Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHUYỂN DỊCH cơ cấu KINH tế NGÀNH ở HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.78 KB, 106 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1

1.1.
1.2.

Chương 2

2.1.

2.2.

2.3.
Chương 3

3.1.

3.2.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ NGÀNH Ở HUYỆN KIẾN THUỴ,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Những vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Quan niệm, nội dung, sự cần thiết và các nhân tố ảnh
hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở huyện
Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng


THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NGÀNH Ở HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG THỜI GIAN QUA
Đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở huyện
Kiến Thụy ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành
Những thành tựu, hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải
Phòng thời gian qua
Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NGÀNH Ở HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG THỜI GIAN TỚI
Một số quan điểm cơ bản về đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng thời
gian tới

Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng
thời gian tới

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

12
12

22


39

39

42
62

72

72

78
97
98
102


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành luôn là một tất yếu khách quan trong
điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu tiến hành công nghiệp hoá – hiện đại
hoá như nước ta. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tạo nên sự chuyển đổi căn
bản nền kinh tế trên nhiều lĩnh vực. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng, là chủ trương lớn của Đảng và
nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI chỉ rõ: “Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng
đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức...Xây dựng
cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả”.

Thực tế cho thấy, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đã được
nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận và phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy
nhiên, đây là một vấn đề có nội dung phức tạp xét cả về mặt lý luận và thực
tiễn, trong đó có nhiều khía cạnh chưa được làm sáng tỏ. Và nếu nhìn sâu hơn
vào từng địa bàn, thì một trong những vấn đề cần phải nghiên cứu đó là sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong điều kiện cụ thể ở một địa phương.
Lâu nay việc nghiên cứu thực trạng cơ cấu ngành và tìm ra những giải pháp
để đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phù hợp
trên quy mô quốc gia nói chung lẫn ở các cấp tỉnh, thành phố và huyện nói
riêng luôn là điều cần thiết và bổ ích.
Kiến Thụy là một huyện đồng bằng ven biển nằm ở phía Đông Nam
Thành phố Hải Phòng, có những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý và nguồn
lực để phát triển kinh tế, tuy nhiên nền kinh tế còn có những mặt yếu kém, thu
nhập bình quân đầu người còn thấp, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, cơ cấu
kinh tế ngành đã có những bước chuyển dịch nhưng chưa thật sự đảm bảo
theo hướng: hiện đại, hiệu quả và bền vững; chưa tương xứng với tiềm năng,
lợi thế phát triển của địa phương.
3


Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là nhiệm vụ quan trọng
hiện nay của huyện Kiến Thụy. Việc xác định và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành thế nào cho hợp lý để tạo điều kiện cho huyện khai thác hết tiềm năng,
thế mạnh của mình, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đảm bảo được các
mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài đó là một việc rất cấp thiết không chỉ có
ý nghĩa lý luận khoa học mà còn là đòi hỏi bức xúc của thực tiễn cuộc sống.
Với lý do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng” làm Luận văn tốt nghiệp
chương trình thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Xung quanh chủ đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành nói riêng, đã có nhiều công trình khảo cứu ở nhiều
góc độ khác nhau dưới các hình thức như: Đề tài khoa học các cấp, sách tham
khảo và chuyên khảo, các đề tài luận văn, luận án, các bài báo được đăng tải
trên các báo và tạp chí.v.v...
* Các sách tham khảo và chuyên khảo
Đến nay, đã có nhiều cuốn sách viết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành đã được xuất bản. Tiêu biểu có các cuốn sau:
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI” do
TS Nguyễn Trần Quế Lâm làm chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2004) đã đi sâu phân tích và đánh giá một cách tổng quát sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế Việt Nam trong những năm 1990 – 2002, chỉ ra những điểm
mạnh, yếu, xu hướng chuyển dịch và các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nhanh hơn…Tác phẩm đã dựng lên một bức tranh tổng quát về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong những năm 1990 – 2002.
Tác phẩm “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam” do PGS.TS
Bùi Tất Thắng chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006) được biên soạn
dựa trên kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp nhà nước KX 02 – 05:
4


“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ” (thuộc Chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KX – 02:
“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa: con đường
và bước đi”). Với cách phân tích cụ thể hơn, tập trung khảo cứu một chủ đề
độc lập, toàn diện và tổng hợp về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cuốn
sách đã trình bày tổng quan một số vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành trong thời kỳ công nghiệp hoá, những tiêu chí đánh giá sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, những kinh nghiệm và bài học rút ra từ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong một số mô hình công nghiệp hoá và quá trình thay đổi nhận

thức trong cách tiếp cận về công nghiệp hoá, thể hiện trong các văn kiện Đảng
qua các thời kỳ. Cuốn sách đã cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành, một vấn đề cơ bản nhất trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nói chung.
Cuốn sách chuyên khảo “Phát triển kinh tế vùng trong quá trình Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá” do TS Nguyễn Xuân Thu và TS Nguyễn Văn Phúc
đồng chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006) đã trình bày một cách
tổng quan về vùng, phân vùng kinh tế. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá vùng
dưới góc cạnh khác nhau, các tác giả đã rút ra những nhận định quan trọng về
tính đa dạng và phân dị của các điều kiện và yếu tố phát triển vùng, mức độ
và khả năng khai thác nguồn lực của từng vùng lãnh thổ. Từ đó xác định khả
năng và sự nắm bắt, vận dụng khoa học công nghệ cũng như đường hướng
bước đi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên các kiểu và loại vùng.
Qua đánh giá thực trạng phát triển kinh tế - xã hội từng kiểu và loại vùng
khác nhau, các tác giả đã rút ra những nhận định về việc khơi dậy các tiềm
năng, thế mạnh của các vùng. Đồng thời rút ra xu hướng phát triển của các
vùng, đặc biệt về xu hướng biến đổi cơ cấu lãnh thổ, về chênh lệch, về sự bất
bình đẳng giữa các vùng, đặc biệt về xu hướng biến đổi cơ cấu lãnh thổ, về
chênh lệch vùng, về sự bất bình đẳng giữa các vùng về kết hợp cơ cấu ngành,
5


cơ cấu lãnh thổ trên các vùng. Thành công chính của cuốn sách này là bước
đầu phân tích và luận giải về sự phát triển kinh tế vùng trong cơ cấu kinh tế
chung của cả nước. Tuy nhiên, cuốn sách chỉ tập chung trình bày một cách
khái quát về sự phát triển của các vùng kinh tế trên quy mô cả nước mà chưa
đi sâu vào nghiên cứu từng vùng kinh tế riêng biệt.
Những công trình nói trên đã tập trung nghiên cứu từng loại hình kinh
tế riêng biệt, song chưa đi vào so sánh và phân tích sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành ở Việt Nam.

Từ góc độ khoa học kinh tế, còn có nhiều công trình nghiên cứu, hội
thảo khoa học đã đi sâu bàn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế như: “Đầu tư trực
tiếp nước ngoài và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Hải Phòng” do tác giả
Đào Văn Hiệp làm chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011) đã trình
bày một số vấn đề lý luận, thực tiễn về đầu tư nước ngoài; mối quan hệ giữa
đầu tư nước ngoài với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam
nói chung, Hải Phòng nói riêng và việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài
để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Hải Phòng trong những năm tới. Cuốn sách “Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam” do tác
giả Đỗ Hoài Nam làm chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996) đã nêu
lên một số vấn đề lý thuyết và kinh nghiệm thế giới về chuyển dịch cơ cấu
ngành của nền kinh tế. Đặc điểm phát triển kinh tế khu vực châu Á – Thái
Bình Dương và tác động cơ cấu của kinh tế đến các nước đi sau trong khu
vực. “Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Thành phố Hồ Chí Minh
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” do các tác giả Trương Thị
Minh Sâm, Phương Ngọc Thạch và Lâm Quang Huyền làm đồng chủ biên
(Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000) đã trình bày một cách tổng quát về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nêu lên các tiêu
chuẩn xác định cơ cấu kinh tế ngành, lựa chọn các ngành trọng điểm và mũi
6


nhọn trong cơ cấu kinh tế ngành. Đưa ra các giải pháp để chuyển dịch và tối
ưu hoá cơ cấu kinh tế ngành ở Thành phố Hồ Chí Minh. Chuyển dịch cơ cấu
và xu hướng phát triển kinh tế của nông nghiệp Việt Nam theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá từ thế kỷ XX đến thế kỷ XXI trong “Thời đại kinh tế
tri thức” của Lê Quốc Sử, Nxb Thống kê, TP Hồ Chí Minh, 2001; Cơ cấu
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế (sách chuyên khảo), Phan Công Nghĩa
(Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2007); Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

vùng đồng bằng sông Hồng giai đoạn 1995 – 2000 (Do Bộ khoa học công
nghệ, chủ trì)… Những công trình này cung cấp một cái nhìn khái quát về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử trong thế kỷ
XX, đầu thế kỷ XXI, cũng như việc nghiên cứu thống kê về cơ cấu kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Về các luận án, luận văn nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành
Nhiều luận án tiến sĩ kinh tế cũng đề cập đến vấn đề chuyển dịch cơ
cấu kinh tế như: Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong công
nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Luận án tiến sĩ của Trần Văn
Nhung (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001) đã nêu
những vấn đề chung về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng
lãnh thổ. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp ở thành phố Hồ
Chí Minh và các giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy mạnh việc chuyển dịch này
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; Thị trường nông thôn với sự phát
triển kinh tế hộ nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long.
Luận án tiến sĩ của Bùi Thị Minh Hồng (Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001); chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong nền
kinh tế thị trường ở thành phố Hải Phòng, đã phân tích thực trạng cơ cấu kinh
tế ngành và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong nền kinh tế thị trường

7


giai đoạn 1990 - 2000 của Hải Phòng. Phương hướng, điều kiện và biện pháp
cần thiết để thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành ở thành phố Hải Phòng.
Luận án tiến sĩ của Trần Tuấn Anh (Trường Đại học Kinh tế thành phố
Hồ Chí Minh, 2007); Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tỉnh
Trà Vinh đến năm 2015 đã xác định phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành của tỉnh đến năm 2015. Hệ thống hoá cơ sở lý luận về cơ cấu kinh tế,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nội bộ các ngành ở tỉnh Trà Vinh đến năm 2015.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở vùng lãnh thổ đồng
bằng sông Hồng: Thực trạng và giải pháp, luận án tiến sĩ kinh tế của Phạm
Ngọc Dũng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002) đã nêu
lên cơ sở lý luận và thực trạng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, những
nguyên nhân hạn chế đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nông
nghiệp ở đồng bằng sông Hồng, đồng thời đưa ra định hướng cùng các giải
pháp nhằm đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nông nghiệp vùng
đến năm 2010
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của vùng duyên hải Nam Trung Bộ
của Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, luận án
tiến sĩ kinh tế của Vũ Hùng Cường (Viện kinh tế Việt Nam, 2008) đã chỉ ra
cơ sở lý luận phân tích chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của vùng duyên hải
Nam Trung Bộ của Việt Nam giai đoạn 1996 – 2005. Định hướng và giải
pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của vùng duyên hải Nam
Trung Bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Phương hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành vùng
Trung du và miền núi Bắc Bộ thời kỳ đến năm 2020, luận án tiến sĩ của Đỗ
Mạnh Khởi (Viện chiến lược Phát triển, 2010) đã đi vào phân tích, đánh giá
thực trạng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của vùng Trung du và miền
8


núi Bắc Bộ thời kỳ 1997 – 2008. Xác định quan điểm, phương hướng và giải
pháp nhằm góp phần thúc đẩy quá trình này…
Ngoài ra, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn có những luận án tiến sĩ, luận
văn thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
như: Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Vinh (Học viện chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội, 2010); Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 1997 – 2003
của Đào Thị Vân (Trung tâm Đào tạo bồi dưỡng học viên lí luận chính trị, Đại
học quốc gia Hà Nội, 2004)…Những luận án, luận văn này đã đề cập đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong một tỉnh, hoặc một vùng, cung cấp về ý tưởng
và cách tiếp cận nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn mỗi địa
phương, gắn với mỗi hoàn cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể, đặc biệt làm rõ sự
lãnh đạo của Đảng bộ mỗi địa phương về chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Những công trình trên tuy không nghiên cứu trực tiếp về sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành ở huyện Kiến Thuỵ, thành phố Hải Phòng, song
cũng đã khẳng định tính tất yếu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hiệu quả
của nó đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cung cấp
cho tác giả luận văn một cách nhìn tổng thể về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trên cả nước và những tri thức cần thiết, nhất là về mặt phương pháp, tạo điều
kiện thuận lợi để đi sâu nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
trên địa bàn huyện Kiến Thụy, đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp
nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn huyện Kiến
Thụy, thành phố Hải Phòng thời gian tới
9


* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở huyện Kiến
Thụy thành phố Hải Phòng tập trung trong giai đoạn 2010 – 2014. Chỉ rõ
những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở huyện Kiến Thuy.

Đề xuất một số quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải
Phòng giai đoạn 2015 – 2020.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: Được giới hạn trong huyện Kiến Thụy, thành
phố Hải Phòng
Phạm vi về thời gian: Đề tài lấy mốc thời gian tập trung từ 2010 đến
2014 để đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, trên
cơ sở đó đề xuất các quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành ở huyện Kiến Thụy giai đoạn 2015 - 2020.
Phạm vi về nội dung: Được giới hạn trong việc nghiên cứu chuyển dịch
cơ cấu giữa 03 ngành: công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ và nội bộ từng
ngành ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ
cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Các văn kiện của Đảng
Cộng Sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
10


Trong quá trình nghiên cứu tác giả còn sử dụng các lý luận có liên quan
để tiếp cận đối tượng, luận giải các nhiệm vụ của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử; phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học kinh tế chính

trị là phương pháp trừu tượng hoá khoa học
Tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý thuyết.
Luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, thống
kê, so sánh, hệ thống hoá, phân tích định lượng và khái quát hóa, phương
pháp chuyên gia...
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là cơ sở khoa học cho việc xác
định chủ trương, giải pháp của lãnh đạo, chính quyền và các cơ quan chức
năng trên địa bàn huyện Kiến Thuỵ, thành phố Hải Phòng và các địa phương
khác góp phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, kết
quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, học tập, giảng dạy bộ môn kinh tế chính trị liên quan tới vấn
đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
7. Kết cấu của đề tài
Phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH
Ở HUYỆN KIẾN THUỴ, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

1.1. Những vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
1.1.1. Cơ cấu kinh tế
“Cơ cấu” là một thuật ngữ được dùng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỉ lệ
các mối quan hệ hợp thành hệ thống và được biểu hiện như là một tập hợp
mối liên hệ hữu cơ giữa các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định.
Cơ cấu kinh tế là một khái niệm rộng, phức tạp. Việc xác định đúng khái

niệm cơ cấu kinh tế sẽ góp phần làm rõ nội dung cơ cấu kinh tế và phương
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Do cách tiếp cận, mục đích, đối tượng nghiên cứu khác nhau nên cũng
có những cách hiểu khác nhau về cơ cấu kinh tế, nhưng xét cho cùng thì cơ
cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế thể hiện các mối quan hệ giữa các bộ phận
cấu thành nền kinh tế quốc dân, đó là các mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành,
các vùng, các thành phần kinh tế. Mối quan hệ này phản ánh cả về mặt số
lượng và chất lượng của các yếu tố hợp thành. Có thể thấy rằng nền kinh tế
quốc dân là một tổng thể phức tạp gồm nhiều ngành, nhiều nghề, nhiều lĩnh
vực, nhiều thành phần. Vì thế, cơ cấu kinh tế có phạm vi rộng hẹp khác nhau,
có cơ cấu kinh tế cả nước, có cơ cấu kinh tế ở từng vùng, từng địa phương, có
cơ cấu ngành và cơ cấu trong từng ngành...
Cơ cấu kinh tế bao giờ cũng gắn với những điều kiện không gian và thời
gian cụ thể. Cơ cấu kinh tế không cố định trong một thời gian dài mà có sự
vận động chuyển dịch cần thiết, phù hợp với những biến động của điều kiện
tự nhiên - kinh tế - xã hội. Sự duy trì quá lâu hoặc sự thay đổi quá nhanh
chóng cơ cấu kinh tế mà không phù hợp với những biến đổi của tự nhiên kinh tế - xã hội đều có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình sản xuất kinh
doanh. Bởi vậy, việc duy trì hay thay đổi cơ cấu kinh tế không phải là mục
12


tiêu mà chỉ là phương tiện của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ cấu
kinh tế trong quá trình vận động chuyển dịch nhanh hay chậm không hoàn
toàn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan mà còn phụ thuộc vào các điều kiện cần
thiết cho sự chuyển dịch.
Trong cơ cấu kinh tế quốc dân, cơ cấu ngành là quan trọng nhất. Cơ cấu
ngành được hình thành trên cơ sở phân công lao động theo ngành, là kết quả
của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu kinh tế ngành là tổ hợp các ngành
hợp thành, là các nhân tố tạo thành ngành kinh tế, là quan hệ hữu cơ giữa các
nhân tố tạo thành ngành kinh tế và trong nội bộ từng ngành đó. Về mặt số

lượng, cơ cấu ngành biểu hiện quan hệ tỷ lệ giá trị, tỷ trọng ngành đó với
ngành khác trong nền kinh tế. Quan hệ tỷ lệ về mặt giá trị của một ngành nào
đó trong cơ cấu ngành luôn luôn có sự thay đổi. Về mặt chất lượng, cơ cấu
ngành biểu hiện sự tác động qua lại bên trong giữa các ngành với nhau.
Thông thường, các ngành trong cơ cấu kinh tế được phân chia thành 3
nhóm: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong từng nhóm ngành lại có
sự phân chia thành những phân ngành nhỏ hơn.
Cơ cấu kinh tế
Theo C.Mac: Cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản
xuất phù hợp với một quá trình phát triển nhất định của lực lượng sản xuất
vật chất. Sở dĩ như vậy, vì ở mỗi trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất
sẽ quyết định những quan hệ sản xuất khác nhau, mối quan hệ giữa các bộ
phận cấu thành cũng khác nhau, tạo thành cơ cấu kinh tế khác nhau, đặc
biệt là cơ cấu ngành, bởi gắn với mỗi ngành sản xuất khác nhau sẽ có tư
liệu sản xuất khác nhau...Các bộ phận này cấu thành lực lượng sản xuất vật
chất của một xã hội nhất định. C.Mác còn nhấn mạnh: cơ cấu kinh tế là một
sự phân chia về chất và một tỷ lệ về số lượng của những quá trình sản xuất
xã hội. Vì vậy, khi phân tích cơ cấu kinh tế phải chú ý đến cả hai khía cạnh
là chất lượng và số lượng.
13


Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các
ngành, các lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng của chúng
và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định giữa chúng hợp thành trong một
khoảng thời gian nhất định.
Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan phản ánh trình độ phát triển của
xã hội và các điều kiện phát triển của một quốc gia. Sự tác động từ chiến lược
phát triển kinh tế, hay sự quản lý của nhà nước có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định chứ

không thể thay đổi hoàn toàn nó. Mặt khác, cơ cấu kinh tế lại mang tính lịch
sử xã hội nhất định. Cơ cấu kinh tế được hình thành khi quan hệ giữa các
ngành, các lĩnh vực, bộ phận kinh tế được thiết lập một cách cân đối và sự
phân công lao động diễn ra một cách hợp lý.
Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách hợp lý khi chủ thể quản lý
Nhà nước có khả năng nắm bắt các quy luật khách quan, đánh giá đúng nguồn
lực trong nước và ngoài nước để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá
trình hình thành cơ cấu kinh tế. Nhưng sự tác động này không mang tính áp
đặt ý chí mà là sự tác động mang tính định hướng.
Cơ cấu kinh tế được xem xét dưới các góc độ khác nhau như trong đó:
Cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế. Đây
là 3 bộ phận cơ bản và có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cơ cấu kinh tế
ngành là dạng cơ cấu kinh tế quan trọng nhất của mọi quốc gia.
Từ những phân tích trên có thể hiểu, cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp
thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối
liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong
những không gian và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, chúng vận động hướng
vào những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này cơ cấu kinh tế là phạm
trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội.
14


Như vậy, từ cách hiểu trên chúng ta có thể khái quát cơ cấu ngành kinh
tế bao gồm một số nội dung cơ bản sau: Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố
cấu thành hệ thống kinh tế của một quốc gia.
Số lượng, tỷ trọng của các nhóm ngành và của các yếu tố cấu thành hệ
thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước.
Các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố
hướng vào các mục tiêu đã xác định.
Sự vận động và phát triển của nền kinh tế theo thời gian luôn bao hàm

trong đó sự thay đổi bản thân các bộ phận cũng như sự thay đổi của các kiểu
cơ cấu. Cho nên dù xem xét dưới bất kỳ góc độ nào cũng có thể thấy rằng, cơ
cấu của nền kinh tế quốc dân là tổng thể những mối quan hệ về chất lượng, số
lượng giữa các bộ phận cấu thành đó trong một thời gian và trong những điều
kiện kinh tế – xã hội nhất định.
1.1.2. Cơ cấu kinh tế ngành
Cơ cấu kinh tế ngành là tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh
tế, biểu hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất
lượng giữa các ngành với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, luôn vận động và hướng vào
những mục tiêu cụ thể. Như vậy, cần phải hiểu cơ cấu kinh tế ngành theo
những nội dung sau:
Một là, số lượng các kinh tế ngành được hình thành. Số lượng các kinh
tế ngành không cố định. Từ đầu thế kỷ 19, nhà kinh tế học Colin Clark căn cứ
vào tính chất chuyên môn hoá của sản xuất đã chia thành 3 nhóm ngành:
Ngành thứ nhất sản xuất những sản phẩm dựa trên sự khai thác các nguồn tài
nguyên thiên nhiên (gồm nông nghiệp và khai thác khoáng sản). Ngành thứ
hai có chức năng gia công chế biến sản phẩm có nguồn gốc từ ngành thứ nhất,
đó là ngành công nghiệp chế biến. Hai ngành này là những ngành sản xuất ra
của cải vật chất hữu hình, còn ngành thứ ba là ngành sản xuất các sản phẩm
15


vô hình. Cách phân loại của Clark có ảnh hưởng rộng rãi và được áp dụng
phổ biến ở nhiều nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn nhiều cách phân loại
ngành khác nhau. Để thống nhất cách phân loại ngành, Liên hợp quốc (UN)
sau này đã phân loại các kinh tế ngành thành 3 khu vực: khu vực 1 là những
ngành sản xuất sản phẩm sơ chế, có đầu vào từ tự nhiên: nông nghiệp, thuỷ
sản, lâm nghiệp và công nghiệp khai thác; Khu vực 2 là các ngành công
nghiệp chế biến và xây dựng; Khu vực 3 là các ngành dịch vụ: sản xuất và

phân phối điện nước, thương mại, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, giáo dục, y
tế...
Hiện nay, ở Việt Nam, cơ cấu kinh tế ngành bao gồm 3 ngành lớn
(ngành cấp I): nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Các ngành cấp I lại được
phân thành các ngành cấp II, như ngành dịch vụ được chia thành các phân
ngành: dịch vụ bảo hiểm, ngân hàng, tài chính, y tế, giáo dục, vận tải...Ngành
nông nghiệp có: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Ngành công
nghiệp được phân thành: công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp khai
thác...Các ngành cấp II được phân thành các ngành cấp III, như hoa màu, cây
ăn trái...là phân ngành cấp III của ngành trồng trọt...
Hai là, mối quan hệ tương tác giữa các ngành với nhau. Mối quan hệ
này bao gồm cả về mặt số lượng và mặt chất lượng. Mặt số lượng thể hiện ở
tỷ trọng (tính theo GDP, lao động, vốn...) của mỗi ngành trong tổng thể nền
kinh tế quốc dân; còn mặt chất lượng phản ánh vị trí, tầm quan trọng của từng
ngành và tính chất của sự tác động qua lại giữa các ngành với nhau. Sự tác
động qua lại giữa các ngành có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác động trực
tiếp bao gồm tác động cùng chiều và ngược chiều, còn mối quan hệ gián tiếp
được thể hiện theo các cấp 1,2,3...Nói chung mối quan hệ của các ngành cả số
lượng và chất lượng đều thường xuyên biến đổi và ngày càng trở lên phức tạp

16


hơn theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội
trong nước và quốc tế.
1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành luôn là một tất yếu khách quan, một
nhiệm vụ hết sức quan trọng, lâu dài đối với mỗi quốc gia, địa phương trong
phát triển kinh tế. Nếu như mỗi quốc gia, địa phương xác định đúng các
phương hướng và giải pháp thì sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế cao trong quá

trình phát triển. Ngược lại, nếu kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
không theo đúng nhiệm vụ, yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội
thì cái giá phải trả cho sự phát triển sau này sẽ là khôn lường.
Ngày nay, trước sự thay đổi của nhu cầu thị trường và sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật và đặc biệt là sự tác động của việc mở cửa hội nhập kinh tế
thế giới thì các quốc gia trên thế giới đều đã và đang đặt ra mục tiêu, yêu cầu
cũng như xác định các kế hoạch, chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
của mình. Ở Việt Nam cũng như ở các nước đang phát triển khác trên thế
giới, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là xác định, xây dựng một cơ cấu
kinh tế ngành phù hợp với quá trình phát triển kinh tế và quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Yêu cầu là phải định hướng được một
cơ cấu kinh tế ngành, xác định các ngành chủ chốt, mũi nhọn cho phù hợp với
mỗi giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở mỗi quốc gia, địa phương
thành công hay thất bại phụ thuộc rất lớn vào chủ trương, chính sách chuyển
dịch và việc tổ chức thực hiện các mục tiêu đã xác định. Nhà nước có vai trò
quyết định trong việc đề ra các chủ trương, chính sách kinh tế vĩ mô, còn các
doanh nghiệp thì có vai trò quyết định việc thực hiện các phương hướng
nhiệm vụ chuyển dịch đó.
Đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam việc tư duy, nhận thức về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành cũng đã có sự bổ sung, thay đổi và hoàn thiện qua
17


các kỳ Đại hội: Tại Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ III (1960), vấn
đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đã được đề cập tới với quan điểm chỉ
đạo “thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp và
công nghiệp nhẹ”[6,tr.79].
Tại Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI (1986), với cách đặt

vấn đề “đổi mới tư duy kinh tế” đã đánh dấu một bước chuyển căn bản trong
tư duy nhận thức của Đảng về cơ cấu kinh tế ngành thời kỳ công nghiệp hoá.
Từ việc nhìn nhận, đánh giá một cách nghiêm túc những tồn tại, hạn chế trong
nhận thức và quản lý, tổ chức chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu
kinh tế ngành nói riêng, Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định giải pháp cơ cấu
là phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện 3 chương trình
mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Trên cơ sở các thành tựu của 15 năm đổi mới, phát triển kinh tế và về
cơ bản đã hoàn thành các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai
đoạn (1991 - 2000). Tại Đại hội Đảng lần thứ IX (2001), đối với vấn đề
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lần đầu tiên vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động
được đưa vào như một mục tiêu quan trọng của vấn đề chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, tư tưởng xuyên xuốt
của Đại hội IX là “rút ngắn thời gian, vừa có những bước nhảy tuần tự, vừa có
bước nhảy vọt”, “cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các tiềm năng, lợi thế
của đất nước, tăng cường sức cạnh tranh và phải gắn với nhu cầu thị trường
trong và ngoài nước”, phải coi trọng thị trường trong nước và chủ động mở
rộng thị trường nước ngoài, tăng cường việc xuất khẩu hàng hoá. Và cũng tại
kỳ Đại hội này, có 2 phân ngành được xác định là những ngành mũi nhọn của
nền kinh tế gồm: công nghiệp điện tử - thông tin và ngành du lịch. Đây là
điểm mới trong quan điểm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế so với các kỳ
Đại hội trước đó.
18


Với việc mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới và trước xu thế toàn cầu hoá.
Kinh tế Việt Nam phải chịu những tác động mạnh mẽ. Trước tình hình này,
Đại hội Đảng lần thứ X (2006) đã xác định: “Đổi mới mô hình tăng trưởng và
cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất, hiệu quả, phát triển kinh tế nhanh, bền
vững” [12,tr.46]. Đối với cơ cấu kinh tế ngành, Đảng ta có chủ trương: “Cơ

cấu lại, xây dựng nền công nghiệp theo hướng phát triển mạnh những ngành
có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát
triển nhanh, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ kinh tế, từng bước có khả
năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn
cầu”[12,tr.67].
Cùng với thời gian, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã có những thay đổi
căn bản về tư duy, nhận thức đối với vấn đề cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nói riêng. Cùng với việc
thay đổi tư duy, nhận thức Đảng cũng đã xác định được nền kinh tế đất nước
hiện đang nằm ở vị trí nào trên nấc thang phát triển kinh tế cũng như trong
mối quan hệ quốc tế. Và với kinh nghiệm của thế giới, cũng như của Việt
Nam một đất nước mà nền kinh tế đã đạt được những thành tựu hết sức quan
trọng trong thời kỳ đổi mới, chúng ta càng hiểu rõ hơn những nhân tố không
thể bỏ qua nếu muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp lạc
hậu sang kinh tế công nghiệp hiện đại trong thời điểm hiện nay.
Từ những luận giải trên, có thể đưa ra quan niệm về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành như sau: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là sự thay đổi về số
lượng, vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ tương tác giữa các ngành trong nền
kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công
lao động xã hội.
Cơ cấu kinh tế ngành là một phạm trù động, nó luôn luôn thay đổi theo
từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu không
ổn định. Qúa trình thay đổi cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái
19


khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát
triển gọi là chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là một quá trình diễn ra
liên tục và luôn gắn liền với sự phát triển kinh tế. Quan hệ giữa chuyển dịch

cơ cấu ngành kinh tế và sự phát triển của nền kinh tế luôn gắn kết với nhau và
có một ý nghĩa hết sức quan trọng vì gắn với nó là cả một động thái về phân
bổ nguồn lực có hạn của mỗi quốc gia trong những thời điểm nhất định.
Quá trình sản xuất vật chất luôn chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã
hội ngày càng sâu sắc, tính chuyên môn hoá trong lao động ngày càng nâng
cao, sẽ làm xuất hiện hoặc biến mất một số ngành kinh tế. Nói cách khác, sự
phát triển của phân công lao động xã hội và lực lượng sản xuất tất yếu dẫn
đến sự thay đổi cơ cấu ngành nghề. Như vậy, cơ cấu kinh tế ngành luôn thay
đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế luôn
vận động, phát triển. Sự thay đổi đó bao gồm cả về số lượng và về quan hệ tỷ
lệ giữa các ngành.
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành mỗi quốc gia, mỗi
ngành hay mỗi vùng, mỗi địa phương có thể đưa vào cơ cấu kinh tế những
ngành mới (sản phẩm hoặc dịch vụ mới) hay có thể loại ra khỏi cơ cấu kinh tế
những ngành (sản phẩm hoặc dịch vụ) không còn phù hợp hoặc có thể chuyển
dịch theo hướng tăng hay giảm tỷ trọng của một ngành, một sản phẩm nào đó.
Đó là quá trình chuyển từ cơ cấu kinh tế lạc hậu, bất hợp lý sang cơ cấu kinh
tế hợp lý; hoàn thiện và bổ sung cơ cấu kinh tế cũ nhằm biến đổi cơ cấu cũ
thành cơ cấu kinh tế mới hiện đại và phù hợp hơn. Sự thay đổi như vậy không
đơn giản chỉ là sự thay đổi số lượng các ngành và tỷ trọng mỗi ngành mà còn
bao gồm sự thay đổi vị trí, tính chất của mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu
ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có
và nội dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù
20


hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm
biến đổi cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.
Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực ngày càng mở rộng và

phát triển thì việc lựa chọn và chuyển dịch phù hợp, hợp lý sẽ thể hiện được
các lợi thế và khả năng cạnh tranh của một quốc gia trong nền kinh tế toàn
cầu, là nền tảng quan trọng cho sự chủ động tham gia và thực hiện hội nhập
thành công.
Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành không chỉ là sự thay
đổi về tỷ trọng, số lượng, vị trí và mối quan hệ giữa các ngành mà còn là sự
thay đổi về chất và lượng trong nội bộ các ngành. Đồng thời, quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành cũng là quá trình chuyển dịch mạnh mẽ về lực
lượng lao động giữa các ngành và trong nội bộ từng ngành kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân tạo điều
kiện giải quyết sự bất bình đẳng giữa các ngành, các vùng trong nền kinh tế.
Đồng thời, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành cũng là quá trình sắp xếp lại tỷ
trọng các ngành, các loại hình doanh nghiệp theo hướng tăng cường các
ngành, các loại hình doanh nghiệp có trình độ khoa học công nghệ cao hơn,
tiên tiến hơn, từ đó tạo ra hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn, thúc đẩy tốc
độ tăng trưởng.
Qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành sẽ góp phần đô thị hoá
nông thôn, miền núi, sẽ tạo ra sự phát triển bình đẳng giữa các vùng, đưa
miền núi tiến kịp miền xuôi, đồng thời qua đó thúc đẩy phát triển của toàn
nền kinh tế.
Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải tạo ra được một cơ cấu
kinh tế hiện đại, hợp lý giữa các ngành của nền kinh tế. Để có được một cơ
cấu kinh tế như thế, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải đảm bảo
các yêu cầu sau: thứ nhất: quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải
21


đảm bảo phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước nói chung cũng như tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, từng địa

phương nói riêng; thứ hai: chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải đảm bảo
việc khai thác, sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực của đất nước và
phải phù hợp với sự phát triển, tiến bộ của khoa học kỹ thuật, mở cửa hội
nhập kinh tế quốc tế; thứ ba: quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nhất
thiết phải gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, phát triển nguồn
nhân lực và phân công lao động một cách hợp lý.
1.2. Quan niệm, nội dung, sự cần thiết và các nhân tố ảnh hưởng đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng
1.2.1. Quan niệm
Là một bộ phận quan trọng nhất trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Là
những ngành kinh tế được hình thành và số ngành kinh tế có mối quan hệ
biểu hiện bằng tỷ trọng của ngành so với tổng thể nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế
được hình thành trên cơ sở phân công lao động xã hội và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, hình thành nên các ngành chuyên môn hoá tổng hợp
( Công nghiệp - Nông nghiệp - Dịch vụ).
Chuyển dịch cơ cấu ngành không chỉ là sự thay đổi về số lượng các
ngành, tỷ trọng của mỗi ngành mà còn bao gồm sự thay đổi vị trí, tính chất
mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải
dựa trên cơ sở của một cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển dịch là cải
tạo cơ cấu cái cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu tiên tiến,
hoàn thiện nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.
Qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là một quá trình diễn ra liên tục
và gắn liền với sự phát triển kinh tế
Từ những phân tích trên có thể quan niệm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành ở huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng là sự vận động không
ngừng, biến đổi về cấu trúc, tỷ trọng, tốc độ giữa các ngành kinh tế, cụ thể :

22



Công nghiệp - Nông nghiệp - Dịch vụ, sao cho đạt được cơ cấu ngành kinh tế
hợp lý hiện đại hơn so với trước, từ đó tạo đà cho sự phát triển kinh tế - chính
trị - xã hội ở các thời kì tiếp theo.
Từ quan niệm trên cho thấy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở huyện
Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng là công việc thường xuyên, là trách nhiệm
của Đảng bộ, chính quyền, các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp và mọi
người dân trong huyện. Đây là quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện các
chủ trương, cơ chế chính sách thông qua các biện pháp, hình thức phù hợp
nhằm tác động theo hướng tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
ngành trên địa bàn huyện. Sự chuyển dịch đó phải được tiến hành một cách
toàn diện, đồng bộ trên các lĩnh vực từ lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất,
cơ cấu kinh tế đến quy hoạch, bố trí, xắp xếp lại những ngành, những lĩnh vực
sao cho hợp lý đảm bảo được lợi ích cho các ngành.
Chủ thể của sự chuyển dịch, là Đảng bộ, các cấp chính quyền, các cơ
quan ban ngành chức năng, các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân trên
địa bàn huyện. Các chủ thể này phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy các
cấp, sự quản lý của các cấp chính quyền, sự chỉ đạo của các cơ quan chức
năng theo một đường hướng xác định.
Mục đích của sự chuyển dịch, là chuyển từ cơ cấu kinh tế cũ, lạc hậu sang
cơ cấu kinh tế mới, hợp lý và hiện đại hơn, tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình
phát triển kinh tế - xã hội và nó sẽ đưa đến sự biến đổi cả về vị trí, tỷ trọng và
mối quan hệ tương hỗ giữa các ngành kinh tế. Nói cách khác, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành nhằm tạo ra đầy đủ những điều kiện tiền đề cho quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo đà cho sự phát triển lực lượng sản xuất.
Phương thức thực hiện, thông qua các chủ trương, đường lối, các kế
hoạch, quy hoạch, chương trình, dự án của Huyện uỷ, uỷ ban nhân dân
huyện…nhằm phát huy có hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực trong phát
triển kinh tế theo mục tiêu đã xác định.
23



Nội dung phát triển, phải đảm bảo toàn diện cả lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế, cho phép phát huy hết mọi tiềm năng thế
mạnh của huyện, tạo đà phát triển mạnh mẽ.
1.2.2. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở huyện Kiến
Thụy, thành phố Hải Phòng
Thời gian qua, kinh tế huyện Kiến Thụy tăng trưởng liên tục với tốc độ
khá. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng
nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, thương mại, dịch vụ.
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của huyện thay đổi theo
hướng tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng của
ngành nông nghiệp.
Nằm trong xu thế chung của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của huyện đang có sự chuyển
dịch theo hướng tích cực, đúng hướng phản ánh đúng những quan điểm, nghị
quyết của Huyện uỷ, kế hoạch của Uỷ ban nhân dân huyện Kiến Thuỵ về đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của ngành công
nghiệp - dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, nhiều ngành mới sẽ ra đời, nhiều
khu, cụm công nghiệp và các khu đô thị, thị tứ sẽ hình thành trong huyện. Vì
vậy, cơ cấu kinh tế ngành sẽ có xu hướng chuyển dịch từ nền nông nghiệp
chủ yếu sang phát triển công nghiệp và dịch vụ. Trong đó, nông nghiệp giảm
dần về giá trị tương đối nhưng vẫn tăng lên về giá trị tuyệt đối. Công nghiệp
và dịch vụ tăng cả tương đối và tuyệt đối. Nội bộ các ngành cũng có sự
chuyển dịch về cơ cấu, quy mô, trình độ công nghệ với chất lượng sản phẩm
và hiệu quả kinh tế ngày càng cao. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế ngành dẫn đến
chuyển dịch cơ cấu lao động và dân cư, lao động giản đơn có xu hướng giảm
dần cùng với quá trình tăng lên của lao động chuyên môn kỹ thuật.

24



Thời gian qua, kinh tế huyện Kiến Thụy tăng trưởng liên tục với tốc độ
khá. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng
nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Điều này không
chỉ phản ánh bức tranh về sự phát triển kinh tế nói chung của huyện mà còn
phản ánh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn huyện đã và
đang diễn ra đúng hướng, phù hợp với đường lối, chủ trương, biện pháp mà
nghị quyết Đại hội lần thứ XXIII của huyện đã xác định là: sớm đưa Kiến
Thụy trở thành huyện phát triển năng động của thành phố có cơ cấu kinh tế
công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ hợp lý.
Trước hết về nông nghiệp: những năm qua, trên địa bàn huyện có xu
hướng là giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành thủy sản.
Trong nông nghiệp (theo nghĩa hẹp), tỷ trọng của ngành trồng trọt giảm, tỷ
trọng của ngành chăn nuôi tăng.
Ngành công nghiệp trên địa bàn huyện đang có xu hướng chuyển đổi
cơ cấu sản xuất và đa dạng hóa sản phẩm để phù hợp hơn với yêu cầu thị
trường và tăng hiệu quả đầu tư. Ngành công nghiệp chế biến có tỷ trọng tăng,
công nghiệp khai thác có tỷ trọng giảm. Trong từng ngành công nghiệp, cơ
cấu sản phẩm cũng chuyển đổi theo hướng tăng tỷ trọng của sản phẩm cao
cấp, có chất lượng và có khả năng cạnh tranh về giá cả, giảm sản phẩm có
chất lượng thấp và trung bình không phù hợp với yêu cầu của thị trường trong
nước và xuất khẩu.
Và trên địa bàn huyện đã có những bước thay đổi đáng kể, nhất là trong
lĩnh vực có liên quan đến kết cấu hạ tầng kinh tế và phát triển đô thị; nhiều
loại hình dịch vụ mới phát triển phù hợp với chủ trương của Huyện ủy - uỷ
ban nhân dân huyện trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành như: chuyển giao
công nghệ, tư vấn đầu tư.

25



Như vậy, tỷ trọng giữa các khu vực đã có sự thay đổi đáng kể, khu vực
nông nghiệp từ chỗ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của huyện so với
các ngành các công nghiệp, dịch vụ thì hiện tại công nghiệp, dịch vụ từ chỗ
chiếm tỷ trọng ít dần chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế, điều này cũng
phản ánh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang diễn ra mạnh
mẽ, những thành tựu của khoa học công nghệ được áp dụng vào những ngành
công nghiệp quan trọng, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng GDP ở những ngành đó.
Hai là, trong cơ cấu GDP tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày càng giảm
so với ngành công nghiệp và dịch vụ.
Sự giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP là xu hướng
tất yếu trong giai đoạn hiện nay, đối với nước ta đang trong quá trình đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước thì sự giảm tỷ trọng
này càng diễn ra mạnh hơn bao giờ hết. Nằm trong xu hướng đó, cơ cấu kinh
tế của huyện cũng đang có sự chuyển dịch tương đối mạnh mẽ theo xu hướng
giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp
và dịch vụ, cùng với đó là những làng nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp
cũng tăng lên nhiều so với trước. Sự giảm tỷ trọng này cũng là một điều dễ
hiểu bởi trước ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,
sự phát triển của kinh tế tri thức nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp ra
đời và mở rộng thị trường phát triển làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu
hẹp. Mặt khác, do sản phẩm nông nghiệp làm ra chưa đảm bảo về mặt chất
lượng do trong quá trình chăm sóc thiếu kỹ thuật và do thị trường xuất khẩu
có nhu cầu chưa cao, nên đã làm giảm diện tích đất nông nghiệp, đồng nghĩa
với đó là lao động trong ngành công nghiệp, dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp
lại tăng lên làm cho bức tranh chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra khá rõ.
Mục tiêu phấn đấu của huyện đến năm 2020 là: tỷ trọng GDP của nông
nghiệp 16 - 17%; công nghiệp 40 - 41%; dịch vụ 42 - 43% . Khi đó thu nhập
26



×