn của quy luật phát triển trong việc dụng hình thái kinh tế - xã hội. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo nên sự biến đổi về


chất của xã hội trong tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn và lâu dài. Do
vậy phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài vời nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội.
Lí luận về hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội là một tất yếu khách quan và chính nó đã đề ra những hướng đi đúng đắn.
Từ đó chỉ ró những giải pháp đưa đất nước ta phát triển lên một tầm cao mới.
Lý luận hình thái kinh tế xã hội cũng là phương pháp luận khoa học để ta
phân tích công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, luận chứng được tất yếu của
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phân tích đúng nguyên nhân của tình
hình khủng hoảng kinh tế xã hội và chỉ ra được: Đổi mới theo định hướng của

xã hội vừa phù hợp với xu hướng phát triển thời đại vừa phù hợp với điều kiện
cụ thể của Việt Nam.
Như vậy có thể khẳng định rằng: Lý luận hình thái kinh tế xã hội vẫn giữ
nguyên giá trị khoa học và đúng thời đại của nó. Nó là phương pháp luận thực
sự khoa học để phân tích thời đại cũng như của công cuộc xây dựng đất nước
hiện đại ở Việt Nam.

* Danh mục tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia
2. C.Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác Lênin, NXB. CTQG
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin,
NXB.CTQG
5.




×