Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ ủy ban kiểm tra đảng TP long xuyên, tỉnh an giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.66 KB, 87 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi đầu sự nghiệp cứu nước bằng cách giáo
dục lý tưởng và đạo đức cách mạng cho nhân dân. Cuộc đời và sự nghiệp của
Người chính là hiện thân của đạo đức cách mạng, tấm gương sáng cho toàn
Đảng, toàn dân. Trong Di chúc, Người cũng đã căn dặn “mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư” [35, tr.37].
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đạo đức, Đảng ta và toàn bộ hệ thống
chính trị, các đoàn thể chính trị xã hội đã không ngừng nâng cao đạo đức; từng
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức,… đã luôn phấn đấu tu dưỡng, rèn
luyện theo tiêu chuẩn đạo đức mới. Tuy công cuộc xây dựng đạo đức mới đã
đạt được một số kết quả khả quan nhưng Đảng ta cũng thẳng thắn thừa nhận,
thời gian, qua đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và dân cư
có biểu hiện xuống cấp, suy thoái. Đại hội X chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ,
chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, công chức còn diễn ra nghiêm trọng” và “Một bộ phận cán
bộ đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực,
vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm
vụ” [35, tr. 37]. Đặc biệt là, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) cũng chỉ rõ
hiện tượng suy thoái đạo đức, lối sống là một trong những yếu kém tồn tại qua
nhiều nhiệm kỳ nhưng chậm được khắc phục và đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp
tục khẳng định những yếu kém này. Như vậy, tình trạng suy thoái về đạo đức,
lối sống trong cán bộ, đảng viên chưa được đẩy lùi và thậm chí còn diễn biến
1


phức tạp hơn, đòi hỏi chúng ta phải xem xét một cách nghiêm túc về vấn đề đạo
đức, lối sống của cán bộ ta hiện nay.
Trước tình trạng trên, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều phương hướng


và biện pháp để khắc phục cũng như nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Ngày
15/5/2016, Bộ Chính trị khóa XII tiếp tục ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về
việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu” [35, tr. 38]. Tuy ý thức và hành vi đạo đức của cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức và dân cư đã được nâng lên rõ rệt, nhưng sự chuyển biến
vẫn còn chậm, nhiều vấn đề liên quan đến đạo đức cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức và người đứng đầu chưa được giải quyết dứt điểm dẫn đến nảy
sinh những vụ việc về đạo đức phức tạp hơn.
Có thể thấy, việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân là vấn đề vừa cấp bách,
vừa cơ bản, lâu dài, có tác động trực tiếp và to lớn đến thành công của sự
nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Chính vì thế, mỗi cán bộ, đảng viên nói chung và đặc biệt là
cán bộ cơ quan Ủy ban Kiểm tra Đảng nói riêng ngoài việc có đạo đức cách
mạng thì còn cần phải nâng cao hơn nữa bản lĩnh chính trị, tu dưỡng và phấn
đầu trở thành một cán bộ có tâm, có tầm, góp phần xây dựng Đảng ngày càng
2


trong sạch, vững mạnh và nhà nước của dân, do dân và vì dân. Xuất phát từ
những lý do trên, tôi chọn vấn đề Nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Đảng ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An

Giang hiện nay làm đề tài luận văn cao học Triết học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng nói chung và xây dựng đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng thành phố Long Xuyên,
tỉnh An Giang nói riêng đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều
nhà khoa học. Cho đến nay đã có nhiều công trình được công bố với những
mức độ, cách tiếp cận khác nhau về vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng, như:
Nguyễn Văn Lý với nghiên cứu Kế thừa và đổi mới những giá trị đạo
đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế trị trường Việt Nam
hiện nay (Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 2000) đã cho rằng, giáo dục đạo đức truyền thống phải mang tính toàn
diện, hệ thống và có trọng điểm, nghĩa là vừa phải chuyển tải đầy đủ các giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc, vừa phải chú trọng giáo dục chủ nghĩa yêu nước.
Đối tượng giáo dục là mọi người, tuy nhiên tùy theo đặc điểm lứa tuổi, nghề
nghiệp, môi trường sống,... mà nội dung cụ thể và hình thức khác nhau. Đặc
biệt chú trọng việc nêu cao những tấm gương đạo đức trong lịch sử và trong đời
sống xã hội hiện nay, nhất là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt
vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh để mọi người học tập và làm theo.
Hoàng Trung với nghiên cứu Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh qua các phạm trù mà người đã sử dụng (Luận án Tiến sĩ, 2001) đã đề cập
việc Hồ Chí Minh kế thừa có chọn lọc các phạm trù đạo đức của Nho giáo như:
nhân, nghĩa, trí, tín, trung, hiếu, dũng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
trong việc xây dựng các chuẩn mực đạo đức cách mạng con người Việt Nam.
3


Nguyễn Văn Tâm với nghiên cứu Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về
công chức nhà nước ở nước ta (Luận án Tiến sĩ Luật, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 1997) đã nêu rõ để đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật
về công chức nhà nước, yêu cầu trước hết và trọng yếu là phải xây dựng một

đội ngũ công chức tinh gọn, hoạt động có hiệu quả theo các chuẩn chung sau:
có phẩm chất chính trị, trung thành với Đảng, nhà nước, tuân thủ hiến pháp,
pháp luật; tận tụy phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân; cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư.
Trong quyển 50 năm ngành Kiểm tra Đảng 1948 – 1998 của Vũ Quốc
Hùng (1998, Ủy ban Kiểm tra Trung ương xuất bản), tác giả đã giúp tổ chức
Đảng và cán bộ, đảng viên thấy được sự phát triển, trưởng thành của ngành Kiểm
tra Đảng. Nhận thức rõ vị trí, tác dụng của công tác kiểm tra và việc thi hành kỷ
luật Đảng trong nửa thế kỷ qua, trên cơ sở đó, tác giả đã động viên, cổ vũ tổ chức
Đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy ban Kiểm tra và cán bộ kiểm tra các
cấp không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng và trình độ, năng lực,
phát huy hơn nữa truyền thống của ngành Kiểm tra Đảng, góp phần xây dựng
Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công trình Học tập đạo đức Hồ Chí Minh của Tiến sĩ Nguyễn Duy Hùng
và Tiến sĩ Lê Văn Yên (2007, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia) đã nghiên cứu
sâu hơn về đạo đức, tác phong trong sáng, giản dị, hết lòng vì dân vì nước của
Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ đó cho thấy, mỗi người cần phải cố gắng trau dồi đạo
đức, lối sống, góp phần nâng cao đạo đức xã hội vì sự phát triển của dân tộc.
Nguyễn Linh Khiếu - Tư tưởng “Nâng cao đạo đức cách mạng chống chủ
nghĩa cá nhân” của Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, số 22-2005. Công trình
này đã khẳng định sức sống bền vững của các giá trị truyền thống tốt đẹp của

4


dân tộc Việt Nam, làm rõ mối quan hệ, sự tác động của đạo đức tới các yếu tố
như kinh tế, văn hóa…
Trần Nghị với nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và vận
dụng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam (2014, Nhà xuất bản Chính trị Quốc

gia) đã trình bày khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, quá trình hình
thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật. Đó là truyền thống
gia đình, quê hương, dân tộc, các tư tưởng chính trị pháp lý tiến bộ của nhân
loại, thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, thiên tài và bản lĩnh của
Người.
Trong bài viết Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng
viên của tác giả Hà Hữu Đức (Tạp chí Kiểm tra, số 9, 2016) đã cho rằng, trong
quá trình đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử, nhưng đã đến lúc chúng ta phải xem xét một cách hết sức nghiêm túc về
vấn đề đạo đức hiện nay để kiên quyết, quyết tâm nâng cao đạo đức cách mạng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh mà Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị khóa XII đã đề ra.
Tác giả Cao Văn Thống với bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính nhân
văn trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng của (Tạp chí Kiểm tra, số 5,
2016) đã cho rằng, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về tính Đảng, tính nhân
văn trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng, Đảng ta đã chỉ đạo thực
hiện đúng các nguyên tắc, phương pháp công tác Đảng. Để thực hiện công tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng thực sự có chất lượng, hiệu quả, đòi hỏi các
cấp ủy, tổ chức Đảng, Ủy ban Kiểm tra, cán bộ kiểm tra, một mặt, phải nghiên
cứu, vận dụng sáng tạo, phù hợp quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng nói chung, Tư
tưởng Hồ Chí Minh về tính Đảng, tính nhân văn trong công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật Đảng nói riêng để góp phần xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững

5


mạnh, lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân
ta.
Ngoài ra, còn có một số đề tài nghiên cứu khác xoay quanh các vấn đề về
đạo đức, ý thức đạo đức cách mạng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ

cán bộ, đảng viên trong ngành Kiểm tra Đảng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có
nghiên cứu sâu và cụ thể về vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng của các địa phương.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và kế thừa những kết quả nghiên cứu
trước đây, đề tài này sẽ góp phần làm thay đổi nhận thức và cách nhìn nhận,
đánh giá về các vấn đề đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Ủy ban Kiểm tra
Đảng ở thành phố Long Xuyên, đồng thời làm sáng tỏ cơ bản một luận điểm đó
là: ở đâu có nâng cao đạo đức cách mạng thì ở đó sẽ có sự thay đổi lớn về nhận
thức nói chung, đạo đức cách mạng nói riêng nhằm xây dựng Đảng ta thật sự
trong sạch, vững mạnh và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Chính sự
thay đổi mạnh mẽ trên các mặt chính trị, văn hóa, xã hội ở thành phố Long
Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay đã và đang chứng minh cho luận điểm này.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những yêu cầu mới về đạo đức và thực trạng đạo đức cách
mạng của đội ngũ cán bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng hiện nay, luận văn làm rõ sự
cấp thiết của việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ này, từ đó đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán
bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng thành phố Long Xuyên trong điều kiện hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: đội ngũ cán bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng tại
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay.

6


4.2. Đối tượng nghiên cứu: nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện
nay.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu đề tài đánh giá đúng thực trạng việc nâng cao đạo đức cách mạng

cho đội ngũ cán bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An
Giang hiện nay thì nghiên cứu sẽ đưa ra được những giải pháp khoa học nhằm
nâng cao hơn nữa đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ Ủy ban Kiểm tra
Đảng ở địa phương này.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở khoa học của việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang
hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Ủy
ban Kiểm tra Đảng thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang; trên cơ sở đó đưa ra
một số giải pháp cơ bản để nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ này.

7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn việc nâng cao đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng tại thành phố Long
Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp nhận thức duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp vận dụng các phương pháp khác như:
7


phân tích và tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa và khái quát hóa, thống kê và
chú giải tài liệu, phương pháp điều tra, phương pháp tham vấn chuyên gia.
9. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
9.1. Những luận điểm cơ bản
Để trở thành một cán bộ kiểm tra tốt thì không thể không tu dưỡng, nâng
cao đạo đức cách mạng.

Để có thể nâng cao hơn nữa đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ Ủy
ban Kiểm tra Đảng ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay thì cần
phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khoa học và khả thi khác nhau.
9.2. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về nâng cao đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang
hiện nay.
Phân tích được thực trạng và sự cần thiết của việc nâng cao đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng ở thành phố Long Xuyên, tỉnh
An Giang.
Đề ra phương hướng và những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả
trong việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ Ủy ban Kiểm tra
Đảng ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay.
10. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận văn được bố cục gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Chương 2: Nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ Ủy ban
Kiểm tra Đảng thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay – thực trạng và
giải pháp.
8


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ỦY BAN KIỂM TRA ĐẢNG
THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
1.1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ Ủy ban Kiểm tra Đảng thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện

nay
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Đạo đức
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại
xuất hiện sớm, lần đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà Chu. Từ đó trở, các
học thuyết này đã được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều để chỉ những
yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Quan điểm duy tâm tôn giáo xuất phát từ quan niệm đồng nhất tôn giáo
với đạo đức và đạo đức nảy sinh từ lòng tin tôn giáo, nên các tôn giáo đều cho
rằng, bản chất của đạo đức là sự phản ánh ý chí của Thần thánh, Thượng đế,
Chúa trời... Đây là quan điểm sai lầm, vì từ góc độ lịch sử, đạo đức ra đời, tồn
tại cùng với con người và xã hội loài người. Đạo đức ra đời trước tôn giáo. Mặt
khác, đạo đức phản ánh nhu cầu trần thế, không phải nhu cầu ở thế giới bên kia
của con người.
Với thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, dựa trên sự kế
thừa có chọn lọc những quan niệm về đạo đức trước đó, đồng thời đặt nền tảng
khoa học cho một nền đạo đức mới – đạo đức cộng sản chủ nghĩa, quan điểm
Mác xít khẳng định, đạo đức là một hiện tượng tinh thần, một hình thái ý thức

9


xã hội nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, do cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra
và quyết định.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cơ sở của đạo
đức là ở trong con người, từ đó họ xem xét bản chất đạo đức như là những quy
ước chung có tính chất chủ quan của xã hội. Theo quan điểm duy tâm chủ quan,
đạo đức là một thứ trí tuệ đặc biệt, một tình cảm nhân từ, một trách nhiệm cao
cả, một lương tâm vị tha, một ý chí không khuất phục. Những phẩm chất đó
không thể có ở con người bình thường, nhất là những người tự do, vị kỷ. Còn

theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm khách quan, xuất phát từ một lực lượng
siêu tự nhiên gồm “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối” là cơ sở của hiện thực, các nhà
duy tâm khách quan đã khẳng định đạo đức mang bản chất của “ý niệm”, “ý
niệm tuyệt đối”, chứ không phải là sự phản ánh đời sống hiện thực.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người,
cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, suối. Người viết: “Cũng
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [44, tr. 117]. Theo
Hồ Chí Minh, đạo đức là nền tảng tinh thần của con người, giúp cho con người
vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách. Có đạo đức sẽ giúp cán bộ cách
mạng không lùi bước trước khó khăn gian khổ, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp
cách mạng. “Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, không
rụt rè, lùi bước”, “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ,
chất phác, khiêm tốn”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” [51, tr. 236 - 237].
Đó cũng là biểu hiện của đạo đức cách mạng.

10


Theo các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác – Lênin, đạo đức là sự phản ánh
của các quan hệ xã hội. Giá trị đạo đức được xác định là góp phần tạo nên sự
tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người. “Đạo đức giúp cho xã hội loài người
tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động” [27, tr. 371] và đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội, một lĩnh vực trong đời sống tinh thần của
con người, là bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội. Đạo đức tồn tại trong
mọi ý thức, hoạt động giao lưu, trong toàn bộ hoạt động sống của con người.
Bàn về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng: “Đó là những gì góp phần
phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao
động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người

cộng sản” [48, tr. 214].
Từ góc độ xã hội, có thể xem đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt được phản ánh dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều
chỉnh hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
với xã hội, giữa con người với nhau và với chính bản thân mình.
Như vậy, đạo đức chính là những phẩm chất, nhân cách của con người,
phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ
trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân họ
với người khác và trong đời sống xã hội, đòi hỏi tất yếu mỗi người phải ý thức
được ý nghĩa, mục đích hoạt động của mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Những hoạt động đó bao giờ cũng có sự chi phối của những quan hệ giữa các cá
nhân, cá nhân và xã hội. Những mối quan hệ đó quy định giới hạn nhất định
nhằm đảm bảo lợi ích cộng đồng và xã hội. Những quy định này tự giác tạo
thành động lực cho sự phát triển xã hội. Đó là các quy tắc, chuẩn mực hoàn
toàn tự giác trong hành động của mỗi cá nhân trong tất cả các quan hệ xã hội.
Đó chính là đạo đức của con người trong xã hội mới.
11


Tóm lại, chúng ta có thể hiểu đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là
tổng hợp các quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội; nhờ đó, con người có thể
tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc
của con người, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá
nhân - xã hội. Đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác
trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự
nhiên và với cả bản thân mình.
1.1.1.2. Đạo đức cách mạng
Về mặt lịch sử, đạo đức cách mạng hình thành và phát triển trước khi tồn
tại xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân chống lại giai cấp tư sản, nhằm thiết lập địa vị thống trị của mình. Chính

nội dung của cuộc đấu tranh đó quy định sự phát triển nội dung của đạo đức
mới. Trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, đạo đức mới của giai cấp vô
sản ngày càng trở thành đạo đức chung của nhân dân; trong tương lai có thể trở
thành đạo đức chung của nhân loại, là đạo đức cộng sản sau khi đã qua giai
đoạn trung gian của nó là đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là sự quyết tâm suốt đời đấu
tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Đạo đức cách mạng
chính là ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt
đường lối, chính sách của Đảng; đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động
lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình; hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân; vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc; ra
sức học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để
nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ.
Người cách mạng phải hiểu thật sâu sắc rằng, Đảng ta là một đội ngũ tiên tiến
nhất và tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân, là người lãnh đạo của giai
12


cấp công nhân và nhân dân lao động; phải thấy thật rõ điều đó và đứng vững
trên lập trường giai cấp công nhân, để hết lòng hết sức đấu tranh cho chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản, cho giai cấp công nhân và cho toàn thể nhân dân
lao động. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung
thành với Đảng, với nhân dân; ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Cho nên, đạo đức cách mạng là ra
sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng, hết lòng trung thành phục vụ giai
cấp công nhân và nông dân lao động, tuyệt đối không thể lừng chừng.
Những chính sách và nghị quyết của Đảng đều được xây dựng trên cơ sở
là lợi ích của nhân dân. Vì vậy, đạo đức cách mạng của đảng viên là phải kiên
quyết nghĩ và làm đúng chính sách, nghị quyết của Đảng dù cho có khó khăn và
thử thách như thế nào, trở thành gương mẫu cho quần chúng. Mọi đảng viên

phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng; phải ngăn
ngừa và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân.
Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, đảng viên cũng phải
đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Trường hợp lợi ích của Đảng và lợi ích của cá
nhân mâu thuẫn với nhau thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của
Đảng. Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin
quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Lời nói và việc
làm của người cán bộ, đảng viên phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn
kết quần chúng chặt chẽ chung quanh Đảng; tổ chức, tuyên truyền và động viên
quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của Đảng [47, tr. 288 290].
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống bao gồm nhiều lĩnh vực, phản
ánh gần như toàn bộ những vấn đề quan trọng nhất của sự nghiệp cách mạng
nước ta. Trong đó, vấn đề đạo đức của người cách mạng được Người đặt ở vị trí
hàng đầu và được nhắc đến nhiều nhất trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách
13


mạng của mình. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta thấy, Người rất đề
cao vai trò của đạo đức. Người coi đạo đức là cái gốc của cán bộ. Suốt cuộc đời
đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến đạo đức cách mạng, đạo đức làm người.
Người đã nêu ra những tiêu chuẩn về đạo đức cách mạng và chính Người là một
kiểu mẫu về đạo đức cách mạng. Khi đã trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh
nhận thức được trách nhiệm tuyên truyền giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, đồng thời truyền thụ đạo
đức cách mạng cho họ. Nhận thức tầm quan trọng của đạo đức cách mạng,
trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã dành chương đầu tiên để nói về tư
cách người cách mệnh. Tháng 10 năm 1947, khi viết cuốn Sửa đổi lối làm việc,
Người nhấn mạnh đến đạo đức mới, vì chỉ có thực hiện đạo đức mới thì cán bộ
mới nhận thức đầy đủ về trách nhiệm của mình và hoàn thành nhiệm vụ của tập

thể, của dân tộc, của giai cấp và của loài người.
1.1.1.3 Một số khái niệm có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật trong Đảng
Kiểm tra là việc “xem xét thực chất, thực tế” [73, tr. 937]. Kiểm tra của
Đảng là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, là việc các tổ chức
Đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của
các cấp ủy, tổ chức Đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp
luật của Nhà nước.
Giám sát là “sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động, thường
xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và
hướng hoạt động của đối tượng chịu giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm
đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, đảm bảo cho pháp luật
được tuân thủ theo nghiêm chỉnh” [74, tr. 174]. Giám sát của Đảng là việc các
14


tổ chức Đảng theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động nhằm kịp thời tác động để
cấp ủy, tổ chức Đảng cấp dưới và đảng viên được giám sát chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy
định của Đảng.
Tổ chức là “tập hợp người được tổ chức lại, hoạt động vì những quyền lợi
chung, nhằm một mục đích chung” [76, tr. 1007]. Tập hợp người phải có kỷ
luật chặt chẽ trong quan hệ với các thành viên của nó. Tổ chức còn được hiểu là
“hình thức liên kết của nhiều người, có lãnh đạo, chỉ huy, có hình thành cơ cấu
bộ máy, có mục đích, nhiệm vụ chung và mỗi thành viên đều có chức năng,
nhiệm vụ được xác định” [77, tr. 509].
Tổ chức Đảng là “tổ chức chính trị liên kết những người có giác ngộ lý
tưởng chung, tự nguyện gia nhập tổ chức đó, cùng nhau hành động vì mục tiêu
chung” [77, tr. 637]. Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành

động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực
hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm
minh,...
Tổ chức Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam là “tập hợp những đảng viên
có cùng lý tưởng, tự nguyện gia nhập tổ chức Đảng, có kỷ luật chặt chẽ, hoạt
động vì những quyền lợi chung, nhằm một mục đích chung” [77, tr. 637]; có
lãnh đạo, có hình thức cơ cấu bộ máy, có mục đích, nhiệm vụ chung và mỗi
thành viên đều có chức năng, nhiệm vụ được xác định. Tổ chức Đảng và đảng
viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng; thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới
phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng
phục tùng Đại hội Đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương. Tổ chức
Đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
15


1.1.2. Ý nghĩa và tác dụng của đạo đức cách mạng trong công tác kiểm
tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng đối với Ủy ban Kiểm tra
1.1.2.1. Ý nghĩa của đạo đức cách mạng trong công tác kiểm tra, giám
sát và thi hành kỷ luật trong Đảng
Trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo
đức là một trong những vấn đề được Người đặc biệt quan tâm hàng đầu. Người
luôn chú trọng đến việc giáo dục lý tưởng cách mạng và đạo đức cách mạng
cho những người yêu nước, cho thanh niên, cho quần chúng, đặc biệt là cho cán
bộ, đảng viên. Phải khẳng định rằng, Hồ Chí Minh không chỉ là người giáo dục
đạo đức cách mạng, mà còn là hiện thân của đạo đức cách mạng, nêu gương cho
toàn Đảng, toàn dân ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam - chính
đảng kiểu mới theo Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, “là tổ

chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động”; có sứ mệnh lịch sử nặng nề và
vẻ vang là lãnh đạo giai cấp và dân tộc chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược,
xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. Sự nghiệp cách mạng lâu dài,
gian khổ, quyết liệt, phức tạp đó đòi hỏi Đảng phải có đường lối, chính sách
đúng đắn, có năng lực tổ chức thực hiện cao, phải tiến hành kiểm tra, giám sát
thường xuyên, kịp thời, có hiệu quả. Chính vì vậy, ngay từ khi mới thành lập và
suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng và tiến hành
thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát. Đây cũng chính là chức năng lãnh
đạo của Đảng, bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng. Kiểm
tra, giám sát là hoạt động cần thiết đối với chính đảng của giai cấp vô sản và
người cộng sản.

16


Từ thực tế sự nghiệp cách mạng, Đảng ta khẳng định: “Công tác kiểm tra
có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng” [11, tr.
150]. Vì lãnh đạo Đảng không chỉ là việc xây dựng đường lối, chính sách, nghị
quyết, chỉ thị, tổ chức thực hiện và bố trí cán bộ, mà còn phải thực hiện kiểm tra,
giám sát việc thực hiện đường lối, cương lĩnh chính trị, chủ trương, chính sách
của các cấp Đảng và của toàn dân; kiểm tra ngay bản thân cương lĩnh chính trị,
đường lối, chính sách mà Đảng đề ra có phù hợp với hoàn cảnh thực tế hay
không; đồng thời kiểm tra, giám sát cả các tổ chức tiến hành kiểm tra, giám sát
nhằm đảm bảo đường lối, chính sách được xác định đúng, được quán triệt và
thực hiện thắng lợi trong thực tiễn. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc, vừa là chức
năng lãnh đạo, vừa là trách nhiệm, nội dung, phương pháp, quy trình lãnh đạo
của Đảng.
V. I. Lênin từng chỉ rõ, khi đường lối, chính sách đã được xác định,

phương hướng đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên
hàng đầu và sự lãnh đạo phải “chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh
và mệnh lệnh sang việc lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện” [28, tr. 450].
“Kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra việc chấp hành thực hiện công tác –
mấu chốt của toàn bộ công tác, của toàn bộ chính sách hiện nay là ở đấy, vẫn ở
đấy và chỉ ở đấy” [28, tr. 19].
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, chính sách đúng là nguồn gốc
của thắng lợi, bởi lẽ, khi có chính sách đúng thì sự thành công hoặc thất bại của
chính sách đó là do cách tổ chức công việc, lựa chọn cán bộ và kiểm tra. Cho
nên, “Nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn “pha”.
Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm, khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng
ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm trong công việc
của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra” [42, tr. 154, 156]. Thực tiễn lãnh đạo của
Đảng ta từ khi thành lập đến nay đã khẳng định rằng, kiểm tra, giám sát là chức
17


năng lãnh đạo của Đảng; lãnh đạo phải có kiểm tra; lãnh đạo mà không kiểm tra
thì coi như không có lãnh đạo.
Qua thời gian đổi mới, Đảng ta đã rút ra sáu bài học kinh nghiệm, trong
đó có bài học kinh nghiệm về công tác kiểm tra, giám sát là: “Đảng phải tăng
cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Thường
xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng để
phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp thời sai lầm, khuyết điểm;
kiểm tra, giám sát công tác, năng lực và phẩm chất của cán bộ, đảng viên, xây
dựng tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước và cán bộ, đảng viên ngày càng trong
sạch, vững mạnh” [19, tr. 278].
Điều lệ Đảng được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
thông qua đã tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng và nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của các tổ chức Đảng, trước hết là của

cấp ủy các cấp được quy định tại Điều 30, Điều lệ Đảng. Quy định của Điều lệ
Đảng về công tác kiểm tra, giám sát đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng
viên phải chấp hành nghiêm chỉnh. Quy định này xác định rõ công tác kiểm tra,
giám sát là của toàn Đảng, các cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp vừa phải tiến hành
công tác kiểm tra, giám sát, vừa phải chịu sự kiểm tra, giám sát của tổ chức
Đảng có thẩm quyền cấp trên; xác định rõ vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của
các cấp ủy, tổ chức Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát.
Kiểm tra, giám sát là bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng
Đảng. Sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng bắt nguồn từ sự
đoàn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Để thực hiện được vai trò
lãnh đạo và sứ mệnh lịch sử của mình trước giai cấp và dân tộc là xây dựng
nước Việt Nam độc lập, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản,
Đảng ta phải “tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai
18


cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có
tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân”
[24, tr. 275]. Để đạt được điều đó, Đảng phải coi trọng và làm tốt công tác kiểm
tra, giám sát mới góp phần thiết thực và có hiệu quả trong việc phòng ngừa,
khắc phục những nguy cơ có thể nảy sinh của Đảng cầm quyền.
Qua thực tiễn, Đảng ta đã kết luận, công tác kiểm tra là “một bộ phận
quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng” [8, tr. 122], “là một khâu
quan trọng của tổ chức thực hiện”, là “biện pháp hiệu nghiệm để khắc phục
bệnh quan liêu” [9, tr. 137]. “Có giám sát tốt mới có thể đánh giá đúng, lựa
chọn đúng và đặc biệt là kịp thời ngăn ngừa sai phạm từ khi mới có những dấu
hiệu vi phạm; đó cũng là phương thức quan trọng để bảo vệ cán bộ, bảo đảm

Đảng và Nhà nước có đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực
hoàn thành nhiệm vụ, được nhân dân tin yêu” [10, tr. 246, 247].
Kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của toàn Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức, một bộ phận của xã hội, có vai trò
lãnh đạo chính trị đối với toàn xã hội, đưa sự ngiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta đến thắng lợi. Sự lãnh đạo của Đảng được tiến hành thông qua tổ
chức Đảng và đảng viên hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mỗi
tổ chức Đảng và đảng viên dù công tác ở lĩnh vực, cương vị nào đều phải tham
gia xây dựng, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Đó là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức Đảng.
Khẳng định công tác kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của
mọi tổ chức Đảng, là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, không chỉ để khắc phục
những khuyết điểm, yếu kém về nhận thức và hành động trong thực hiện nhiệm
19


vụ công tác kiểm tra, giám sát; mà còn giúp cho Đảng thực hiện đầy đủ các
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, góp phần tự đổi mới, tự chỉnh đốn
Đảng, đảm bảo lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp cách mạng.
Trong bối cảnh hiện nay, sự nghiệp cách mạng được Đảng ta đề xướng
và lãnh đạo chính là thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Những
thắng lợi và thành tựu, những thất bại và tổn thất của sự nghiệp cách mạng đều
gắn liền với vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định những thắng lợi và thành tựu trong thời gian qua và cả trong
tương lai. Thực tế có thể thấy, trình độ, kiến thức, năng lực lãnh đạo của Đảng
vẫn còn những mặt chưa theo kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, còn nhiều vấn
đề lý luận và thực tiễn chưa được làm sáng tỏ.
Trước tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động khó lường như

hiện nay, nhất là tác động của toàn cầu hóa, sự phát triển mạnh mẽ, nhảy vọt
của khoa học và công nghệ, mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế,
cán bộ, đảng viên hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của nhiều nhân tố rất
phức tạp, kể cả những hoạt động chống phá Đảng thì vấn đề giữ vững bản chất
giai cấp công nhân của Đảng đang đứng trước những thách thức mới. Đảng ta
từng nhận định: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng
phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà
còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém
trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự phát triển của đất nước” [18, tr. 173].
Tổ chức Đảng cơ sở ở một số nơi còn yếu kém, có nơi tê liệt; “không làm
tròn vai trò hạt nhân chính trị và nền tảng của Đảng” [20, tr. 263]; phương thức
lãnh đạo và sinh hoạt lúng túng; bệnh quan liêu, độc đoán, cục bộ, địa phương,
20


kèn cựa, địa vị, cá nhân chủ nghĩa rất nặng. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; “dân chủ trong
Đảng và trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh
vực không nghiêm. Sự đoàn kết nhất trí ở không ít cấp ủy còn yếu” [18, tr. 262],
không ít nơi nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng. “Năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của không ít tổ chức Đảng còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa
chặt chẽ, sinh hoạt Đảng chưa nề nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê
bình và phê bình yếu...” [19, tr. 174]. “Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức Đảng
không nghiêm... Nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh hưởng đến
sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng” [19, tr. 175 - 176].
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Đảng ta phải chú trọng và thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát;
phải đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đưa cuộc vận động đi

vào chiều sâu, kiên quyết đấu tranh với những phần tử cơ hội, xây dựng hệ
thống tổ chức, bộ máy trong sạch, vững mạnh,... Muốn vậy, chúng ta phải giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đồng
thời, phải đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tập trung kiểm tra,
giám sát việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra tổ chức Đảng và
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo đối với tổ chức Đảng và
đảng viên; tăng cường chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy công
tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng” và “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và
hoạt động của hệ thống ủy ban kiêm tra các cấp” [74, tr. 19].
1.1.2.2. Tác dụng của đạo đức cách mạng trong công tác kiểm tra, giám
sát và thi hành kỷ luật trong Đảng
21


Công tác kiểm tra, giám sát gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Ngay từ
khi mới thành lập, Đảng ta đã coi trọng việc giữ gìn kỷ luật Đảng và công tác
kiểm tra. Thật vậy, Điều lệ Đảng năm 1930 đã quy định về trách nhiệm của
đảng viên và các Đảng bộ là giữ theo kỷ luật của Đảng một cách nghiêm khắc,
đồng thời tất cả đảng viên đều phải chấp hành các nghị quyết của quốc tế, của
Đảng Đại hội, của Trung ương và của thượng cấp cơ quan... Đến Đại hội lần
thứ, ngày 29/3/1935, Đảng ta tiếp tục quy định rõ hơn về vấn đề kiểm tra từ
Trung ương đến cơ sở. Trong đó, nếu có vấn đề vi phạm kỷ luật thì chi bộ hoặc
các cấp Đảng bộ tra xét, xem xét kỷ luật của Đảng”. Tuy nhiên, do hoàn cảnh
hoạt động bí mật lúc bấy giờ, cán bộ - đảng viên ít nên thời kỳ tiền khởi nghĩa,
Đảng ta chưa có điều kiện lập ra cơ quan kiểm tra chuyên trách mà các cơ quan
chuyên môn của Đảng chỉ có các ban Công nhân vận động, Nông dân vận động,
Phụ nữ vận động, Thanh niên vận động, Quân sự vận động và có các bộ cổ

động, tuyên truyền, Bộ Tài chánh, Bộ Tổ chức kiêm Giao thông. Công tác kiểm
tra và việc thi hành kỷ luật lúc đó do cấp ủy và chi bộ thực hiện. Ở Trung ương,
có Bộ Tổ chức giúp Trung ương làm công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật trong Đảng. Đến cuối năm 1948, Đảng mới có quyết nghị thành lập Ban
Kiểm tra Trung ương (Quyết nghị số 29-QN/TW ngày 16/10/1948 của Ban
Thường vụ Trung ương, do đồng chí Thận, tức đồng chí Trường Chinh, Tổng
Bí thư của Đảng ký). Quyết nghị ra đời để đáp ứng tình hình Đảng ta hiện lãnh
đạo cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc, phong trào mỗi ngày một tiến
nên công việc của Đảng một ngày một phức tạp. Do vậy, Ban Kiểm tra phải đến
các khu kiểm tra các chủ trương của Đảng có được thi hành và có sát, đúng thực
tế không, đồng thời xem xét sự thi hành kỷ luật trong Đảng, từ đó rút kinh
nghiệm, tham mưu cho Trung ương bổ khuyết chính sách của Đảng.

22


Có thể nói, công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật là yêu cầu của Đảng,
của nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng đối với mọi tổ chức Đảng và
đảng viên, buộc phải thực hiện.
Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng phải xuất phát từ yêu cầu
nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, không phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của tổ chức hoặc cá nhân. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng không có
mục đích tự thân, chỉ có mục đích giáo dục, phòng ngừa, ngăn chặn để không
xảy ra vi phạm, nếu có vi phạm thì phải xử lý kịp thời, đúng đắn. Qua kiểm tra,
giám sát phát hiện thiếu sót, khuyết điểm vi phạm, những quy định của Đảng,
pháp luật của Nhà nước còn thiếu sót để bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới
cho phù hợp; để bổ khuyết hoặc hoàn chỉnh quy trình lãnh đạo và tổ chức thực
hiện của các tổ chức Đảng, điều chỉnh hành vi của cán bộ, đảng viên trong chấp
hành đúng đắn kỷ luật của Đảng. Do đó, yêu cầu của công tác kiểm tra, giám
sát kỷ luật Đảng là phải làm rõ đúng, sai, ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm đối

với tổ chức Đảng, đảng viên về các nội dung được kiểm tra; từ đó, góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo, tạo sự đoàn kết, thống nhất, giữ nghiêm kỷ cương,
kỷ luật của Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng
Đảng.
Yêu cầu đặt ra đối với các tổ chức Đảng khi tiến hành công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng phải xuất phát từ thực tế đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị và
công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị trong từng thời gian. Do đó,
yêu cầu của công tác xây dựng Đảng nhằm đảm bảo cho tổ chức Đảng trong
sạch, vững mạnh, đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, đó cũng là yêu cầu
đối với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Vì vậy, tổ chức Đảng và cán bộ,
đảng viên nói chung, Ủy ban Kiểm tra và cán bộ kiểm tra của Đảng nói riêng
phải chấp hành và thực hiện đúng quan điểm, nguyên tắc, quy định của Đảng về
23


công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc, tính
kỷ luật trong Đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng phải làm rõ đúng sai, ưu
điểm, khuyết điểm, vi phạm đối với tổ chức Đảng, đảng viên về các nội dung
được kiểm tra, giám sát. Mục tiêu, yêu cầu cụ thể của công tác kiểm tra, giám
sát là phát hiện vấn đề, xem xét, kết luận, làm rõ đúng sai, ưu điểm, khuyết
điểm, vi phạm và tìm hiểu nguyên nhân về các nội dung được kiểm tra đối với
tổ chức Đảng, đảng viên; giúp tổ chức Đảng quản lý đối tượng kiểm tra, giáo
dục phát huy ưu điểm, khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, xử lý kịp thời, nghiêm
minh vi phạm; củng cố tổ chức, đội ngũ cán bộ, đảng viên, điều chỉnh, bổ
khuyết kịp thời sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Qua giám sát nếu phát hiện tổ
chức Đảng, đảng viên có biểu hiện không thực hiện đúng chủ trương, chính
sách, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước thì kịp thời nhắc nhở,
ngăn chặn, để đáp ứng yêu cầu về chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm tra,

giám sát, kỷ luật Đảng. Công tác kiểm tra, giám sát phải thực hiện đúng phương
châm thi hành kỷ luật là “công minh, chính xác, kịp thời”, và giữ vững tính chất
của kỷ luật Đảng là “kỷ luật sắt – nghiêm túc và tự giác”.
Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng phải đảm bảo thực hiện
đúng nguyên tắc, thủ tục, quy trình và phương pháp. Vì đây là một bộ phận
quan trọng của công tác xây dựng Đảng nên khi tiến hành công tác này phải bảo
đảm tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh các nguyên tắc, quan điểm của Đảng,
quy trình, thủ tục, phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
Đảng. Đó là một yêu cầu có tính nguyên tắc trong công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật Đảng. Nếu công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong Đảng được
thực hiện bám sát các yêu cầu trên, xuất phát từ mục tiêu chính đáng của nhiệm
vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng trong từng thời kỳ sẽ góp phần thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng của đất nước. Công tác kiểm tra, giám sát
24


và kỷ luật của Đảng được thực hiện tốt sẽ giúp nâng cao đạo đức cách mạng
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; và ngược lại, cán bộ, đảng viên nêu cao ý thức,
rèn luyện và tu dưỡng đạo đức sẽ thực hiện hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật trong Đảng.
1.1.3. Lý luận về nâng cao đạo đức cách mạng trong công tác kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng đối với Ủy ban Kiểm tra Đảng
1.1.3.1. Đặc điểm tổ chức Ủy ban Kiểm tra Đảng
Con người và hoạt động của con người bao giờ cũng mang tính cộng
đồng và hình thành những tổ chức. Tổ chức là một tập hợp người, liên kết, gắn
bó với nhau theo những nguyên tắc và hình thức nhất định, nhằm tạo ra sức
mạnh để thực hiện mục tiêu chung. Mục tiêu của các đoàn thể chính trị - xã hội
được thể hiện tập trung trong đường lối chính trị. Đường lối chính trị nào thì có
tổ chức ấy. Các đoàn thể chính trị - xã hội đều mang tính giai cấp rõ rệt.
Tổ chức có tính ổn định tương đối, không phải bất di bất dịch. Khi yêu

cầu nhiệm vụ, sự phát triển của xã hội cũng như các điều kiện chủ quan, khách
quan thay đổi thì tổ chức cũng phải thay đổi để thích ứng với tình hình nhiệm
vụ. Ngược lại, nếu tổ chức không phù hợp, thiếu tính khoa học và năng động thì
sẽ trì truệ, kém hiệu quả, thậm chí cản trở sự phát triển của xã hội.
Đối với tổ chức Đảng tiên phong của giai cấp công nhân, có đường lối
chính trị đúng là yếu tố cơ bản đầu tiên và quan trọng nhất, có quan hệ đến vận
mệnh của Đảng và tiền đồ của cách mạng. Cùng với đường lối chính trị đúng,
Đảng phải có tổ chức vững mạnh, xứng đáng với vai trò là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, hệ thống tổ chức của

25


×