Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Ý nghĩa chi tiết tiếng sáo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.79 KB, 9 trang )

Ý nghĩa chi tiết tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ
Dàn ý:
- Được nhắc đến nhiều lần
+ Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi
+ Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng
+ Mà tiếng sao gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đương
+ Mị vẫn nghe tiếng sao đưa Mị đi theo những cuộc chơi,..
- Ý nghĩa
+ Tiếng sao biểu hiện cho vẻ đẹp của phong tục, nét đẹp văn hóa người dân miền
núi.
+ Là biểu tượng cho tiếng gọi cuộc sống, tình yêu; nó đã lay gọi, khơi gợi lòng yêu
đời, yêu cuộc sống tự do trong Mĩ
+ Có quan hệ mật thiết với quá trình diễn biến tâm lí của Mị, là động lực thúc đẩy
Mị đi đến hành động chuẩn bị đi chơi xuân
+ Thể hiện tư tưởng của tác phẩm: sức sống con người cho dù bị giẫm đạp, trói
buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ chờ cơ hội bùng lên là giá trị nhân đạo
Gợi ý:
- Tiếng sáo mở ra một không gian xa xôi của núi rừng tây bắc. Tiếng sáo gọi bạn,
gọi người yêu là nét đẹp văn hoá của người dân miền núi
- Tiếng sáo đại diện cho tài năng của con người. “Mị thổi sáo giỏi”, “Mị uốn chiếc
lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm
đẽ thổi sáo đi theo Mị”
- Tiếng sáo kêu gợi quá khứ tươi đẹp ,ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, đồng thời
tiếng sáo là chất xúc tác trực tiếp khơi gợi sức sống tiềm tàng của Mị “Mị vẫn
nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”, “Mị vùng bước
đi”.
- Tiếng sáo là chi tiết nghệ thuật đặc biệt tố cáo bản chất của giai cấp thống trị thực
dân phong kiến miền núi, cự tuyệt quyền sống, quyền làm người của con người
=> Nếu tiếng chân ngựa đạp vào vách là sự lên tiếng của hiện thực phũ phàng thì



tiếng sao lại là hiện thân của những ước mơ, hoài niệm.
Bài tham khảo
Vợ chồng A Phủ là một trong số không nhiều những tác phẩm văn xuôi viết
thành công trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Có thể xem đó là gương mặt
tiêu biểu của văn học thời đại mà cả dân tộc cùng "rũ bùn đứng dậy sáng lòa".
Trong đó chi tiết Tiếng sáo đêm tình mùa xuân là lát cắt ngang giữa nhân tế bào
của tác phẩm. Vẻ đẹp nội dung, nghệ thuật cùng lộ ra từ chi tiết ấy.
Trước hết, chi tiết Tiếng sáo đêm tình mùa xuân là một sáng tạo nghệ thuật
độc đáo nhằm khám phá, thể hiện vẻ đẹp nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác
phẩm. Tiếng sáo mùa xuân vốn là linh hồn của đời sống tinh thần vùng Tây bắc.
Nó rất quen thuộc, gần gũi, không có gì mới lạ, đã được tác giả sử dụng hiệu quả
linh diệu như chiếc móng vuốt của thần Kim Quy, như câu thần chú Vừng ơi ...
của Alibaba vậy. Nhờ chiếclẫy thần ấy mà cung nỏ nhà vua bắn một phát chết hàng
vạn tên xâm lược; nhờ tiếng sáo đêm tình mùa xuân đó mà nhà văn mở được cánh
cửa tâm hồn nhân vật Mỵ đã im ỉm khóa suốt bao nhiêu năm trời. Cứ nhìn cái
dáng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, nhìn cái cách kéo lê tấm thân của Mỵ
từ mùa này sang mùa khác, từ năm này sang năm khác làm việc như một cái máy,
cứ nhìn cái sự đêm đến “Mỵ chỉ còn biết thức với lửa”, đêm nào cũng vậy, dù cho
có bị A Sử ngứa tay đánh đập hay có người chết ngay ở đó... (không có phản ứng
gì thì người ta chỉ có thể nghĩ rằng cô sẽ mãi câm lặng như tảng đá cho đến ngày
chết rũ xương ở đây thì thôi...
Vậy mà từ khi nghe đầu núi lấp ló có tiếng sáo rủ bạn đi chơi của ai đó, “Mỵ
lại thiết tha bồi hồi”. Tâm hồn Mỵ bắt gặp tiếng sáo, đã bắt đầu cựa quậy, đã bắt
đầu biết cảm nhận, đã xúc động. Đã sống lại thật rồi! Tiếng sáo mùa xuân nhẹ
nhàng, mỏng tang, vu vơ mà thần diệu tựa thuốc thánh Cam lộ. Tưới đến đâu thì
hồi sinh sự sống, tình yêu đến đó... Kìa, Mỵ đang “nhẩm thầm bài hát của người
thổi sáo”. Mỵ đang hòa lòng mình vào không khí mùa xuân tuổi trẻ của những
cuộc chơi đánh pao, đánh quay. Mỵ đang sống với tâm trạng yêu đương trong
những bài hát. Dòng nước mát hiếm hoi đã len rỉ vào tâm hồn đang khô hạn nứt nẻ



của Mỵ rồi thì lẽ nào không mở lòng?! Tiếng sáo mùa xuân đến và đã neo đậu luôn
trong lòng Mỵ, rồi ám ảnh không rời: “Tai Mỵ văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu
làng”. Rồi như một phản ứng dây chuyền, đồng lọat cả một quá khứ của tuổi trẻ
hiện về, Mỵ lại được sống đắm chìm trong thời tuổi trẻ đầy say mê của mình: “...
Mỵ thổi lá cũng hay như thổi sáo.... bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi
theo Mỵ”... Tiếng sáo dập dìu thiết tha gọi ai đầu làng mà đánh thức cả một miền
hồi ức, kỷ niệm ùa về tươi rói. Rồi tiếng sáo ngày một gần, ngày một da diết hơn;
ngồi một mình trong xó bếp nhưng Mỵ nhận rõ “Tiếng sáo goị bạn yêu vẫn lửng lơ
bay ngoài đường.. Mỵ thấy phơi phới trở lại...”. Mùa xuân đã thực sự về, xốn xang
trong lòng: “Mỵ vui sướng như những đêm xuân ngày trước. Mỵ vẫn còn trẻ, Mỵ
muốn đi chơi...”. Rồi theo phép biện chứng của tâm hồn, cái hiện thực đầy say mê
của quá khứ và tiếng sáo gọi bạn yêu kia đã trở thành thái cực tương phản của
cảnh sống thực tại. Mỵ so sánh đối chiếu, soi xét lại cái hiện thực mà cô đã và
đang phải sống, thấy nó thật phi lý, không thể chấp nhận. Tâm lý Mỵ nảy sinh một
sự phản ứng bất ngờ mà thống nhất: Nghĩ đến nắm lá ngón... Nhìn ở góc độ sự
sống cho thể xác, đây là một bước lùi, tiêu cực. Nhưng nhìn ở góc độ đời sống tinh
thần, nhìn ở SỰ SỐNG ĐÚNG Ý NGHĨA LÀ CUỘC SỐNG CON NGƯỜI, đây là
một dấu hiệu đáng mừng ở Mỵ. Bởi vì đó chính là sự thức tỉnh đầy tính nhân văn:
Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt, thà chết trong một sự khẳng định quyết liệt ý
nghĩa đúng đắn cuộc sống của mình còn hơn phải sống kiếp trâu ngựa suốt cả một
đời. Nhờ tiếng sáo mùa xuân mà Mỵ có được sự thức tỉnh đó.
Tuy nhiên, một cô gái mê tiếng sáo, yêu đời như Mỵ không thể lùi sâu vào mãi
góc chết. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình vẫn “lởng lơ bay ngoài
đường”, và trong đầu Mỵ vẫn “rập rờn tiếng sáo” thì làm sao Mỵ có thể hững hờ,
làm sao Mỵ có thể ăn lá ngón? Thay vào đó, cô “lấy hũ rượu, uống ừng ực từng
bát”. Mỵ dằn lòng xuống, cái đắng cay bị kìm xuống thì cái nồng nàn của hơi men
vàcái đắm say của “tiếng sáo gọi bạn yêu” càng thôi thúc: “Mỵ đứng dậy xắn thêm
mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng” như để tự thắp sáng đời mình, như để khêu to hơn
ngọn lửa tình yêu đang chập chờn trong ý thức của Mỵ. Hành động này lại tạo ra



niềm tin để có hành động tiếp theo mạnh mẽ hơn: Mỵ quấn lại tóc, với tay lấy cái
váy hoa vắt trên vách, sửa soạn đi chơi, bất chấp sự có mặt của A Sử (dù hắn là
hiện thân trực tiếp và thường trực của cái ác, là hung thần đã nghiền nát tất cả
hạnh phúc, sự sống của đời cô. Mỵ hoàn toàn không hề đếm xỉa đến hiện thực nữa.
Lòng mải mê đi theo tiếng sáo, tay cô làm, chân cô bước như kẻ mộng du. Thậm
chí cho đến khi đã bị trói bằng cả một thúng dây đay, bằng cả mái tóc dài của
chính Mỵ, thân xác đau đớn cùng cực, thì tiếng sáo vẫn bám riết tâm hồn Mỵ. Suốt
đêm dài... suốt đêm... Mỵ chỉ còn nghe tiếng sáo... Khi khát vọng tự do, khát vọng
tình yêu đã cháy lên thì hiện thực kia làm sao đủ sức ngăn cản được sự bay bổng
của tâm hồn?!.
Cũng có lúc tiếng chân ngựa đạp vách kéo Mỵ về thực tại. “Mỵ thổn thức nghĩ
mình không bằng con ngựa. Con ngựa còn có lúc đứng gãi chân, nhai cỏ, còn...”
nhưng “tiếng sáo vẫn đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”... Lúc
chừng đã khuya, Mỵ còn tưởng tượng được cuộc chơi xuân đêm nay đã đến lúc
“trai làng đang đến bên vách làm hiệu rủ người yêu dỡ vách rừng chơi. Mỵ đã nín
khóc, Mỵ lại thiết tha bồi hồi”. Tiếng sáo đã trở thành điểm tựa và Mỵ đã vững
vàng hơn.
Chưa bao giờ là một nhà văn lãng mạn nhưng những dòng này, những trang
này, thế giới tâm trạng nhân vật Mỵ lúc này và toàn bộ chi tiết Tiếng sáo đêm tình
mùa xuân dẫu thực đến độ điển hình nó vẫn là những trang văn cực kỳ lãng mạn,
đẹp đẽ mê ly. Với chi tiết tiếng sáo, không những nhà văn bật mở được thế giới
tâm hồn của một nhân vật khổ đau đã nhầu nát, tê dại vì bị giam hãm trong bóng
ma và thế lực phong kiến miền núi, đang thức dậy, đang phát triển với những cung
bậc tinh tế, phức tạp, tuần tự có, đột phá có, có cả những bước tiến lùi đan xen
(nhưng đúng quy luật tâm lý mà còn khám phá, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp tài hoa
nghệ sỹ của người lao động dân tộc Mèo. Dẫu cho thể xác có bị vùi dập bao nhiêu
thì lòng yêu đời, yêu hạnh phúc, yêu tiếng sáo mùa xuân của người người Mèo vẫn
không gì có thể dập tắt được. Đó là bức thông điệp quan trọng nhất mà nhà văn

gửi được đến bạn đọc qua tác phẩm này. Hơn nữa nó còn hé mở cả một sức mạnh


tiềm ẩn, báo hiệu khả năng cách mạng trong nhân vật Mỵ và con người Tây Bắc.
Tiếng sáo đêm tình mùa xuân thực sự là một chi tiết đầy sức quyến rũ, là nét
hoa văn độc đáo nhất trên toàn tấm thảm hoa Tây Bắc. Giả sử không có tiếng sáo
mùa xuân thì có lẽ tâm hồn Mỵ không bao giờ thức dậy được (như trên đã nói).
Không có nó, cuộc sông Tây Bắc còn lại là gì? - Chắc chỉ còn lại “tiếng xập xình
cúng ma” nhận mặt người vay nợ lãi hay làm nô lệ cho bọn chúa đất. Tiếng sáo
dập dìu suốt đêm đã xua đi cái hoang lạnh, cái đói rách của núi rừng, cái âm u của
cuộc sống nô lệ, và gọi về cái ấm áp, cái đa tình đáng yêu, chất nghệ sỹ của lòng
người Tấy bắc. Có tiếng sáo gọi bạn đầu làng, tiếng sáo vang vọng từ núi này sang
núi nọ và “những chiếc váy hoa phơi trên những tảng đá xòe như con bướm sặc
sỡ” núi rừng Tây bẳc trở nên thơ mộng, quyến rũ và say mê biết bao!
Cảm ơn nhà văn đã giúp người đọc mọi miền Tổ quốc được cảm nhận, thưởng
thức những vẻ đẹp trong sáng, thi vị của con người và núi rừng miền Tây thân yêu
của chúng ta. Đọc đi đọc lại nhiều lần, tiếng sáo vẫn cứ say mê, ám ảnh lạ thường,
lan truyền từ người trong truyện đến người viết truyện, sang người đọc truyện:
“Ngoài núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi...”
“ Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường...”
“ Tiếng sáo đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi, những đám chơi...”
....
Ta như nghe được cả những tiếng reo vui náo nức của nhà văn khi mùa xuân
đến được kìm nén trong nhiều câu văn: “Những đêm tình mùa xuân đã đến”... Ta
như nghe được cả sự mời gọi thiết tha của người nghệ sĩ ấy trong từng dòng văn
miêu tả tài hoa về tiếng sáo ấy rằng: Hỡi những ai chưa một lần đến Tây Bắc, hãy
lên đây để được sống trong không khí của những đêm xuân nồng nàn men rượu và
dập dìu tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường, tiếng sáo văng vẳng đầu
nương, vang vọng qua những vách núi thành âm điệu đặc trưng của nền văn hóa
Tây bắc. Tiếng sáo ấy cũng là tiếng lòng nồng nàn như rượu đêm xuân của nhà văn

đối với núi rừng và đồng bào các dân tộc vùng rẻo cao Tây bắc nói riêng, với đất
nước Việt Nam nói chung.


Vẫn còn chưa đủ. Phải nói thêm: Chi tiết ấy còn là sản phẩm của một sự am
tường cặn kẽ, tinh thông về phong tục, lối sống của đồng bào rẻo cao. Là sản phẩm
của một ngòi bút tài hoa: văn như nhạc, như tranh, tải được cả màu sắc, hương vị,
âm điệu, linh hồn của núi rừng Tây Bắc. Trong sáng, hồn nhiên mà tình tứ, réo rắt
da diết, mà khỏe khoắn lạ thường.
Thật trọn vẹn, ngọt ngào và đầy dư vị!
Một chi tiết nghệ thuật như thế nó dư sức làm rường cột cho cả một tác phẩm,
đánh dấu sự trưởng thành của chặng đường sáng tác, làm nên tầm cao, đóng góp
riêng của nhà văn Tô Hoài cho nên văn học, văn hóa nước nhà.
Nay nhà văn Tô Hoài đã đi xa nhưng chắc chắn tiếng sáo đêm tình mùa xuân
của bản Mèo xa lắc vẫn vi vút, vẫn lửng lơ ám ảnh trong tâm trí bao thế hệ người
đọc mọi miền đất nước. Có thể nó còn vọng mãi sang thế giới bên kia ru Người
giấc ngủ ngàn năm; và biết đâu cõi âm cũng ... lóe lên tia sáng ấm mùa xuân.
Ý nghĩa tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân
I/ Mở bài Ý nghĩa chi tiết tiếng sáo trong bài Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Vợ chồng A Phủ là một trong số không nhiều những tác phẩm văn xuôi viết
thành công trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Có thể xem đó là gương mặt
tiêu biểu của văn học thời đại mà cả dân tộc cùng rũ bùn đứng dậy sáng lòa. Trong
đó chi tiết Tiếng sáo đêm tình mùa xuân là lát cắt ngang giữa nhân tế bào của tác
phẩm. Vẻ đẹp nội dung, nghệ thuật cùng lộ ra từ chi tiết ấy.
II/ Thân bài Ý nghĩa chi tiết tiếng sáo trong bài Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Trước hết, chi tiết Tiếng sáo đêm tình mùa xuân là một sáng tạo nghệ thuật
độc đáo nhằm khám, thể hiện vẻ đẹp nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Tiếng sáo mùa xuân vốn là linh hồn của đời sống tinh thần vùng Tây bắc. Nó rất
quen thuộc, gần gũi, không có gì mới lạ, đã được tác giả sử dụng hiệu quả linh
diệu như chiếc móng vuốt của thần Kim Quy, như câu thần chú Vừng ơi ... của

Alibaba vậy. Nhờ chiến lẫy thần ấy mà cung nỏ nhà vua bắn một phát chết hàng
vạn tên xâm lược; nhờ tiếng sáo đêm tình mùa xuân đó mà nhà văn mở được cánh


cửa tâm hồn nhân vật Mỵ đã im ỉm khóa suốt bao nhiêu năm trời. Cứ nhìn cái
dáng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, nhìn cái cách kéo lê tấm thân của Mỵ
từ mùa này sang mùa khác, từ năm này sang năm khác làm việc như một cái máy,
cứ nhìn cái sự đêm đến “Mỵ chỉ còn biết thức với lửa”, đêm nào cũng vậy, dù cho
có bị A Sử ngứa tay đánh đập hay có người chết ngay ở đó... (không có phản ứng
gì) thì người ta chỉ có thể nghĩ rằng cô sẽ mãi câm lặng như tảng đá cho đến ngày
chết rũ xương ở đây thì thôi...
Vậy mà từ khi nghe đầu núi lấp ló có tiếng sáo rủ bạn đi chơi của ai đó, “Mỵ
lại thiết tha bồi hồi”. Tâm hồn Mỵ bắt gặp tiếng sáo, đã bắt đầu cựa quậy, đã bắt
đầu biết cảm nhận, đã xúc động. Đã sống lại thật rồi! Tiếng sáo mùa xuân nhẹ
nhàng, mỏng tang, vu vơ mà thần diệu tựa thuốc thánh Cam lồ. Tưới đến đâu thì
hồi sinh sự sống, tình yêu đến đó... Kìa, Mỵ đang “nhẩm thầm bài hát của người
thổi sáo”. Mỵ đang hòa lòng mình vào không khí mùa xuân tuổi trẻ của những
cuộc chơi đánh pao, đánh quay. Mỵ đang sống với tâm trạng yêu đương trong
những bài hát. Dòng nước mát hiếm hoi đã len rỉ vào tâm hồn đang khô hạn nứt nẻ
của Mỵ rồi thì lẽ nào không mở lòng?! Tiếng sáo mùa xuân đến và đã neo đậu luôn
trong lòng Mỵ, rồi ám ảnh không rời: “Tai Mỵ văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu
làng”. Rồi như một phản ứng dây chuyền, đồng lọat cả một quá khứ của tuổi trẻ
hiện về, Mỵ lại được sống đắm chìm trong thời tuổi trẻ đầy say mê của mình: “...
Mỵ thổi lá cũng hay như thổi sáo.... bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi
theo Mỵ”... Tiếng sáo dập dìu thiết tha gọi ai đầu làng mà đánh thức cả một miền
hồi ức, kỷ niệm ùa về tươi rói. Rồi tiếng sáo ngày một gần, ngày một da diết hơn;
ngồi một mình trong xó bếp nhưng Mỵ nhận rõ “Tiếng sáo goị bạn yêu vẫn lửng lơ
bay ngoài đường.. Mỵ thấy phơi phới trở lại...”. Mùa xuân đã thực sự về, xốn xang
trong lòng: “Mỵ vui sướng như những đêm xuân ngày trước. Mỵ vẫn còn trẻ, Mỵ
muốn đi chơi...”. Rồi theo phép biện chứng của tâm hồn, cái hiện thực đầy say mê

của quá khứ và tiếng sáo gọi bạn yêu kia đã trở thành thái cực tương phản của
cảnh sống thực tại. Mỵ so sánh đối chiếu, soi xét lại cái hiện thực mà cô đã và
đang phải sống, thấy nó thật phi lý, không thể chấp nhận. Tâm lý Mỵ nảy sinh một


sự phản ứng bất ngờ mà thống nhất: Nghĩ đến nắm lá ngón... Nhìn ở góc độ sự
sống cho thể xác, đây là một bước lùi, tiêu cực. Nhưng nhìn ở góc độ đời sống tinh
thần, nhìn ở SỰ SỐNG ĐÚNG Ý NGHĨA LÀ CUỘC SÔNG CON NGƯỜI, đây là
một dấu hiệu đáng mừng ở Mỵ. Bởi vì đó chính là sự thức tỉnh đầy tính nhân văn:
Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt, thà chết trong một sự khẳng định quyết liệt ý
nghĩa đúng đắn cuộc sống của mình còn hơn phải sống kiếp trâu ngựa suốt cả một
đời. Nhờ tiếng sáo mùa xuân mà Mỵ có được sự thức tỉnh đó.
Tuy nhiên, một cô gái mê tiếng sáo, yêu đời như Mỵ không thể lùi sâu vào mãi
góc chết. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình vẫn “lởng lơ bay ngoài
đường”, và trong đầu Mỵ vẫn “rập rờn tiếng sáo” thì làm sao Mỵ có thể hững hờ,
làm sao Mỵ có thể ăn lá ngón? Thay vào đó, cô “lấy hũ rượu, uống ừng ực từng
bát”. Mỵ dằn lòng xuống, cái đắng cay bị kìm xuống thì cái nồng nàn của hơi men
+ cái đắm say của “tiếng sáo gọi bạn yêu” càng thôi thúc: “Mỵ đứng dậy xắn thêm
mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng” như để tự thắp sáng đời mình, như để khêu to hơn
ngọn lửa tình yêu đang chập chờn trong ý thức của Mỵ. Hành động này lại tạo ra
niềm tin để có hành động tiếp theo mạnh mẽ hơn: Mỵ quấn lại tóc, với tay lấy cái
váy hoa vắt trên vách, sửa soạn đi chơi, bất chấp sự có mặt của A Sử (dù hắn là
hiện thân trực tiếp và thường trực của cái ác, là hung thần đã nghiền nát tất cả
hạnh phúc, sự sống của đời cô). Mỵ hoàn toàn không hề đếm xỉa đến hiện thực
nữa. Lòng mải mê đi theo tiếng sáo, tay cô làm, chân cô bước như kẻ mộng du.
Thậm chí cho đến khi đã bị trói bằng cả một thúng dây đay, bằng cả mái tóc dài
của chính Mỵ, thân xác đau đớn cùng cực, thì tiếng sáo vẫn bám riết tâm hồn Mỵ.
Suốt đêm dài... suốt đêm... Mỵ chỉ còn nghe tiếng sáo... Khi khát vọng tự do, khát
vọng tình yêu đã cháy lên thì hiện thực kia làm sao đủ sức ngăn cản được sự bay
bổng của tâm hồn?!.

Cũng có lúc tiếng chân ngựa đạp vách kéo Mỵ về thực tại. “Mỵ thổn thức nghĩ
mình không bằng con ngựa. Con ngựa còn có lúc đứng gãi chân, nhai cỏ, còn...”
nhưng “tiếng sáo vẫn đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”... Lúc
chừng đã khuya, Mỵ còn tưởng tượng được cuộc chơi xuân đêm nay đã đến lúc


“trai làng đang đến bên vách làm hiệu rủ người yêu dỡ vách rừng chơi. Mỵ đã nín
khóc, Mỵ lại thiết tha bồi hồi”. Tiếng sáo đã trở thành điểm tựa và Mỵ đã vững
vàng hơn.



×