Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

TIỂU LUẬN: ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.78 KB, 96 trang )









TIỂU LUẬN:
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY








Trong bài viết này, tác giả đã luận chứng nhằm làm rõ vai trò quan trọng của đạo
đức cách mạng. Theo tác giả, để phát huy đạo đức cách mạng với tính cách một
nguồn lực tinh thần trong điều kiện mới, cần: thứ nhất, coi trọng xây dựng phẩm chất
chính trị và đạo đức cho cán bộ, đảng viên; thứ hai, nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc
phục sự suy thoái về đạo đức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; thứ ba, phát huy
vai trò tiên phong của cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống gắn với đẩy mạnh cuộc
vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Đạo đức cách mạng là một hệ thống giá trị và định hướng giá trị được thể hiện dưới
dạng các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xuất phát từ lợi ích của sự nghiệp đấu tranh


cách mạng của giai cấp công nhân. Tính thực tiễn của nó là sự thống nhất giữa ý thức
và hành vi đạo đức, tạo nên phẩm chất đạo đức - yếu tố nền tảng trong nhân cách của
người cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, đạo đức cách mạng là "cái gốc",
cái "nền tảng" của người cách mạng mà thiếu nó, người cách mạng không thể hoàn
thành được nhiệm vụ vẻ vang của mình. Theo đó, đạo đức cách mạng là nguồn lực
tinh thần to lớn của một Đảng cách mạng; là động lực, điều kiện để Đảng cách mạng
và mỗi cán bộ, đảng viên thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử vẻ vang đối với giai cấp
và toàn dân tộc.
Trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh cách mạng của mình, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đặc biệt coi trọng bồi dưỡng, giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên. Nhờ đó, Đảng đã đào tạo ra những con người ưu tú hết lòng,
hết sức phục vụ Đảng, phục vụ sự nghiệp cách mạng; không ít cán bộ, đảng viên của
Đảng đã trở thành những tấm gương lớn về đạo đức cách mạng để quần chúng nhân
dân học tập, noi theo.(*)Trải qua hơn 80 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đất
nước, đạo đức cách mạng của Đảng đã trở thành hạt nhân định hướng cho sự phát
triển đạo đức của toàn xã hội và Đảng ta đã trở thành biểu tượng của lương tri, của trí
tuệ dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nói về Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách
mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại”(1) và “Đảng ta là đạo


đức, là văn minh”(2). Có thể thấy, đạo đức cách mạng của Đảng ta đã trở thành động
lực tinh thần mạnh mẽ và có vai trò to lớn không chỉ đối với cán bộ, đảng viên của
Đảng, mà còn đối với toàn thể nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành
độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Những thành tựu “to lớn và có ý nghĩa lịch sử”(3) của cách mạng Việt Nam đã đạt
được qua hơn 25 năm đổi mới toàn diện đất nước đã tiếp tục khẳng định Đảng ta là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của cả dân tộc Việt Nam. Trước những khó khăn, thách thức lớn do tình hình
thế giới và trong nước đưa lại cũng như sự chống phá của các thế lực thù địch, Đảng

ta đã giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên định nền tảng tư tưởng cùng mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Đa số cán bộ, đảng viên của Đảng, trên
cơ sở thấm nhuần đạo đức cách mạng tiếp tục “phát huy vai trò tiên phong, năng
động, sáng tạo trong công tác, lao động, rèn luyện phẩm chất, năng lực, có bước
trưởng thành, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới, góp phần xứng đáng vào
thành quả chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(4). Như vậy, trước các
thách thức không nhỏ do tình hình thời cuộc và thực tiễn của sự nghiệp cách mạng đất
nước đưa lại, bản lĩnh chính trị và đạo đức của Đảng ta tiếp tục được khẳng định một
cách vững chắc trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Vai trò đạo đức cách mạng của
Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên tiếp tục được phát huy trong thời kỳ mới.(4)
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
toàn diện và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Sự
nghiệp đổi mới tiếp tục đứng trước nhiều thời cơ và vận hội to lớn do điều kiện quốc
tế và các thành quả của công cuộc đổi mới đưa lại. Tuy nhiên, bên cạnh các điều kiện
thuận lợi, cách mạng nước ta cũng đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Ngoài các
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, sự chống phá của các thế lực thù địch, còn có một
nguy cơ hiện hữu, như một thứ giặc “nội xâm” đang đe doạ sự tồn vong của chế độ ta,
đó là tình trạng “suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang
diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả”(5). Đáng chú ý, sự suy thoái


đó không chỉ liên quan đến sức chiến đấu và vận mệnh của Đảng, mà còn tạo ra các
“hiệu ứng âm” ảnh hưởng đến đời sống tinh thần, đạo đức của toàn xã hội và làm
giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ. Tình hình trên cho thấy, để Đảng
ta hoàn thành được nhiệm vụ của người chiến sĩ tiên phong và phát huy vai trò nguồn
lực tinh thần của đạo đức cách mạng trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cũng
như định hướng, nêu gương cho sự phát triển đạo đức của toàn xã hội, một nhu cầu

bức thiết đặt ra hiện nay là phải “xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng
trong sáng, có trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân
dân”(6).
Cần nhận thấy rằng, từ khi Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, hoàn
cảnh quốc tế và trong nước cũng như nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng đã và đang
đặt ra nhiều yêu cầu mới mẻ. Việc xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và đạo đức cách mạng gắn với vai trò của một đảng cầm quyền, trong điều kiện hội
nhập, mở cửa với bên ngoài, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
gắn với một môi trường văn hóa và đạo đức xã hội có nhiều biến đổi phức tạp, mà sự
tác động của nó đến đạo đức của cán bộ, đảng viên và của các tầng lớp nhân dân
không chỉ có mặt tích cực, mà có cả mặt tiêu cực là một nhiệm vụ rất nặng nề. Bởi
vậy, để nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình, Đảng phải coi trọng
tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; rèn luyện đạo đức cách mạng trong
toàn Đảng và xem đây là hai mặt của một quá trình thống nhất nhằm xây dựng Đảng
vững mạnh cả về tư tưởng, chính trị lẫn tổ chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới do Đảng khởi xướng, lãnh đạo.(6)
Có thể nói, xây dựng và phát huy vai trò đạo đức cách mạng của Đảng trong sự nghiệp
đổi mới toàn diện đất nước hiện nay vừa là một nhu cầu hết sức bức thiết, vừa là một
vấn đề không kém phần phức tạp không chỉ liên quan đến sinh mệnh của Đảng, mà
còn liên quan đến đời sống đạo đức của toàn xã hội. Về thực chất, đây là cuộc đấu
tranh toàn diện và lâu dài, liên quan đến các tổ chức đảng, đến từng cán bộ, đảng viên
và toàn xã hội. Đây là cuộc đấu tranh giữa đạo đức cách mạng với các tàn dư của đạo
đức xã hội cũ, đồng thời là cuộc đấu tranh khắc phục các tư tưởng, tâm lý, lề thói tiêu
cực về đạo đức nảy sinh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập, mở


cửa. Song, vấn đề là ở chỗ, đạo đức cách mạng của Đảng phải tiếp tục khẳng định
được vai trò hạt nhân định hướng, dẫn dắt cho sự phát triển đạo đức của xã hội và
từng cán bộ, đảng viên của Đảng phải “thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất,

đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên
định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng; năng
động, sáng tạo, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách”(7) để các tầng lớp nhân dân
học tập.
Để tiếp tục phát huy nguồn lực tinh thần mạnh mẽ của đạo đức cách mạng trong đẩy
mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, cần quan tâm nhận thức và giải
quyết một số vấn đề sau:
Thứ nhất, để tầm cao trí tuệ và đạo đức cách mạng của Đảng tiếp tục phát huy vai trò
trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, Đảng phải đặc biệt coi trọng xây dựng
phẩm chất chính trị và đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Cả lý luận lẫn thực tiễn đều cho
thấy, chính trị và đạo đức là hai yếu tố nền tảng thống nhất trong nhân cách của người
cách mạng. Sự suy thoái về phẩm chất của người cán bộ, đảng viên của Đảng có thể đi
từ sự suy thoái về tư tưởng, chính trị; song, nhiều khi sự suy thoái đó lại bắt đầu từ sự
suy thoái về đạo đức, lối sống. Nhưng cho dù khởi nguồn của sự suy thoái đó từ đâu
đi nữa, thì hệ lụy của nó cũng đều gây ra các tác hại không nhỏ cho Đảng và sự nghiệp
cách mạng của đất nước. Bởi vậy, xây dựng phẩm chất chính trị cho cán bộ, đảng viên
của Đảng phải gắn với nâng cao đạo đức cách mạng, phải đảm bảo để mỗi cán bộ,
đảng viên không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng, mà còn có đạo đức cách mạng
trong sáng, xứng đáng là những người đi tiên phong trong sự nghiệp đổi mới và phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.(7)
Thứ hai, nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên phải gắn với đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục sự suy thoái về đạo
đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong Đảng hiện nay. Xét về thực chất, nâng
cao chất lượng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên luôn phụ
thuộc một cách quyết định vào vai trò chủ thể của các cấp tổ chức đảng và của từng
cán bộ, đảng viên. Đây là hoạt động có mục đích để chuyển hóa các giá trị của đạo
đức cách mạng thành giá trị đạo đức cá nhân và hành vi đạo đức thực tế của mỗi
người. Sự nghiệp đổi mới đất nước đang đặt ra những yêu cầu mới về phẩm chất đạo



đức cách mạng và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên của Đảng. Mặt khác, tình
hình đạo đức trong Đảng hiện nay đòi hỏi phải “đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện
cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất,
đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng”(8). Giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và tự giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng của cán bộ, đảng viên không tách rời nhau, hiệu quả của công tác này phụ
thuộc vào việc thấm nhuần lý tưởng và nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của người
cách mạng; coi trọng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức ở mọi lúc, mọi nơi. Người cán bộ,
đảng viên phải luôn “chính tâm” với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, vô
luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân và đất nước
lên trên hết. Có như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ không ngừng tiến bộ, làm cho
Đảng mạnh lên và trở thành tấm gương để quần chúng noi theo, học tập. Sự nghiệp
đổi mới đất nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng phải ra sức
củng cố, phát triển đạo đức cách mạng lên một trình độ mới. Theo đó, việc nâng cao
chất lượng giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên không tách rời cuộc đấu
tranh khắc phục các tiêu cực về đạo đức trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên hiện nay. Trước hết, phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - một căn bệnh “đẻ
ra nhiều cái xấu, thiên hình vạn trạng”(9), như suy thoái về đạo đức, lối sống; quan
liêu, tham nhũng; kèn cựa, địa vị và mất đoàn kết trong Đảng, v.v Đây là cuộc đấu
tranh không kém phức tạp diễn ra trong các tổ chức và từng con người; bởi vậy, phải
được tiến hành với các giải pháp đồng bộ, kiên quyết và vững chắc.(8)
Thứ ba, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối
sống gắn với đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII và cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Xây dựng và phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu
về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay đòi hỏi mỗi tổ chức đảng, mỗi cán
bộ, đảng viên phải tiếp tục quán triệt và đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng nhằm đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ
mới. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải tiếp tục hướng vào xây dựng từng tổ chức đảng
vững mạnh và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, nâng cao đạo đức cách

mạng và năng lực công tác. Mặt khác, phải gắn cuộc vận động với nâng cao hiệu quả


cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và xử lý “kịp thời, nghiêm minh, công khai
theo kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với những cán bộ, công chức tham
nhũng”(10). Để đạo đức cách mạng của Đảng tiếp tục phát huy vai trò trong sự nghiệp
đổi mới hiện nay, cần đề cao tính tiên phong, gương mẫu về đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên ở mọi cương vị lãnh đạo. Nhân dân ta có truyền thống coi trọng đạo
đức, thường đánh giá, xem xét người lãnh đạo mình trước hết về mặt đạo đức. Do vậy,
để định hướng, nêu gương cho sự phát triển đạo đức của toàn xã hội, cán bộ và đảng
viên của Đảng phải đi đầu trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống. Để thực hiện
tốt vấn đề trên, cần tiếp tục nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn xã hội. Trong cuộc vận động
này, cán bộ, đảng viên của Đảng phải đi đầu, đi trước để các tầng lớp nhân dân học
tập, noi theo.(10)
Phát huy vai trò đạo đức cách mạng của Đảng là một vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
bách đặt ra đối với sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng trong thời kỳ mới. Sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đang đòi hỏi phải tiếp tục phát huy nội lực tinh
thần từ bên trong của Đảng, đó là tầm cao trí tuệ và đạo đức cách mạng của một Đảng
cầm quyền - một Đảng không có lợi ích nào khác là phụng sự Tổ quốc và nhân dân.
Trong sự nghiệp đó, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải thấu triệt hơn nữa lời căn
dặn trước lúc đi xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(11).

(*) Đại tá, tiến sĩ, chủ nhiệm Khoa Triết học, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng.
(1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.2.
(2) Hồ Chí Minh. Sđd., tr.5.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.17.


(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd.,
tr.216.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd.,
tr.22.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd.,
tr.279.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd.,
tr.182 - 183.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd.,
tr.286.
(9) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.456.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd.,
tr.289.
(11) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.498.

LUẬN ĐIỂM “KHOA HỌC TRỞ THÀNH LỰC LƯ
ỢNG SẢN XUẤT TRỰC
TIẾP” CỦA C.MÁC VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số nội dung cơ bản trong luận điểm của
C.Mác dự báo khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đồng thời, tác giả đã
phân tích và luận chứng vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội trong xã hội hiện đại, cho rằng khoa học – công nghệ và sản xuất đang có
xu hướng nhất thể hóa. Trên cơ sở đó, luận chứng một số giải pháp để phát huy hiệu
quả của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta
hiện nay.

Cách đây trên 160 năm, C.Mác đã đưa ra nhận định về xu thế nhất thể hoá giữa khoa

học và sản xuất bằng luận điểm nổi tiếng: "Khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp”. Điều này đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ và trở thành xu thế tất yếu


trong sự phát triển của nền sản xuất hiện đại trên thế giới. Khoa học và công nghệ
hiện đại ngày càng đóng vai trò quan trọng, to lớn trong nền sản xuất xã hội và trong
đời sống nhân loại, đồng thời là một đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay và là yếu
tố đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Về luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác, đến nay
vẫn có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, ý kiến khác lại cho rằng khoa học đang trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, thậm chí có ý kiến cho rằng C.Mác không nói như vậy. Theo chúng
tôi, luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác có nghĩa
là khoa học trực tiếp tham gia vào việc sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.(*)Bởi
vì, khoa học (biểu hiện ở các tri thức khoa học, thành tựu của khoa học, phát minh
khoa học) là sản phẩm sáng tạo của tư duy con người, khi được con người ứng dụng
trong hoạt động sản xuất, hay nói cách khác là khi được chuyển hoá, được “vật chất
hoá” thành công cụ sản xuất và được con người sử dụng trong hoạt động lao động để
tạo ra của cải vật chất thì nó trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Còn khoa học
với tính cách một hình thái ý thức xã hội thì nó là yếu tố thuộc về kiến trúc thượng
tầng chứ không thể là lực lượng sản xuất hay thành tố của lực lượng sản xuất được.
Trong các tác phẩm của mình, C.Mác đã nhiều lần khẳng định vai trò cũng như sức
mạnh cải tạo thế giới của tri thức khoa học khi nó trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Đồng thời, ông cũng chỉ rõ rằng, tự bản thân khoa học không thể gây ra bất kỳ
một tác động tích cực hay tiêu cực nào đối với thế giới, mà phải thông qua sự vận
dụng vào hoạt động thực tiễn của con người thì nó mới phát sinh tác dụng. Trong Gia
đình thần thánh, C.Mác chỉ rõ: Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết.
Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn.
Trong Lời nói đầu Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác một
lần nữa khẳng định: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự

phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật
chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào
quần chúng”(1).
Trong các yếu tố cấu thành và quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất thì
công cụ lao động giữ vị trí rất quan trọng, nó là cái quyết định năng suất lao động,


biểu hiện khả năng chinh phục và làm chủ tự nhiên của con người, Ph.Ăngghen gọi
nó là khí quan của bộ óc người, là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá, nhằm
nối dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người, còn C.Mác thì chỉ rõ:
“Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở
chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”(2), “Cái cối xay
quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã
hội có nhà tư bản công nghiệp”(3). Yếu tố trực tiếp quyết định sự phát triển của công
cụ lao động chính là khoa học và công nghệ, bởi nhờ có thành tựu khoa học (những
phát kiến khoa học) và công nghệ, công cụ lao động được cải tiến không ngừng
nhằm giảm nhẹ lao động cơ bắp của con người và làm cho lao động đạt hiệu quả cao
hơn. Do đó, có thể nói, sự phát triển của khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến sự phát
triển của lực lượng sản xuất; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến cuộc
cách mạng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất.(1)
Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại và là yếu tố
không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Các thành tựu
khoa học và công nghệ ngày càng xâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và trở thành
lực lượng trực tiếp sản xuất; thời gian ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ
vào sản xuất trực tiếp ngày càng ngắn dần. Nói cách khác, quá trình nhất thể hoá
giữa khoa học và công nghệ với sản xuất đang ngày càng rõ nét và trở thành xu thế
tất yếu. Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển trên thế
giới chủ yếu dựa vào tri thức khoa học với các tiến bộ khoa học và công nghệ. Trong
điều kiện hiện nay, bất kỳ quốc gia nào muốn trở thành nước phát triển thì không thể
không chú trọng hàng đầu vấn đề này.

Tất nhiên, cần lưu ý rằng, thứ nhất, sức mạnh và tiềm lực của khoa học và công nghệ
bao gồm sức mạnh của khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn)
và sức mạnh của công nghệ (bao gồm công nghệ chiến lược, công nghệ quản lý và
công nghệ kỹ thuật). Thứ hai, khoa học và công nghệ có thể là động lực phát triển
kinh tế, nhưng tự nó không trở thành động lực phát triển xã hội. Nó chỉ trở thành
động lực phát triển kinh tế - xã hội khi được định hướng, quản lý nhằm đem lại lợi
ích chung cho quần chúng nhân dân, vì mục tiêu phát triển, công bằng và tiến bộ xã
hội. Nếu đi ngược mục tiêu đó, nó sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn xã hội, thúc đẩy sự


phân hoá xã hội và cản trở sự phát triển bền vững của xã hội, thậm chí trở thành nhân
tố phá hoại sự tiến bộ xã hội. Thứ ba, khoa học và công nghệ phải được kết hợp chặt
chẽ với yếu tố con người thì mới phát huy được tác dụng tích cực của nó. Trong
trường hợp khoa học và công nghệ quá lạc hậu hoặc vượt quá xa so với năng lực của
người sử dụng thì đều không đưa lại hiệu quả mong muốn trong thực tiễn. Thứ tư,
không chỉ những tri thức khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, mà cả tri thức khoa
học xã hội và nhân văn cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình sản
xuất. Nó là cơ sở lý luận cho việc quản lý các quá trình sản xuất hiện đại, công nghệ
hiện đại, nhằm sử dụng mọi nguồn lực một cách có hiệu quả, tạo ra sự phát triển
nhanh và bền vững.
Trong lịch sử không phải bao giờ khoa học cũng trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Điều này có nguyên nhân từ cách phân chia truyền thống đối với hoạt động
nghiên cứu khoa học thành: nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu triển khai và dự án sản
xuất thử - thử nghiệm. Cách phân chia này đã coi khoa học và công nghệ và sản xuất
là hai lĩnh vực riêng biệt. Vì vậy, trong suốt một thời gian dài, người ta chỉ tập trung
ưu tiên cho phát triển khoa học và công nghệ ở các viện, trường, sau đó mới tìm cách
“gắn kết” khoa học và công nghệ với sản xuất. Điều này đã tác động tiêu cực đến sự
phát triển của lực lượng sản xuất cũng như sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng
hoá trên thị trường. Cho đến đầu thế kỷ XIX, khoa học vẫn chỉ đóng vai trò gián tiếp
trong quá trình sản xuất. Mặc dù vậy, C.Mác với bộ óc thiên tài của mình đã khẳng

định, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng như sản xuất, xu thế
nhất thể hoá giữa khoa học với sản xuất sẽ trở thành tất yếu. Dự báo khoa học đó đã
trở thành hiện thực khi xuất hiện phổ biến một dạng nghiên cứu mới - nghiên cứu sản
xuất (R&P - Research & Production). Nếu như kết quả của nghiên cứu lý thuyết là
các sản phẩm mang tính lý thuyết, kết quả của nghiên cứu triển khai là các sản phẩm
thử nghiệm mang tính khoa học và kỹ thuật, thì kết quả của nghiên cứu sản xuất là
các sản phẩm mang tính xã hội và hàng hoá, là kết tinh các thuộc tính khoa học, kỹ
thuật, pháp luật, thẩm mỹ Nói cách khác, sản phẩm của nghiên cứu sản xuất chính
là công nghệ sản xuất. Nghiên cứu sản xuất ra đời gắn liền với sự chuyển biến từ nền
kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Trong điều kiện chuyển sang nền
kinh tế tri thức ngày nay, nghiên cứu sản xuất lại càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Thông


qua nghiên cứu sản xuất, hàm lượng chất xám trong mỗi sản phẩm hàng hoá ngày
một gia tăng. Nói cách khác, khoa học đã kết tinh và thăng hoa trong mỗi sản phẩm
hàng hoá.
Đối với nước ta, quá trong trình xây dựng phương thức sản xuất mới trong bối cảnh
toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc nhanh chóng phát triển lực
lượng sản xuất đi đôi với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh tế
- xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu đang là một yêu cầu cấp thiết. Để thực hiện yêu
cầu này, Bộ Chính trị đã đề ra một số chủ trương chiến lược quan trọng, trong đó
điển hình là chủ trương tập trung xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm tại ba miền
Bắc, Trung, Nam nhằm tập trung nguồn lực đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất,
trên cơ sở đó đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội cả nước. Thực hiện chủ trương của
Bộ Chính trị, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết và
Quyết định để cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tại ba vùng kinh tế
trọng điểm. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược này, khoa học và công nghệ
phải thực sự là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Muốn vậy, trước hết phải tập
trung phát triển khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất, nguồn nhân lực khoa học
và công nghệ trực tiếp sản xuất và hệ thống hạ tầng kỹ thuật khoa học và công nghệ

trực tiếp sản xuất.
Thực tế chỉ ra rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường toàn cầu hoá ngày nay, nền
kinh tế của một quốc gia chỉ có thể tồn tại và phát triển khi các sản phẩm hàng hoá
của nó luôn được đổi mới và có tính cạnh tranh về chất lượng, giá cả, mẫu mã
Những đòi hỏi như vậy chỉ được đáp ứng khi các cơ sở sản xuất có tiềm lực mạnh về
khoa học và công nghệ và nó trực tiếp tham gia sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá. ở
Việt Nam, nếu trong nửa cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, “khoán 10” thành công
dựa trên cơ sở thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, giải phóng sức lao động của người
nông dân, thì cơ sở thành công của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội hiện
nay chính là nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất bằng việc kết hợp có hiệu quả
giữa tiềm lực người lao động Việt Nam với sức mạnh khoa học và công nghệ hiện
đại. Để phát triển lực lượng sản xuất, nhất thiết phải có sức mạnh khoa học và công
nghệ, đặc biệt ưu tiên khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất trong các doanh
nghiệp và các cơ sở sản xuất.


Trong những năm vừa qua, các thành tựu của khoa học và công nghệ được ứng dụng
ngày càng rộng rãi trong lao động sản xuất và đời sống của người dân Việt Nam, góp
phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng cuộc sống của
người dân. Không ít phát minh, sáng chế đã trở thành niềm tự hào của người Việt
trước cộng đồng quốc tế, điển hình như việc sáng chế máy hút bùn công suất 30m3/h
của anh Trần Văn Dũng (Trà Vinh), máy gặt đập liên hợp MGĐ-140 của kỹ sư
Nguyễn Minh Hùng (Đồng Nai), hay việc di chuyển các công trình xây dựng của
“thần đèn” Nguyễn Cẩm Luỹ Chúng ta cần đẩy mạnh việc xuất khẩu những “công
nghệ” như vậy ra nước ngoài thay vì chỉ xuất khẩu dầu thô, than đá, mủ cao su
Bên cạnh một số thành tựu đã đạt được trong thời gian vừa qua, việc nghiên cứu và
ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất trực tiếp vẫn còn tồn tại không ít hạn
chế, bất cập. Ngân sách đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ
chưa được định hướng ưu tiên trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh, chủ yếu dừng
lại ở nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu triển khai. Nguồn nhân lực lao động kỹ

thuật vừa yếu, vừa phân tán nên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Đây là tình
trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Bên cạnh đó, với quan niệm cho rằng chỉ các sản phẩm
của nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu triển khai mới được coi là sản phẩm của
nghiên cứu khoa học, còn các sản phẩm của nghiên cứu sản xuất, cho dù có tính khoa
học và kỹ thuật, nếu do các doanh nghiệp thực hiện, tức có thêm tính hàng hoá và
tính xã hội, thì cũng chỉ được coi là sáng kiến cải tiến kỹ thuật chứ chưa phải là
nghiên cứu khoa học. Do vậy, không tạo ra động lực cho các nghiên cứu sản xuất
phát triển và ảnh hưởng đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nhìn chung, hoạt động khoa học và công nghệ thời gian qua chưa đáp ứng được yêu
cầu phục vụ có hiệu quả cao cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Sự phối
hợp, hợp tác nghiên cứu giữa các tổ chức, cá nhân trong hoạt động khoa học và công
nghệ thiếu chặt chẽ, dẫn đến hiệu quả không cao; việc ứng dụng khoa học và công
nghệ trong sản xuất còn chưa lường hết được những tác động tiêu cực của nó nên
không có biện pháp chủ động ngăn chặn, làm xuất hiện nhiều vấn đề kinh tế, xã hội
bức xúc, như môi trường sống bị ô nhiễm, đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, lao
động giản đơn dư thừa Đây thực sự là những nguy cơ đe doạ sự ổn định xã hội và
phát triển bền vững của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại


hóa hiện nay.
Trên cơ sở các phân tích nêu trên, để hoạt động khoa học và công nghệ thực sự phát
huy hiệu quả đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay, cần
thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách, luật pháp để xây dựng, sử
dụng và phát huy có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật hiện có, nâng cao
tính cạnh tranh trong hoạt động của các cá nhân và tổ chức làm khoa học để tạo động
lực phát triển khoa học và công nghệ; thu hút có hiệu quả các nguồn lực xã hội, các
thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước để phục vụ phát triển hạ tầng
khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất; tập trung đầu tư xây dựng các khu công
nghệ có quy mô hợp lý, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng

tỉnh và vùng; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trực tiếp sản
xuất. Trên cơ sở đó, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài
nước, các tổ chức khoa học và công nghệ có khả năng nghiên cứu ứng dụng, cải tiến
công nghệ nhằm phục vụ trực tiếp nhu cầu sản xuất kinh doanh của xã hội tham gia
vào các khu công nghệ này.
Hai là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và thực hiện xã hội hoá lĩnh vực
khoa học và công nghệ đi đôi với xoá bỏ cơ chế quan liêu, độc quyền trong khoa học
để tạo điều kiện, môi trường cho cạnh tranh bình đẳng trong lĩnh vực này. Hình
thành các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ tập trung để hỗ trợ giải quyết
các nhu cầu về công nghệ của doanh nghiệp. Các tổ chức này có thể là đơn vị sự
nghiệp công lập, ngoài công lập hoặc doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Đa dạng
hoá và nâng cao chất lượng các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực lao động kỹ thuật
theo hướng thích ứng với nhu cầu thị trường (kể cả với những thị trường công nghiệp
công nghệ cao, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu quy mô lớn) và phục vụ trực
tiếp nhu cầu của doanh nghiệp. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia liên
kết đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ cũng như thu hút nhân lực kỹ
thuật cao từ nước ngoài. Tiếp tục chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp nghiên cứu khoa
học theo mô hình tổ chức khoa học và công nghệ công lập, hoạt động theo Nghị định
số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.


Cần lưu ý rằng, xã hội hoá hoạt động nghiên cứu, đào tạo khoa học và công nghệ là
việc làm cần thiết. Tuy nhiên, không thể chỉ dừng lại ở việc tạo thuận lợi trong việc
thành lập, tổ chức hoạt động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức này, mà
phải tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt động của nó để
đảm bảo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước, đồng thời thống nhất công tác
quản lý nhà nước giữa hai lĩnh vực khoa học và công nghệ và đào tạo, tránh tình
trạng dàn trải ở quá nhiều bộ, ngành, cơ quan.
Ba là, tiếp tục đổi mới công tác lý luận trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, đảm

bảo có hệ thống đối với những vấn đề mang tính chiến lược và tính dự báo, làm cơ sở
cho việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển khoa học và công nghệ của
Chính phủ. Để làm được điều này, việc tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn là hết sức
quan trọng. Lý luận trong lĩnh vực khoa học và công nghệ phải có mối liên hệ chặt
chẽ và phù hợp với lý luận trong các lĩnh vực khoa học khác, như lý luận về mục tiêu
đổi mới thể chế kinh tế, về mục tiêu giáo dục và đào tạo, về chế độ sở hữu, v.v
Bốn là, căn cứ đặc điểm và tình hình của đất nước, tiềm lực kinh tế - xã hội và trình
độ phát triển của khoa học và công nghệ trong từng giai đoạn để xác định mục tiêu
trọng điểm và lựa chọn nhiệm vụ trọng tâm tập trung đầu tư cho công tác nghiên cứu
khoa học, đảm bảo thiết thực, hiệu quả, tránh ôm đồm vượt quá khả năng hoặc xác
định không rõ mục tiêu trọng điểm của việc nghiên cứu, dẫn đến lãng phí nguồn lực.
Các phân tích khoa học và thực tế đã chỉ ra rằng, trong 4 yếu tố cơ bản làm cho đất
nước phát triển, nếu có nguồn nhân lực và hạ tầng kỹ thuật thì có thể thu hút được
vốn và công nghệ. Vì thế, đối với hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay, trước tiên cần
chú trọng đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ có chất lượng cao và hạ
tầng kỹ thuật để đáp ứng tốt đòi hỏi của sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, chỉ các nước lớn, có tiềm lực mạnh về nhiều mặt mới đủ khả
năng tập trung cho cả 3 loại nghiên cứu, các nước trung bình chỉ đủ khả năng tập
trung cho nghiên cứu triển khai và nghiên cứu sản xuất, một số nước như Hàn Quốc
chỉ tập trung cho nghiên cứu triển khai, Trung Quốc tập trung cho nghiên cứu triển
khai và nghiên cứu lý thuyết và điều đó mới đưa lại hiệu quả thiết thực trong thực
tiễn. Ngoài ra, việc lựa chọn con đường nghiên cứu khoa học và công nghệ cũng cần
cần nhắc trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm của các nước đi trước. Chẳng hạn, ở châu


Âu trước đây, việc nghiên cứu khoa học diễn ra theo chu trình thuận từ nghiên cứu lý
thuyết đến nghiên cứu triển khai và nghiên cứu sản xuất, tức là từ khoa học đến công
nghệ, nhưng ở một số nước châu á lại chọn con đường phát triển theo chu trình
nghịch từ nghiên cứu sản xuất đến nghiên cứu triển khai và nghiên cứu lý thuyết, tức
là từ công nghệ đến khoa học, và điều này đã đem lại hiệu quả to lớn bất ngờ. Điển

hình là trường hợp của Nhật Bản thời Minh Trị đã mua máy móc của phương Tây để
sản xuất và bắt chước công nghệ, tiếp theo là cải tiến và xây dựng công nghệ riêng,
rồi mới từng bước xây dựng một nền khoa học. Nhờ vậy, chỉ sau một thời gian ngắn,
Nhật Bản đã trở thành một quốc gia hùng mạnh về khoa học và công nghệ. Sau này,
Hàn Quốc với chính sách phát triển các khu công nghệ, Trung Quốc với quyết tâm
trở thành “công xưởng của thế giới” thực chất đều lựa chọn con đường phát triển
khoa học và công nghệ theo chu trình nghịch và đã đạt được những thành tựu to lớn.
Năm là, thúc đẩy và tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, nhất là cơ chế tài chính cho
mối liên doanh, liên kết giữa “bốn nhà” (Nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học,
nhà nông) để ứng dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ vào sản xuất trong quá
trình sản xuất hàng hoá. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo môi trường văn hoá - xã hội
và đẩy mạnh công tác truyền thông để người dân hiểu và tôn trọng khoa học và công
nghệ cũng như việc ứng dụng nó trong sản xuất và đời sống. Đây cũng là cơ sở quan
trọng cho việc xây dựng một nền văn hoá mới tiên tiến mà ở đó, có sự thống nhất
giữa những yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra với tốc độ nhanh
chóng, trong đó cách mạng trong lĩnh vực khoa học đang vượt trước cách mạng trong
lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ đã tạo điều kiện đẩy nhanh tiến bộ công nghệ. Ngược
lại, sự tiến bộ của công nghệ lại thúc đẩy khoa học phát triển nhanh hơn nữa và đưa
khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong nền kinh tế toàn cầu hoá. Khoa
học và công nghệ đã và đang trở thành động lực phát triển hàng đầu của lực lượng
sản xuất ở hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học và công nghệ khiến tốc độ thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội diễn ra
nhanh tới mức chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân loại từ trước tới nay. Bên cạnh
mặt tích cực, sự phát triển của nó cũng khiến nhiều quốc gia, các tổ chức và định chế
quốc tế lớn khó quản lý hay kiểm soát sự thay đổi đó một cách hiệu quả, đồng thời


đặt ra không ít thách thức lớn đối với nhân loại. Để khắc phục và đối phó có hiệu quả
với những vấn đề nêu trên, đòi hỏi sự nỗ lực chung và hợp tác chặt chẽ giữa các quốc

gia, dân tộc, không phân biệt văn hoá, thể chế chính trị. Trong bối cảnh đó, sự phát
triển của khoa học và công nghệ cũng như xu thế nhất thể hoá giữa khoa học và công
nghệ với sản xuất phải được định hướng và quản lý chặt chẽ, nhằm mục tiêu vì con
người, vì sự phát triển bền vững và tiến bộ xã hội.


(*) Tiến sĩ, Văn phòng Chính phủ.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.580.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.269.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.4, tr.187



TƯ DUY PHÁT TRIỂN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC
LƯƠNG ĐÌNH HẢI (*)

Trong bài viết này, trên cơ sở phân tích một cách khái quát thực trạng của đất nước
trong bối cảnh mới, tác giả khẳng định rằng cần thiết phải có một tư duy mới, quan
niệm mới hay lý thuyết phát triển mới thì mới có thể đưa đất nước phát triển nhanh
hơn. Đồng thời, tác giả cũng phân tích một số khía cạnh, nội dung cơ bản của tư duy
mới dựa trên yêu cầu phát triển đột phá và những tiền đề nhất định đã xuất hiện ở
nước ta hiện nay.

Một trong những đặc điểm nổi bật của Việt Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay
là tính chất sản xuất nhỏ vẫn ảnh hưởng và chi phối mọi mặt của đời sống xã hội.
Trong tư duy, suy nghĩ, lối sống và nói chung trong toàn bộ nền văn hoá dân tộc, từ


văn hoá dân gian đến văn hoá bác học, từ sản xuất vật chất đến đời sống tinh thần,

tính chất sản xuất nhỏ thể hiện khá đậm nét. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, không
phải mọi thứ nảy sinh trong nền sản xuất nhỏ ngày nay đều là bất hợp lý, là lạc hậu,
cản trở sự phát triển. Nhưng, tính chất sản xuất nhỏ với tính cách tàn dư quá khứ lại
gây ảnh hưởng trái chiều một cách mạnh mẽ đến sự phát triển của tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội hiện đại. Nhận thức đúng những biểu hiện và tác động trái chiều
của tính chất sản xuất nhỏ là điều kiện cần cho việc hạn chế những ảnh hưởng của nó
và đảm bảo cho sự phát triển có chất lượng tốt hơn trên mọi phương diện.
Đời sống vật chất, tồn tại xã hội quyết định đời sống tinh thần, ý thức xã hội. Không
ai chối cãi điều này, nhưng cần nhớ rằng, đó là xét đến cùng. Trong thực tiễn đời
sống cá nhân cũng như đời sống xã hội, chúng ta có thể thấy tình hình dường như
không phải lúc nào cũng vậy mà ngược lại thì mới đúng. Mọi sự phức tạp trong đời
sống xã hội dường như đều xuất phát trực tiếp từ ý thức con người, nghĩa là từ những
ý nghĩ, quan niệm, cách nhìn nhận, trình độ văn hoá, kiến thức, sự hiểu biết, kinh
nghiệm hay sự từng trải thực tiễn của những con người trong cuộc và trong một
chừng mực nào đó, còn xuất phát từ cả tính cách, nhân tâm, khát vọng của họ.
Nhưng, những cái đó lại cũng xuất phát từ những yếu tố nói trên. Như vậy, có thể
nói, dường như mọi sự biến trong xã hội con người đều trực tiếp xuất phát từ văn hóa
được chứa đựng, tích tụ và trầm lắng trong ý thức con người.(*)
Một nền sản xuất nhỏ đã tồn tại qua hàng ngàn năm lịch sử tất yếu để lại một nền văn
hoá, có thể tạm gọi là văn hoá sản xuất nhỏ, xét từ bình diện xã hội; và cũng tất yếu
như vậy, để lại một tư duy sản xuất nhỏ với những nội dung văn hoá sản xuất nhỏ,
xét cả từ bình diện xã hội lẫn cá nhân. Trong xã hội hiện nay, văn hoá sản xuất nhỏ,
tư duy sản xuất nhỏ đang tồn tại như một trong những yếu tố trong dung môi của sự
phát triển xã hội. Tư duy sản xuất nhỏ vừa là sản phẩm của các xã hội truyền thống,
chưa qua công nghiệp hoá và hiện đại hoá xã hội, vừa là yếu tố đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc duy trì, củng cố sự tồn tại của các xã hội này(1). Lịch sử nhiều
nước phương Đông, đặc biệt của Việt Nam và Trung Quốc, cho thấy một trong
những nét đặc trưng của tư duy sản xuất nhỏ, khác với tư duy của các xã hội hiện đại,
là định hướng trở về quá khứ nổi trội hơn so với hướng tới tương lai. Cách giải quyết
những vấn đề hiện tại được rút ra từ khuôn mẫu giải quyết vấn đề của tiền nhân; xã



hội quá khứ là hình mẫu cho xã hội hiện tại; thời Nghiêu, Thuấn là thời đại mẫu mực
cho mọi xã hội về sau,… Với tư duy kỹ trị, tương lai bao giờ cũng tiến bộ hơn quá
khứ và hiện tại; xã hội hạnh phúc, phồn vinh đang ở phía trước chứ không phải ở
phía sau. Những hành xử của các bậc tiền nhân chỉ để tham khảo kinh nghiệm chứ
không phải là khuôn mẫu buộc phải tuân theo,… Bởi vậy, chỉ tư duy phát triển (bao
gồm nhiều loại tư duy khác nhau, trong đó có tư duy kỹ trị) mới thích hợp với xã hội
phát triển, xã hội đang hiện đại hoá. Các xã hội đang phát triển và hiện đại hoá luôn
đòi hỏi có các dạng tư duy phát triển đồng hành với nó.
Đất nước và dân tộc ta đang ra sức thực hiện khát vọng phát triển, hiện đại hoá xã
hội, đặng sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Công cuộc đổi mới 25 năm qua
đã thu đuợc nhiều thắng lợi to lớn, tạo đà và thế cho sự phát triển tiếp theo. So với
các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội nói chung của nước ta trong những năm qua là rất ấn tượng, chỉ đứng sau
Trung Quốc. Sự chuyển đổi từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại đã diễn ra
nhanh chóng trên hầu hết các mặt, các vùng, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhưng
ngay từ khi bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI này đã bắt đầu một thời kỳ
mới, thể hiện một tình thế phát triển mới, đòi hỏi cái mà có người gọi là những đột
phá mới trong tư duy, hoặc lý luận phát triển mới, còn theo chúng tôi là đòi hỏi một
dạng tư duy phát triển mới.(1).
Trong thời đại cách mạng khoa học - kỹ thuật, công nghệ và toàn cầu hoá, tốc độ
phát triển các lực lượng sản xuất vô cùng nhanh chóng so với các giai đoạn trước đây
của lịch sử. Vòng đời của các sản phẩm tiêu dùng ngày càng rút ngắn lại theo tỷ lệ
nghịch với tốc độ phổ cập đại trà của sản phẩm ấy. Vòng đời các công nghệ sản xuất
quy định vòng đời các sản phẩm tiêu dùng dường như không chỉ ngày một ngắn đi,
mà còn trực tiếp quy định sự sống còn của các doanh nghiệp, công ty. Hiện nay, tốc
độ thay đổi và khả năng thích ứng công nghệ trở thành vấn đề sống còn của các công
ty, các nền kinh tế, chứ không phải là vấn đề quy mô lớn hay bé của chúng như trước
đây(2). Trong bối cảnh thế giới đang phát triển và đi vào tương lai với tốc độ hết sức

nhanh chóng, thì chúng ta lại đang tụt hậu. Nếu mắc phải sự sai sót, dù chỉ là những
sai sót nhỏ trên con đường phát triển, chúng ta sẽ bị chậm chân, sự tụt hậu càng xa
hơn, càng khó khắc phục hơn, nguy cơ tụt hậu dài lâu càng hiển hiện.


Với một tầm nhìn mới, xa hơn, không dừng lại ở năm 2020 mà chúng ta đang hy
vọng là đến thời điểm đó, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, giả sử đến năm 2040, chúng ta sẽ thấy rõ hơn nhu cầu phát triển với
tốc độ nhanh hơn, chất lượng tốt hơn, hiệu quả lớn hơn, thành tựu to lớn hơn, đang
ngày một trở nên hết sức cấp bách. Sau khoảng 30 năm nữa, nếu với tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân đầu người như hiện nay (bình quân 8,6%/năm từ 1990 đến
nay), Trung Quốc có thể đạt mức thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ 48.000 đôla
Mỹ, cao hơn mức của Nhật Bản và tương đương Mỹ, Hà Lan hiện nay, hoặc nếu
mức tăng truởng GDP bình quân đầu người hàng năm giảm còn khoảng 5,8 -
6%/năm, thì Trung Quốc cũng đạt khoảng 30.000 đôla, tương đương mức của Italia,
Tây Ban Nha hiện nay. Trong khi đó, nếu với mức độ tăng trưởng được xem là cao
như hiện nay (khoảng 6% trong hơn 20 năm vừa qua), thì đến năm 2040, GDP bình
quân đầu người của chúng ta mới chỉ khoảng 8.000 đôla, bằng mức của Mêhicô năm
2006. Còn nếu tốc độ tăng trưởng GDP đầu người hàng năm chậm lại, chỉ còn trung
bình khoảng 4,8 - 5% năm, thì đến khi đó chúng ta chỉ được khoảng 4.000 đôla, thấp
hơn mức của Malaixia hiện nay. ở đây, chúng ta mới chỉ nói đến mặt lượng của tăng
trưởng mà chưa nói đến mặt chất của tăng trưởng – mặt mà hiện nay chúng ta đang
còn nhiều bất cập.(2).
Từ góc độ phát triển nói chung, chúng ta đang đứng trước hàng loạt vấn đề nan giải
mà từ nay đến năm 2040 sẽ ngày càng trở nên căng thẳng và không thể không giải
quyết. Đó không chỉ là tốc độ phát triển nhanh của thế giới và các nước trong khu
vực, của khoa học và công nghệ, sự biến động của nền kinh tế thế giới, nói tóm lại là
của những yếu tố bên ngoài, mà còn là của các yếu tố bên trong. Cùng với những yếu
tố bên ngoài, các yếu tố bên trong cũng đang tạo nên những sức ép rất lớn, những
chướng ngại cản trở chúng ta phát triển nhanh, làm tăng nguy cơ tụt hậu ngày càng

xa.
Trong hàng loạt các yếu tố ấy, trước hết phải kể đến điều kiện tài nguyên, môi
trường. Đất nước chúng ta không thuộc loại giàu có tài nguyên thiên nhiên như một
số nước khác trên thế giới. Các nguồn tài nguyên không quá khan hiếm, nhưng có trữ
lượng thấp. Một số nguồn tài nguyên đã bắt đầu cạn kiệt. Hàng năm, thiên tai, dịch
bệnh luôn xảy ra và diễn biến phức tạp, khó lường, gây ảnh hưởng lớn đến tốc độ


phát triển đất nước và chất lượng cuộc sống con người. Ngoài ra, các yếu tố thuộc hạ
tầng cơ sở và tài sản vật chất mà các thế hệ trước đây để lại, như hệ thống các thành
phố, thị xã, khu dân cư, tập quán, lối sống và văn hoá nói chung cũng là những yếu
tố có ảnh hưởng lớn. Tuy nhiên, chúng không phải là những yếu tố quyết định tốc độ
phát triển của quốc gia - dân tộc, dù ở đây đang có hàng loạt những bất cập, cản trở
sự phát triển.
Một trong những yếu tố có tính chất quyết định tốc độ phát triển quốc gia là chất
lượng nguồn nhân lực. Báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng đã nói nhiều về
những khía cạnh, những mặt tích cực, mặt mạnh của nguồn lực con người Việt Nam.
Nhưng, nếu xem xét kỹ sẽ thấy một loạt những vấn đề về nguồn lực con người, như
sức khoẻ, trình độ học vấn và văn hoá, năng lực sáng tạo, ý chí, bản lĩnh, sự đồng
tâm nhất trí, tinh thần dân tộc - quốc gia,… của chúng ta còn quá nhiều bất cập và
điểm yếu. Cùng với chất lượng nguồn nhân lực và gắn liền với nó là các thiết chế xã
hội: hệ thống chính trị, hệ thống luật pháp, hệ thống quản lý kinh tế, quản lý xã hội,
bộ máy hành chính,… Chất lượng các thiết chế vĩ mô này do chất lượng nguồn nhân
lực quyết định. Nhưng một khi các thiết chế đó đã hình thành thì chúng lại quy định
chất lượng nguồn nhân lực và tốc độ phát triển của xã hội.
Chất lượng nguồn nhân lực và hệ thống các thiết chế xã hội cùng tương tác với nhau
tạo nên hàng loạt các sản phẩm rất quan trọng, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển. Đó là những sản phẩm, như các chính sách, chất lượng thực thi các chính sách,
mức độ sẵn sàng tiếp nhận các cải cách, các ý tưởng mới về phát triển, chất lượng
lựa chọn và đào thải những người có vị trí ở các bậc thang trong hệ thống các thiết

chế xã hội. Phải nói rằng, ở nước ta hiện nay tất cả những cái đó so với các nước
trong khu vực và thế giới đều đang ở mức quá thấp so với yêu cầu phát triển đột phá.
Một trong những sản phẩm hết sức quan trọng thể hiện chất lượng nguồn nhân lực và
chất lượng các thiết chế xã hội mà ở trên chúng tôi đã nhắc đến, đó là lý luận phát
triển hay tư duy phát triển.
Thực tiễn phát triển của các nước trên thế giới cũng như lịch sử nước ta, đặc biệt
trong thời kỳ đổi mới vừa qua, đều cho thấy rằng, trước mỗi bước phát triển xã hội,
dù lớn hay nhỏ, dài hay ngắn, dù ở bất kỳ thời đoạn lịch sử nào, dưới bất cứ chế độ
xã hội nào, đều xuất hiện tư duy phát triển mới. Sự nghiệp đổi mới của chúng ta


được bắt đầu bằng việc đổi mới tư duy. Thực chất của đổi mới tư duy chính là đổi
mới các quan niệm về phát triển đã từng tồn tại, nhưng đã bộc lộ những bất cập và
bất lực trước những đòi hỏi phát triển mới của đất nước; đồng thời, tạo lập cho xã hội
những tư tưởng mới về phát triển phù hợp hơn với tình hình mới, có thể đáp ứng
được những đòi hỏi mới của sự phát triển. Đổi mới tư duy lúc đó đã tạo ra được tư
duy phát triển mới với những quan niệm mới về sự phát triển của xã hội Việt Nam,
như kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội,… Tư
duy đó đã góp phần tạo nên những thành tựu lớn cho sự phát triển trong hơn 20 năm
qua.
Có thể nói, tư duy mới đã tạo đà cho đổi mới và hiện nay nó vẫn tiếp tục là cơ sở,
nền tảng cho sự phát triển đất nước trong những năm đầu thế kỷ XXI. Nhưng thực
tiễn đã chúng tỏ rằng, trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, hàng loạt vấn đề do
cuộc sống đặt ra không thể giải quyết được nếu tiếp tục dựa vào tư duy hiện có.
Chúng ta tiến hành cải cách hành chính chưa có hiệu quả, cải cách giáo dục đã được
thực hiện nhiều năm nhưng vẫn chưa nâng cao được chất lượng. Tương tự, trong hệ
thống y tế, hệ thống lương, hệ thống chính trị và các hệ thống khác cũng đều đang
tồn tại những bất cập mà dù đã rất cố gắng trong một thời gian dài, song chúng ta vẫn
chưa khắc phục một cách hiệu quả. Trước những đòi hỏi cấp thiết của sự phát triển,
tình hình dường như càng trở nên phức tạp hơn trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã

hội và cho thấy rõ thêm tình thế bức xúc: nếu không phát triển đột phá, đất nước ta
không thể thoát khỏi sự tụt hậu ngày càng xa. Nhưng không thể có phát triển đột phá,
nếu chúng ta không có triết lý, lý luận, hay tư duy phát triển mới.
Tư duy phát triển mới không thể chỉ bó hẹp hay chủ yếu mang nội dung kinh tế như
trước đây. Bối cảnh mới đòi hỏi tư duy mới ít nhất phải bao quát toàn bộ hệ thống
kinh tế, xã hội trong giai đoạn hiện nay, còn phải thể hiện được cả những thay đổi
của tình hình quốc tế. Những quan niệm mới, cách nhìn mới, lối tiếp cận mới,
phương pháp tư duy mới và trên cơ sở đó có cách giải quyết mới đối với các vấn đề
đang được đặt ra sẽ là nội dung của triết lý phát triển mới hay tư duy mới về phát
triển. Thậm chí, ở mức độ cao hơn, những tư tưởng mới về sự phát triển cũng sẽ
được bao chứa và là tiền đề nền tảng cho tư duy mới về phát triển. Những đòi hỏi của
thực tiễn đã xuất hiện và biểu hiện qua sự bất lực hoặc kém hiệu quả của tư duy cũ,


của các nguyên tắc cũ, cách nhìn cũ. Đây đó trong thực tiễn đã xuất hiện những ý
tưởng mới, cách nhìn, quan niệm mới và cách giải quyết mới về một số vấn đề của
thực tiễn. Nhưng, cho đến nay, một tư duy mới có thể giải quyết những vấn đề mà
đòi hỏi phát triển đột phá đang đặt ra thì lại chưa xuất hiện. Tuy nhiên, có thể hình
dung về đại thể những nét căn bản nhất mà tư duy đó phải có dựa trên yêu cầu phát
triển đột phá và những tiền đề nhất định đã xuất hiện hiện nay.
Từ trước đến nay, trong lý luận cơ bản chúng ta vẫn thường quan niệm rằng sự phát
triển của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có nguồn gốc từ sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại ngay trong lòng các sự vật và hiện tượng ấy.
Các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn với tính cách là nguồn gốc và động lực cho sự
phát triển. Quá trình tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng cũng đồng thời là quá
trình giải quyết những mâu thuẫn giữa các mặt đối lập. Việc giải quyết mâu thuẫn đó
dẫn đến kết cục hoặc là cả hai mặt đối lập đều bị tiêu diệt, làm xuất hiện hai mặt đối
lập mới thúc đẩy sự phát triển; hoặc là một trong hai mặt đối lập bị tiêu diệt, mặt đối
lập còn lại “chiến thắng” cùng với một mặt đối lập khác, mới hình thành, tạo nên
mâu thuẫn mới, tạo nên động lực mới cho sự phát triển. Cách quan niệm như vậy của

tư duy đã làm nghèo nàn bức tranh phát triển của thế giới nói chung, của đời sống xã
hội nói riêng.
Trong thực tiễn, cuộc đấu tranh của các mặt đối lập còn có thể dẫn đến khả năng thứ
ba, đó là nó làm cho tất cả các mặt đối lập cùng phát triển, làm xuất hiện những mặt
đối lập khác cùng tồn tại, góp phần tạo nên những động lực mới của sự phát triển.
Chính điều này mới có thể khiến cho sự vật, hiện tượng trong thế giới ngày càng đa
dạng, phong phú. Các khả năng phát triển trong thực tế trở thành đa hướng, nhiều
nhánh khiến con người không dễ dàng tiên liệu hết các khả năng vận động, phát triển
của thế giới các sự vật, hiện tượng. Khả năng thứ ba này trong việc giải quyết mâu
thuẫn tồn tại trong suốt quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, nghĩa
là tồn tại trong toàn bộ quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Thế
giới thực vật, động vật ngày càng đa dạng, đời sống xã hội ngày càng phong phú,
nhiều vẻ không thể giải thích được đầy đủ nếu chỉ quy một cách giản đơn sự vận
động và phát triển vào một trong hai khuynh hướng “thắng”, “thua” nói trên của các
mặt đối lập. Chính khả năng thứ ba mới là khả năng nổi trội, giữ vị trí chủ đạo trong


thế giới các sự vật, hiện tượng. Nếu không tính đến khả năng thứ ba này thì không
thể lý giải hết hàng loạt các hiện tượng của xã hội hiện đại hoặc của giới tự nhiên do
các ngành khoa học tự nhiên hiện đại phát hiện(3).
Thế giới đương đại cho thấy nó bao chứa trong mình rất nhiều động lực phát triển.
Sự phát triển xã hội không thể chỉ quy một cách giản đơn về sự đấu tranh của các
mặt đối lập, càng không thể chỉ quy giản đơn về sự thắng thua của hai mặt đối lập.
Động lực phát triển của xã hội rất phong phú và đa dạng. Tuỳ thuộc vào tương quan
trong ngoài, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển mà có những động lực nổi trội,
chi phối hoặc đóng vai trò quyết định sự vận động và phát triển của xã hội ở giai
đoạn này nhưng ở giai đoạn khác thì nó lại chìm xuống, giữ vai trò thứ yếu, phụ
thuộc. Không thể lý giải sự phát triển của xã hội Việt Nam hôm nay bằng lối tư duy
chỉ thấy đấu tranh hay thống nhất của các mặt đối lập, càng không thể lý giải đúng
động lực phát triển của xã hội Việt Nam chỉ là thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt

đối lập nào đó.(3)Thực tiễn cho thấy, giống như trong các hệ thống phức tạp khác
của thế giới, sự vận động và phát triển của xã hội đương đại do một hệ thống các
động lực khác nhau, trong đó mỗi động lực có vai trò khác nhau trong việc chi phối
sự phát triển của xã hội. Nếu không thấy hết các động lực ấy, mà chỉ nhìn thấy hai
mặt đối lập nào đó, như đấu tranh giai cấp, như cái cũ và cái mới,… thì sẽ làm nghèo
nàn bức tranh hiện thực về phát triển xã hội và do đó, sẽ không thể phát huy được
sức mạnh tổng hợp để tạo nên những bước phát triển mang tính đột phá cho đất
nước. Đúng là không thể bỏ qua mặt đấu tranh. Nhưng rõ ràng là phải chú ý hơn đến
mặt thống nhất và các mặt khác liên quan đến sự phát triển.
Trong hàng loạt các phương diện, các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội Việt
Nam đương đại, việc phát hiện động lực và tạo lập cơ chế phát huy động lực đang là
một đòi hỏi có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển. Trên phương diện lý luận
chung, tư duy mới về phát triển đòi hỏi phải tạo lập căn cứ đầy đủ cho việc huy động
và phát huy tối đa tiềm năng và sức mạnh tổng lực của quốc gia - dân tộc. Trong bối
cảnh hiện nay, tư duy mới về phát triển tất yếu phải tạo lập căn cứ cho việc phát huy
tinh thần dân tộc như một động lực xã hội thiết yếu và đặc biệt quan trọng cho sự
phát triển đột phá của Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XXI, bởi có như vậy mới có
thể huy động tối đa sức mạnh dân tộc cùng nỗ lực thoát khỏi nguy cơ tụt hậu ngày


càng xa so với các nước phát triển cao trên thế giới.
Khơi dậy được tinh thần dân tộc sẽ làm bùng lên khát vọng và nỗ lực vươn dậy của
cả một dân tộc đi lên từ chiến tranh và nghèo đói. Những bài học kinh nghiệm từ
Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc gần đây có ý nghĩa rất lớn và có thể áp dụng
thành công cho nước ta hiện nay. Tinh thần dân tộc là một trong những nội dung
chính yếu, mang tính nền tảng trong triết lý phát triển của các quốc gia nói trên, đã
giúp họ thành công trong công cuộc hiện đại hoá đất nước vào nửa cuối thế kỷ XX
vừa qua. Tinh thần dân tộc có thể tạo nên ý chí phát triển mạnh mẽ, làm nên những
kỳ tích lớn, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Trong lịch sử, tinh thần
dân tộc đã được Hồ Chí Minh khơi dậy và phát huy mạnh mẽ trong suốt một thời kỳ

lịch sử trong thế kỷ XX và làm nên những kỳ tích phi thường. Lịch sử dân tộc ta đã
chứng tỏ rằng mỗi khi tinh thần dân tộc được phát huy, ý chí quật khởi vùng lên
mạnh mẽ, thì sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội. Trong giai đoạn mới, tinh
thần dân tộc càng phải là động lực căn bản thì Việt Nam mới hy vọng có thể có được
những bước phát triển đột phá. Nếu ngược lại, tình trạng trì trệ, chậm phát triển, lạc
hậu và bị đẩy ra vùng ngoại biên của thế giới sẽ trở thành hiện thực; cơ hội phát triển
của đất nước sẽ bị bỏ qua. Có thể mạnh dạn mà nói rằng các thiết chế xã hội và việc
đổi mới tư duy trong 25 năm qua của chúng ta cho đến nay vẫn chưa động chạm
được đến đáy sâu của tinh thần dân tộc. ý chí, sức mạnh và bản lĩnh vươn lên để trở
thành giàu có, văn minh, sánh vai cùng các cường quốc năm châu ở dân tộc ta vẫn
đang rất mờ nhạt, vừa yếu, vừa thiếu, vừa chưa đủ điều kiện để phát huy.
Trong bối cảnh quốc tế có nhiều cơ hội cho sự phát triển của đất nước hiện nay, vấn
đề dân chủ hoá cũng phải là một nội dung trọng yếu của tư duy mới về phát triển.
Tính chất đa dạng, phong phú, muôn hình muôn vẻ trong khả năng phát triển của thế
giới chính là biểu hiện sống động của dân chủ trong hiện thực. Kinh nghiệm của các
quốc gia phát triển, những thành tựu của các khoa học hiện đại, như lý thuyết hệ
thống, khoa học tổ chức, khoa học điều khiển và quản lý, thông tin,… đều chứng tỏ
rằng dân chủ là một động lực vĩ đại của sự phát triển. Lịch sử phát triển của các quốc
gia phát triển cao và bài học của các xã hội đương đại cũng đều chứng tỏ không có
dân chủ hoá thật sự thì xã hội sẽ trì trệ, bảo thủ và kém phát triển. Không có dân chủ,
tinh thần dân tộc sẽ dần dần phai nhạt, sẽ bị tổn thương và đưa đến những hệ luỵ lâu

×