Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên đảng bộ thành phố sơn la, tỉnh sơn la hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (889.83 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

BÌNH THỊ HOA

NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CHO ĐẢNG VIÊN ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ SƠN LA
TỈNH SƠN LA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

BÌNH THỊ HOA

NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CHO ĐẢNG VIÊN ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ SƠN LA
TỈNH SƠN LA HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ THỌ

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị Thọ. Kết quả nghiên cứu là trung thực và
chưa từng được công bố. Các số liệu, tài liệu, trích dẫn trong luận văn chính
xác, có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Bình Thị Hoa


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thiện luận văn của mình, ngoài sự cố gắng học
hỏi của bản thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ không nhỏ từ các cá nhân, cơ
quan, ban ngành.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và chân thành biết ơn tới Ban
Giám hiệu; Phòng Sau đại học; Ban Chủ nhiệm, quý thầy, cô khoa Triết học
trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi học tập,
nghiên cứu và nâng cao trình độ của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới cô PGS.TS. Nguyễn Thị
Thọ đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình dìu dắt và đóng góp ý kiến quý báu để tôi
hoàn thành luận văn này.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, những người đã không
ngừng động viên, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời

gian học tập và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn đến các anh, chị và các bạn đồng
nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Bình Thị Hoa


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 7
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu........................................................ 7
5. Giả thuyết khoa học ................................................................................ 7
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 7
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ................................................................. 8
8. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 8
9. Cấu trúc của luận văn ............................................................................. 8
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn ..................... 8
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG CHO ĐẢNG VIÊN ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ SƠN LA
TỈNH SƠN LA HIỆN NAY ............................................................... 10


1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm đạo đức, đạo đức cách mạng ........................................ 10
1.1.2. Nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng ....................................... 15
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 19
1.2.1. Đôi nét về thành phố Sơn La và đặc điểm đội ngũ đảng viên
Đảng bộ thành phố Sơn La hiện nay ............................................. 19
1.2.2. Sự cần thiết và yêu cầu của việc nâng cao đạo đức cách mạng
cho đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La hiện nay .... 32
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 42


Chương 2: NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐẢNG VIÊN ĐẢNG
BỘ THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA HIỆN NAY THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP .................................................................. 43

2.1. Thực trạng nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên Đảng bộ
thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La hiện nay ............................................ 43
2.1.1. Những kết quả đạt được của việc nâng cao đạo đức cách
mạng cho đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La
hiện nay ........................................................................................ 43
2.1.2. Những hạn chế, tồn tại của việc nâng cao đạo đức cách mạng
cho đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La hiện
nay ................................................................................................ 49
2.1.3. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế trong việc nâng cao
đạo đức cách mạng cho đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn
La, tỉnh Sơn La hiện nay .............................................................. 54
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho
đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La hiện nay ............ 62
2.2.1. Phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, tạo môi trường thuận lợi

để nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên thành phố
Sơn La .......................................................................................... 62
2.2.2. Không ngừng nâng cao trình độ học vấn và tư duy lý luận cho
đội ngũ đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La ............................. 67
2.2.3. Tăng cường giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách
mạng cho đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La ......................... 69
2.2.4. Phát huy có hiệu quả phong trào học tập và làm theo tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ................................................ 71
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 74
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 77


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
HĐND

: Hội đồng nhân dân

KTTT

: Kinh tế thị trường

Nxb

: Nhà xuất bản

UBND

: Ủy ban nhân dân


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng, phát triển đúng định hướng,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, thì một trong những nhân tố quyết định nhất là nguồn lực con người,
trong đó phải nhấn mạnh đến vai trò hàng đầu của đội ngũ đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “đảng viên đi trước, làng nước theo
sau”, điều đó nhấn mạnh đến tính gương mẫu, tiên phong đi đầu trong tất cả
mọi lĩnh vực của đảng viên. Trong điều kiện hiện nay, trước xu thế mở cửa,
hội nhập đan xen cả các yếu tố tích cực và tiêu cực đòi hỏi người đảng viên
càng phải nâng cao cả đức và tài, trong đó cần lấy đức làm gốc. Người cũng
nhiều lần nhấn mạnh “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân” [40, tr.252-253].
Nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức cách mạng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng và
thường xuyên chăm lo giáo dục, trau dồi đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
đánh giá “Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin
tưởng”. Điều đó được chứng minh trong thực tiễn của 30 năm đổi mới, đất
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, ngày một hội nhập sâu rộng hơn.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng đang đối
mặt với những suy thoái về đạo đức, lối sống diễn ra trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên. Đảng đã thừa nhận trong Hội nghị lần thứ 4
khóa XI: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản


2
lý kể cả một số cán bộ cấp cao, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng sa vào chủ
nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa
địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí tùy tiện, vô nguyên tắc…” [28, tr.22].
Như vậy, thực trạng về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện
nay đã được Đại hội Đảng và Hội nghị trung ương nhìn nhận một cách thẳng
thắn, nghiêm túc. Đảng ta cũng nhận thấy rằng, trong điều kiện kinh tế thị
trường, kinh tế nhiều thành phần, cán bộ, đảng viên, hàng ngày, hàng giờ chịu
sự tác động của nhiều yếu tố tiêu cực, sự chống phá của các thế lực thù địch,
vấn đề giữ vững bản chất giai cấp công nhân và phẩm chất đạo đức cách
mạng đứng trước những thách thức mới.
Trước tình hình đó, Đảng ta cũng đã đưa ra các giải pháp để ngăn chặn
tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, đảng viên, lãnh
đạo, quản lý các cấp. Các giải pháp được cụ thể hóa thông qua các chủ trương,
nghị quyết của Đảng, được ban hành, triển khai đến các tỉnh thành trong cả
nước. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng trong
giai đoạn 2016 - 2020 được Đảng ta xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII đó là “ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh
đạo, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, sức chiến đấu,
phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất của Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...” [29, tr.80].
Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò và tầm quan trọng của đạo đức cách

mạng, trong những năm qua, Đảng bộ thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La cũng rất
quan tâm tới vấn đề nâng cao đạo đức cho đội ngũ cán bộ đảng viên. Thành
ủy Sơn La đã triển khai thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp
tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;


3
nghiêm túc kiểm điểm theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI;
Chỉ thị 25-CT/TU ngày 18.12.2013 của Ban Thường vụ tỉnh ủy Sơn La về
nêu cao trách nhiệm và chấn chỉnh tác phong của cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức; Chỉ thị 03 - CT/TU ngày 09.9.2013 của Thành ủy Sơn La về
chấn chỉnh tác phong, lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên. Kết quả đã tạo
được sự chuyển biến bước đầu về ý thức tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng
viên, có tác dụng tích cực đối với công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng và thực
hiện nhiệm vụ chính trị của các tổ chức Đảng, đảng viên. Tuy nhiên, thực tiễn
cho thấy, kết quả đạt được chưa đáp ứng được yêu cầu, vẫn còn một bộ phận
cán bộ, đảng viên còn biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống từ đó gây ảnh
hưởng xấu đến uy tín của tổ chức Đảng, làm giảm lòng tin của quần chúng
nhân dân đối với Đảng.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao
đạo đức cách mạng cho đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La
hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ Triết học của mình với mong muốn góp
một phần nhỏ bé vào việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên ở thành
phố Sơn La, tỉnh Sơn La hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đạo đức nói chung, đạo đức cách mạng và giáo dục đạo đức
cách mạng cho đảng viên nói riêng đã có rất nhiều công trình, nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau với những cách tiếp
cận khác nhau. Những công trình nghiên cứu đó có những đóng góp to lớn
vào việc nâng cao nhận thức về vai trò của đạo đức cách mạng và tầm quan

trọng của giáo dục đạo đức cách mạng đối với đội ngũ đảng viên.
Đạo đức cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đặc biệt
quan tâm trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Đã có rất nhiều bài viết, bài nói của Người về vấn đề đạo đức cách mạng


4
và được tập hợp lại thành những công trình nghiên cứu như: “Hồ Chí về đạo
đức cách mạng”, Nxb Sự thật 1976; “Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo
đức cách mạng”, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986; “Học tập đạo đức
cách mạng Hồ Chí Minh”, Nxb Thông Tấn, Hà Nội, 2004. Những quan điểm,
tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức có ý nghĩa vô cùng to lớn trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ oanh liệt hào hùng của dân tộc,
nó có sức ảnh hưởng, lan tỏa và giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay.
Bên cạnh đó, những nghiên cứu liên quan đến đề tài có thể chia thành
các nhóm sau:
Nhóm thứ nhất, những nghiên cứu về đạo đức
Tiêu biểu như công trình nghiên cứu: Đạo đức mới của Vũ Khiêu (chủ
biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,1974; Giá trị tinh thần truyền thống của
dân tộc Việt Nam của GS.Trần Văn Giàu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,1993;
Giáo trình Đạo đức học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Giáo trình Đạo đức
học của Trần Đăng Sinh, Nguyễn Thị Thọ (Chủ biên), Nxb Đại học sư phạm
Hà Nội v.v.. Các công trình nghiên cứu này đã làm rõ các khái niệm: đạo đức,
đạo đức bao gồm những nội dung gì và có vai trò như thế nào đối với con
người; đồng thời đưa ra được quan điểm về đạo đức mới; …
Thứ hai, những nghiên cứu về đạo đức cách mạng
Các công trình tiêu biểu như: Nguyễn Thế Kiệt, “Quan hệ giữa đạo đức
và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”, Tạp chí Triết
học, số 6/1996; Nguyễn Tĩnh Gia, “Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường
đối với đạo đức người cán bộ quản lý”, Tạp chí Nghiên cứu Lý luận, số

2/1997; Nguyễn Văn Huyên với công trình “Giá trị truyền thống - nhân lõi
và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc”, Tạp chí Triết học,
số 6, năm 1998; Hoàng Trung với công trình “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
và vấn đề giáo dục rèn luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường”, Tạp chí


5
Triết học, số 5/1998; “Giáo dục đạo đức với việc phát huy nguồn lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa”, Lê Thị Thủy, Tạp chí Nghiên
cứu Lý luận, số 4/ 2000; Trần Văn Phòng, “Tiêu chuẩn đạo đức của người cán
bộ lãnh đạo chính trị hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5-2003;
Nguyễn Linh Khiếu. Tư tưởng “Nâng cao đạo đức cách mạng chống
chủ nghĩa cá nhân” của Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, số 22-2005;
Nguyễn Trọng Phúc, “Rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng một nội dung
quan trọng trong công tác xây dựng đảng hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, 2007;
Lê Hữu Nghĩa, “Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Cộng sản, số 1-2016;
Vũ Văn Phúc, “Phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên là một yêu cầu bức thiết hiện nay”, Tạp chí Cộng
sản, số 6-2016… Nói chung, các công trình này đã khẳng định sức sống bền
vững của các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, làm rõ mối
quan hệ, sự tác động của đạo đức tới các yếu tố như kinh tế, văn hóa… và sự
tác động của các yếu tố này tới đạo đức. Các công trình làm rõ mối quan hệ
của đạo đức trong thời kỳ mở cửa, hội nhập, sự tác động của các yếu tố ngoại
lai tới đạo đức đồng thời đưa ra những phương hướng giải pháp để giáo dục
đạo đức cách mạng.
Một số luận án tiến sỹ cũng đã nghiên cứu về vấn đề đạo đức cách
mạng, vai trò của đạo đức với sự phát triển của xã hội, các biện pháp giáo dục
đạo đức cách mạng, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên, đó là các công trình như: Nguyễn

Văn Lý, “Kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ
triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000; “Vai trò
của đạo đức với sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam


6
hiện nay”, Lê Thị Thủy, Luận án tiến sỹ Triết học, 2001; “Vai trò của giá trị
đạo đức truyền thống trong sự hình thành và phát triển nhân cách”; Cao Thu
Hằng, Luận án tiến sỹ Triết học, 2011; Công trình“Làm người cộng sản trong
giai đoạn hiện nay”của PGS.TS. Tô Huy Rứa, PGS.TS. Trần Khắc Việt, Nxb
Hà Nội 2013; “Công tác tư tưởng trong thời kỳ đổi mới” của Đào Duy Tùng,
Nxb Hà Nội 2015…
Thứ ba, những nghiên cứu về đạo đức cách mạng của đảng viên
thành phố Sơn La
Trong những năm qua, Tỉnh ủy Sơn La nói chung, Đảng bộ thành phố
Sơn La nói riêng rất quan tâm tới việc giáo dục đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên. Thành ủy Sơn La đã triển khai thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW
của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh tới toàn thể đảng viên, ban hành các Chỉ thị học tập
theo chuyên đề như Chỉ thị 03 - CT/TU ngày 09.9.2013 của Thành ủy Sơn La
về chấn chỉnh tác phong, lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên. Nghiêm túc
thực hiện kiểm điểm theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một Chỉ thị, Nghị quyết hay công trình
nghiên cứu cụ thể nào bàn về nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên của
thành phố.
Như vậy, vấn đề đạo đức, đạo đức cách mạng, xây dựng đạo đức cho
cán bộ đảng viên đã được nhiều cá nhân và tập thể tác giả đề cập ở nhiều góc
độ khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các giải pháp để nâng cao đạo đức
cách mạng cho đội ngũ đảng viên ở một địa bàn dân cư cụ thể chỉ mới được

đề cập ở một mức độ nhất định. Đồng thời, cũng chưa có công trình nào
nghiên cứu về giải pháp để nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng
viên của thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Trên cơ sở kế thừa những kết quả
nghiên cứu của các tác giả, các nhà khoa học nói trên, tác giả đi sâu nghiên


7
cứu vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ đảng viên Đảng bộ
thành phố Sơn La, đưa ra giải pháp mang tính khả thi nhằm góp phần xây
dựng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên Đảng bộ đáp ứng yêu cầu
thực tiễn của địa phương trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao đạo đức
cách mạng, thực trạng nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ đảng viên
Đảng bộ thành phố Sơn La, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao đạo đức cách mạng cho đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La đáp ứng
yêu cầu thực tiễn hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là đảng viên của Đảng bộ thành phố Sơn La.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nâng cao đạo đức cách mạng cho
đội ngũ của đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Đạo đức cách mạng có vai trò vô cùng to lớn đối với mỗi người đảng
viên trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào. Nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng
viên Đảng bộ thành phố Sơn La hiện nay sẽ góp phần tạo ra những người đảng
viên vừa “hồng”, vừa “chuyên”, hoàn thành nhiệm vụ của người đảng viên
trong điều kiện mới, đưa thành phố Sơn La ngày càng phát triển.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Chỉ ra cơ sở khoa học của việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đội

ngũ đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La tỉnh Sơn La hiện nay.
- Làm rõ một số khái niệm công cụ, như: đạo đức, đạo đức cách mạng,
nâng cao đạo đức cách mạng.
- Chỉ ra sự cần thiết nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng
viên Đảng bộ thành phố Sơn La tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay.


8
- Đánh giá thực trạng đạo đức cách mạng của đội ngũ đảng viên Đảng
bộ thành phố Sơn La tỉnh Sơn La hiện nay.
- Nêu lên một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng
cho đội ngũ đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La tỉnh Sơn La hiện nay.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng
viên Đảng bộ thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La trong phạm vi thời gian từ năm
2011 đến nay.
Không gian nghiên cứu bao gồm toàn bộ đảng viên của Đảng bộ thành
phố Sơn La tỉnh Sơn La.
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như
phương pháp phân tích- tổng hợp; lôgic - lịch sử; khái quát hóa; thống kê... để
thực hiện mục đích và nhiệm vụ đề tài đặt ra.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương 4 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản
Người cách mạng phải lấy đạo đức cách mạng làm gốc, đạo đức cách

mạng cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối.
Nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên để họ trở thành những
người đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn đất nước là một nhiệm vụ vừa
mang tính cấp bách vừa mang tính thường xuyên liên tục.
Luôn nhận thức trau dồi đạo đức cách mạng là một quá trình rèn luyện
bền bỉ của mỗi người đảng viên của tổ chức cơ sở Đảng, vì vậy việc nâng cao


9
đạo đức cách mạng cho đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La tỉnh Sơn La
hiện nay cần phải được đặc biệt quan tâm như việc soi gương, rửa mặt hàng
ngày, để giúp họ trở thành những đảng viên đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đất
nước nói chung, thực tiễn thành phố Sơn La nói riêng.
10.2. Đóng góp mới của tác giả
Hệ thống hóa lý luận về đạo đức cách mạng, đạo đức cách mạng của
đội ngũ đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La tỉnh Sơn La hiện nay.
Chỉ ra sự cần thiết của việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên
Đảng bộ thành phố Sơn La tỉnh Sơn La đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong giai
đoạn hiện nay.
Làm rõ thực trạng nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên Đảng bộ
thành phố Sơn La. Nêu lên một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức
cách mạng cho đội ngũ đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy các vấn đề: đạo đức và đạo đức cách mạng, môn Xây dựng Đảng, Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức... ở các trường đại học, cao đẳng, trung tâm
bồi dưỡng chính trị của tỉnh, huyện…
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để đề ra kế hoạch, giải pháp nhằm
nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ thành phố Sơn La
trong điều kiện hiện nay.



10
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CHO ĐẢNG VIÊN ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ SƠN LA
TỈNH SƠN LA HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm đạo đức, đạo đức cách mạng
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Để đảm bảo trật tự phát triển của xã hội ngoài những quy định về pháp
luật, con người còn chịu sự quy định, ràng buộc của những chuẩn mực đạo
đức nhất định. Theo Triết học Mác - Lênin, bất cứ một xã hội nào tồn tại cũng
phải có một phương thức sản xuất nhất định, có một cơ sở hạ tầng và một
kiến trúc thượng tầng phù hợp. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, thuộc
kiến trúc thượng tầng của xã hội, nó cùng với hệ thống các hình thái ý thức xã
hội và các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng quản lý xã hội.
Đạo đức là một bộ phận của tri thức triết học đã xuất hiện cách đây hơn
26 thế kỷ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại.
Ở Trung Quốc, Ấn Độ, đạo đức được thể hiện rõ nét qua các học thuyết
Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo. Các học thuyết này đều lấy đạo đức làm cơ sở
trong Phật giáo vấn đề đạo đức được đề cập đến là khuyên con người sống
thiện, biết yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, tránh điều ác, sống bao dung, từ bi,
bác ái.... Trong Nho giáo, Khổng Tử luôn khuyên học trò mình là phải “ Tiên
học lễ, hậu học văn”, ông đề ra một xã hội tôn ti, trật tự. Khổng Tử đã đưa ra
những nguyên tắc về vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, anh - em…, tất cả đều
phải tuân theo những chuẩn mực nhất định. Ông đã đưa ra quan niệm đức trị
để quản lý xã hội với các nội dung; ý thức với bản thân, ý thức với xã hội, đặt
các mối quan hệ của con người trong mối quan hệ xã hội, cách ứng xử và
hành vi của con người…



11
Nhìn chung, ở các nước phương Đông, đạo đức rất được coi trọng, để
đảm bảo trật tự xã hội cần có đạo đức, con người sống phải có đạo đức, phải
yêu thương nhau, có tôn ti, trật tự, lễ phép, ước vọng về một xã hội bình dị,
hòa mục, hòa đồng, có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo.
Ở các nước phương Tây, từ “Đạo đức” được bắt nguồn từ tiếng La tinh:
“mos” (moris) - lề thói, “Moralis” có nghĩa là thói quen. Khi nói đến đạo đức
là nói đến lề thói, tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với
người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Trong xã hội Hy Lạp - La Mã cổ
đại, người ta đề cao những giá trị đạo đức, như tính trung thực, lòng dũng
cảm, sự trong sáng và cao thượng trong tình bạn, tình yêu…
Theo từ điển Tiếng việt, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin (1999), đạo
đức được định nghĩa như sau: “Đạo đức là phép tắc về quan hệ giữa người
với người, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội; là phẩm chất tốt đẹp của con
người” [56, tr.595].
Bàn về đạo đức, quan điểm duy tâm tôn giáo cho rằng đạo đức là
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực rút ra từ lực lượng siêu nhiên hay quy
về "ý niệm tuyệt đối", "thượng đế"… rồi đem áp dụng vào đời sống hiện
thực của con người mà không xuất phát từ thực tiễn, từ quan niệm xã hội
hiện thực để suy ra lĩnh vực tư tưởng trong đó có tư tưởng đạo đức. Hay các
nhà duy vật trước Mác do hạn chế về hoàn cảnh lịch sử, do địa vị giai cấp và
nhận thức nên khi nghiên cứu những vấn đề đạo đức, họ hoặc chưa thoát
khỏi những quan điểm duy tâm hoặc lại rơi vào quan điểm siêu hình.
Quan điểm mác xít về đạo đức học như là một cuộc cách mạng mới về
đạo đức. Xuất phát từ thực tiễn với vai trò của lao động sản xuất, từ tính quy
định của phương thức sản xuất, C. Mác khẳng định: Đạo đức là một hình thái
ý thức xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội. Vì thế, khi tồn tại xã hội thay đổi thì
những quan niệm chuẩn mực đạo đức cũng thay đổi.



12
Như vậy, bàn về đạo đức có rất nhiều các quan niệm khác nhau, tuy
nhiên khái quát lại ta có thể hiểu: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là
tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và
đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với
xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội” [50, tr.6].
Tóm lại, đạo đức đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của mỗi
cá nhân cũng như trong sự tồn tại và phát triển của xã hội. Mỗi con người đều
cần phải lấy đạo đức là cơ sở, là nền tảng để xây dựng lý tưởng sống, hướng
con người xác định mục đích sống. Đạo đức sẽ như một động cơ có sức mạnh
thôi thúc con người đấu tranh chống lại những cái ác, cái xấu đi ngược lại với
lợi ích của xã hội; nó giữ gìn và phát triển những cái tốt, cái thiện, làm cho xã
hội ngày càng phát triển. Trong thời đại ngày nay, đạo đức càng đóng vai trò
quan trọng trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, độc lập dân tộc và tiến
bộ xã hội. Đạo đức đang tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh vì quyền con
người, chống lại chủ nghĩa vô nhân đạo, bảo vệ môi sinh, chống nghèo đói,
tạo ra mọi khả năng và điều kiện thuận lợi để con người thực hiện nhu cầu của
mình. Chính vì vậy, xã hội muốn phát triển cần phải xây dựng những chuẩn
mực đạo đức phù hợp để giúp con người điều chỉnh hành vi của mình nhằm
đáp ứng những yêu cầu chung của nền đạo đức xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm đạo đức cách mạng
Đạo đức ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều phản ánh những đặc trưng
riêng của xã hội đó. Cũng như vậy, đạo đức cách mạng phản ánh xã hội mới,
xã hội mà ở đó con người muốn thay đổi, muốn xóa bỏ đi những hủ tục lạc
hậu, lỗi thời, một xã hội tiến bộ đáp ứng những khát vọng mà họ mơ ước bấy
lâu. Chính vì vậy, khái niệm đạo đức cách mạng ra đời. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, cách mạng được thể hiện trong tác phẩm "Đường Kách mệnh" năm



13
1927 là: "Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi cái tốt”. Khi
đã trở thành Chủ tịch nước, năm 1952 Người nhắc lại lần nữa rằng: "Cách
mạng là tiêu diệt những cái gì xấu, xây dựng những cái gì tốt. Như vậy, chúng
ta có thể hiểu một cách đơn giản cách mạng là thay đổi, là xóa bỏ cái cũ, cái
lạc hậu để đổi ra cái mới, cái tiến bộ. Đạo đức cách mạng là đạo đức mới, là
đạo đức xóa bỏ đi những cái lạc hậu, lỗi thời không còn phù hợp và xây dựng
đạo đức mới phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Bàn về đạo đức cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Đạo
đức cách mạng là đạo đức mới của giai cấp công nhân, là đạo đức xã hội chủ
nghĩa, là đạo đức cộng sản theo nghĩa rộng.
V.I.Lênin chỉ rõ đạo đức của chúng ta hoàn toàn phục vụ lợi ích đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra; là đạo đức nhằm đoàn kết những
người lao động chống mọi sự bóc lột. Vì vậy, “đối với một người cộng sản,
tất cả đạo đức là nằm trong cái kỷ luật đoàn kết keo sơn đó và trong cuộc đấu
tranh tự giác của quần chúng chống bọn bóc lột... Đạo đức giúp xã hội loài
người tiến lên cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động” [35, tr.369].
Đạo đức luôn mang tính giai cấp của từng xã hội mà nó xuất hiện. Chủ
nghĩa Mác - Lênin cũng thừa nhận tính giai cấp của đạo đức, khẳng định
những chuẩn mực đạo đức phát sinh và phát triển từ những điều kiện sinh
hoạt vật chất, đời sống vật chất của con người, từ thực tiễn của đời sống xã hội.
Theo quy luật phát triển của sự vật thì đạo đức của chủ nghĩa xã hội không xây
dựng trên mảnh đất trống không mà nó phải kế thừa những thành tựu đạo đức
của các xã hội trước và khắc phục những hạn chế đạo đức của các xã hội đó và
xây dựng nên một nền đạo đức mới. Chính vì vậy, nền đạo đức xã hội chủ
nghĩa đã kế thừa, lĩnh hội và phát triển những yếu tố hợp lý trong đạo đức đã
được sáng tạo trong lịch sử hàng ngàn năm của những người lao động cùng với
đó là xây dựng lên một nền đạo đức mới.



14
Từ điển Triết học định nghĩa: “Đạo đức Cộng sản chủ nghĩa là toàn bộ
những nguyên tắc sống và những quy phạm đạo đức phù hợp với hình thái
kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa... Những nguyên tắc của đạo đức Cộng
sản chủ nghĩa tạo thành quy tắc đạo đức của người xây dựng chủ nghĩa Cộng
sản... Hình thức lịch sử đầu tiên của đạo đức Cộng sản chủ nghĩa là đạo đức
cách mạng của giai cấp công nhân, đã hình thành ngay từ trong khuôn khổ
của xã hội tư bản” [52, tr.158].
Ở Việt Nam, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng,
xây dựng và vun đắp, Người quan niệm đạo đức cách mạng là đạo đức của
người cách mạng Việt Nam, của cán bộ, đảng viên và cả nhân dân Việt Nam.
Đạo đức cách mạng mang bản chất của giai cấp công nhân kết hợp với truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và tinh hoa đạo đức nhân loại.
Người đã định nghĩa đạo đức cách mạng là "tuyệt đối trung thành với nhân
dân", "ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu của Đảng", "quyết tâm đấu tranh
chống mọi kẻ địch", "đặt lợi ích của Đảng lên trên hết" và luôn hòa mình với
quần chúng. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê
bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng
đồng chí mình tiến bộ" [38, tr.291].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên phải có cả đức và tài,
nhưng giữa hai mặt đó thì đạo đức vẫn là yếu tố cần có đầu tiên. Bởi lẽ, trong
cuộc đời mỗi con người thì tài năng có thể trau dồi, thành đạt và bộc lộ trong
một khoảng thời gian nhất định; còn đạo đức lại là yếu tố xuyên suốt cả cuộc
đời. Hơn nữa, làm cách mạng là công việc khó khăn gian khổ, nếu không có đạo
đức cách mạng thì khó có thể vượt qua những thử thách để hoàn thành nhiệm vụ
mà Đảng, dân tộc và nhân dân giao phó. Những cán bộ, đảng viên không có đạo
đức cách mạng sẽ mắc phải bệnh chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân sẽ sinh
ra nhiều thứ bệnh rất nguy hiểm như: Bệnh tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu
danh, thiếu kỷ luật; óc hẹp hòi, địa phương; óc lãnh tụ và nhiều thứ bệnh khác.



15
Như vậy, đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu ra và cùng với Đảng ta dày công xây dựng khác với đạo đức cũ về chất
nhưng lại hoàn toàn thống nhất với đạo đức của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là
sự kết hợp truyền thống đạo đức của dân tộc với đạo đức mang bản chất giai
cấp công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại.
Qua đây, có thể hiểu: Đạo đức cách mạng là đạo đức của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, phản ánh thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc
và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; là tổng hòa các phẩm chất chính
trị và phẩm chất đạo đức tạo nên nền tảng nhân cách của người cách mạng;
vừa là động lực, vừa là mục tiêu của người cách mạng trong quá trình hoạt
động cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới vì lợi ích cơ bản của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động Việt Nam.
1.1.2. Nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng
1.1.2.1. Trung với nước hiếu với dân
Để thực hiện được vai trò, sứ mệnh cao cả của người đảng viên thì đức
tính đầu tiên là cần "Trung với nước, hiếu với dân". Vì, xét về quan hê ̣ đa ̣o
đức thì mố i quan hệ của mỗi người với đất nước mình, với nhân dân mình,
dân tô ̣c mình là mố i quan hê ̣ lớn nhấ t.
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất bao trùm nhất, quan trọng
nhất chi phối các phẩm chất khác, là điểm xuất phát mang tính cách mạng
trong quan niệm về đạo đức. “Trung” và “hiế u” là những khái niệm đã có
trong tư tưởng đạo đức truyền thống của Việt Nam và phương Đông, được Hồ
Chí Minh tiếp thu có chọn lọc và đưa vào những yêu cầu, nội dung mới.
Trong Nho giáo, "Trung" và "Hiếu" là hai khái niệm cơ bản, đứng đầu
trong "tam cương" và "ngũ luân". Tuy nhiên, trong Nho giáo hai khái niệm này
được hiểu là "Trung với vua, hiếu với cha mẹ". Kế thừa những quan điểm trên,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới, rộng hơn, cách mạng hơn đó



16
là "trung với nước, hiếu với dân". "Trung với nước" là trung thành với sự nghiệp
dựng nước, giữ nước của nhân dân, của Đảng; "hiếu với dân" là đem lại cuộc
sống "ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân", "thương dân, gần dân, gắn bó với
dân, kính trọng lễ phép với dân, học tập dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc".
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cao hơn là "tận
trung với nước, tận hiếu với dân, vì cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo,
người "dẫn dắt", nhưng lại "là đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Trung
với nước, hiếu với dân có quan hệ chặt chẽ với nhau, càng "trung với nước"
bao nhiêu, thì càng "hiếu với dân" bấy nhiêu và càng "hiếu với dân" bao nhiêu
sẽ thể hiện được "trung với nước" cao bấy nhiêu.
Đây được coi là phẩm chất hết sức quan trọng đối với người cán bộ,
đảng viên; là chuẩn mực và giá trị cao nhất về đạo đức cách mạng. Trung với
Đảng, với Nước không chỉ bằng tình cảm, lý tưởng đạo đức cách mạng mà
phải bằng cả hành động cách mạng. Đối với cán bộ, đảng viên của Đảng bộ
thành phố Sơn la cần sáng tạo, thực hiện có hiệu quả đường lối chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nói và làm việc theo nghị
quyết, thực hiện các nguyên tắc của Đảng, chống mọi biểu hiện dao động,
nhạt phai lý tưởng XHCN, bảo vệ thành quả cách mạng. Hơn ai hết họ phải
phấn đấu tích cực góp phần vào sự nghiệp CNH, HĐH ở thành phố Sơn La, phát
huy mọi tiềm năng của thành phố, tự lực, tự cường vươn lên góp phần từng
bước xây dựng thành phố ngày càng phát triển.
1.1.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần: Theo Hồ Chí Minh có nghĩa là chuyên cần, cần mẫn, mọi người
cần phải có đức tính cần cù, lao đô ̣ng với tinh thầ n tự lực cánh sinh, không
lười biế ng, không ỷ la ̣i, không dựa dẫm. Kết quả là yêu cầu khách quan, là
chuẩn mực quan trọng để đánh giá đảng viên. Đảng viên phải chuyên cần,
phải yêu, say mê công việc của Đảng, của nhân dân giao phó như chính công



17
việc của gia đình mình, phải tìm tòi sáng tạo, phát hiện và nhân các sáng kiến,
kinh nghiệm hay, vận dụng vào thực tiễn có hiệu quả.
Kiệm: Là tiết kiệm, không xa xỉ hoang phí thời gian của cải của mình
và của nhân dân, sử dụng sức người và sức của một cách hợp lý nhằm nâng
cao hiệu quả của lao động sản xuất, mọi người phải thực hành tiết kiệm. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, việc gì không nên
tiêu xài dù một đồng cũng không nên tiêu, việc gì đáng làm mà có ích cho
nhân dân cho đất nước thì dù có tốn đến bao nhiêu công bao nhiêu của cũng
vui lòng, như thế mới đúng là tiết kiệm.
Liêm: Là trong sạch không tham lam, không tham tiền của, địa vị, danh
lợi, không tham ăn ngon, mặc đẹp… Cán bộ, đảng viên phải lấy chữ Liêm
làm đầu, phải thường xuyên rèn luyện phẩm chất liêm khiết trước nhân dân,
trước Đảng. Là đảng viên phải thực hành chữ “Liêm” trước để làm kiểu mẫu
cho nhân dân, người cán bộ quyền thế mà đục khoét dân, tham nhũng, dìm
người giỏi để giữ địa vị, danh tiếng của mình đều là trái với chữ liêm. Chữ
liêm phải đi đôi với chữ kiệm, có kiệm mới có liêm được, vì xa xỉ mà sinh ra
tham lam.
Chính: Là ngay thẳng, không tà, đúng đắn. Đối với mình thì không tự
cao, tự đại, khiêm tốn, học hỏi, thường xuyên tự kiểm điểm bản thân để phát
triển. Đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật
thà, không dối trá, lừa lọc, không nịnh hót người trên, xem thường người
dưới. Đối với việc, đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, làm cho
đến nơi không sợ khó khăn nguy hiểm. Là người làm việc công, phải công
tâm, công đức, chớ đem của công dùng vào việc tư, chớ đem người tư làm
việc công, việc gì cũng phải công minh chính trực, không nên tư ân, tư huệ
hoặc tư thù, tư oán. Khi mình có quyền dùng người thì phải dùng người có tài
năng, làm được việc, thực sự cần, kiệm, liêm, chính.



18
Chí công vô tư, là đem lòng chí công vô tư đối với người, với việc, ham
làm những việc ích nước lợi dân, không ham địa vị công danh. Chí công vô tư
là phải chống chủ nghĩa cá nhân. Chí công vô tư là chăm lo việc nước như
chăm lo việc nhà, chăm lo việc tập thể như việc gia đình. Như vậy, chí công
vô tư không phải là không chăm lo đến lợi ích riêng, Bác chỉ yêu cầu trong
quan hệ lợi ích chung và riêng phải hài hòa, nghĩ lợi ích riêng nhưng cần tính
toán ưu tiên đến lợi ích chung.
1.1.2.3. Lòng yêu thương con người
Một trong những tình cảm lớn của Hồ Chí Minh là lòng yêu thương con
người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cách mạng, người có lý tưởng
XHCN không thể là người không có tình yêu thương con người. Tình yêu
thương con người của Bác không chung chung trừu tượng, phi giai cấp mà
gắn với cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, giành độc lập, tự do cho dân tộc
và tiến lên chủ nghĩa xã hội; con người được giải phóng triệt để, trở thành chủ
nhân thật sự của đất nước được "ấm no, tự do, hạnh phúc".
Tình yêu thương con người của Bác rộng lớn, bao la. Yêu thương
những người lao động cần cù, những người bị đàn áp, bóc lột, lòng yêu
thương con người là không phân biệt dân tộc nào, miền núi hay miền xuôi,
già hay trẻ, nam hay nữ, phải đoàn kết lại đứng lên chống lại kẻ áp bức bóc
lột, bọn đè đầu cưỡi cổ nhân dân, giải phóng nhân dân: “Làm cho đất nước
được độc lập, nhân dân được tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành”. Bác dành tình thương cho cả những người lầm lỡ, những người đã
từng là kẻ thù... Tình thương yêu con người còn thể hiện trong mối quan hệ
bạn bè, đồng chí, đồng đội. Phải nghiêm khắc với bản thân mình, có thái độ
độ lượng và tôn trọng người khác.
Đây chính là điều muốn nhắc nhở đến đảng viên cần chú ý đến phẩm
chất yêu thương con người, để góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước

tiến lên theo con đường XHCN mà Đảng ta đã lựa chọn.


×