Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Triết lý nhân sinh trong văn hoá ứng xử của người dân nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

LÊ PHƯƠNG THANH

TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG VĂN HÓA ỨNG XỬ
CỦA NGƯỜI DÂN NAM BỘ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

LÊ PHƯƠNG THANH

TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG VĂN HÓA ỨNG XỬ
CỦA NGƯỜI DÂN NAM BỘ

Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM VĂN CHÍN



HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình làm việc, nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm Văn Chín. Kết quả nghiên cứu của
các tác giả đi trước được tiếp thu chân thực, cẩn trọng, tư liệu trích dẫn có
nguồn gốc cụ thể, rõ ràng.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Lê Phương Thanh


LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại
học An Giang, nhất là Khoa Triết học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã
tạo điều kiện thuận lợi trong việc học tập, nghiên cứu của tác giả suốt thời
gian tham gia chương trình đào tạo vừa qua;
Đặc biệt bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành, sâu sắc đến
PGS.TS Phạm Văn Chín đã hết lòng hướng dẫn, chỉ bảo tận tâm, hỗ trợ tận
tình giúp tác giả hoàn thành luận văn này;
Cuối cùng, cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, anh chị em học viên
Cao học Triết học K25 - An Giang đã luôn động viên, khích lệ trong suốt quá
trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Lê Phương Thanh



DANH MỤC CHỮ TỪ VIẾT TẮT

GS

: Giáo sư

NQ

: Nghị quyết

Nxb

: Nhà xuất bản

PGS

: Phó Giáo sư

TS

: Tiến sĩ

TW

: Trung ương

UNESCO : United Nations Educational Scientific and Cultural
Organization (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn

hóa Liên hiệp quốc)


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 5
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ....................................................... 5
5. Giả thuyết khoa học................................................................................ 5
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 5
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6
8. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 6
9. Luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn ................................. 6
10. Cấu trúc luận văn .................................................................................. 7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỰ HÌNH THÀNH TRIẾT LÝ
NHÂN SINH TRONG VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGƯỜI DÂN
NAM BỘ ........................................................................................... 8

1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm văn hóa và văn hóa ứng xử ............................................ 8
1.1.2. Khái niệm triết lý nhân sinh và nội dung cơ bản của triết lý
nhân sinh ....................................................................................... 16
1.2. Cơ sở thực tiễn - những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành
triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử của người dân Nam Bộ..... 23
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội ................................ 23

1.2.2. Lối sống của người dân Nam Bộ ................................................... 32
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 42


Chương 2: BIỂU HIỆN TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG VĂN HÓA ỨNG XỬ
CỦA NGƯỜI DÂN NAM BỘ ............................................................ 43

2.1. Triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng của người dân Nam Bộ với
tự nhiên .................................................................................................. 43
2.1.1. Triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử của người dân Nam
Bộ với tài nguyên thiên nhiên ..................................................... 43
2.1.2. Triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử của người dân Nam
Bộ với bảo vệ môi trường thiên nhiên ........................................ 51
2.2. Triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử của người dân Nam Bộ
với môi trường xã hội............................................................................ 59
2.2.1. Triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử của người dân Nam
Bộ giữa con người với con người ............................................... 59
2.2.2. Triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử của người dân Nam
Bộ giữa con người với cộng đồng xã hội ................................... 74
2.3. Những giá trị và hạn chế triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử
của người dân Nam Bộ ......................................................................... 86
2.3.1. Những giá trị ................................................................................. 86
2.3.2. Những hạn chế .............................................................................. 90
2.3.3. Những giải pháp nhằm phát huy giá trị tốt đẹp về triết lý nhân
sinh trong văn hóa ứng xử của người dân Nam Bộ giai đoạn
hiện nay ....................................................................................... 93
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 104
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 109



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Triết lý sống không chỉ phản ánh tư duy và lối sống, mà còn thể hiện tư
tưởng, tình cảm, niềm tin, truyền thống, tập quán và cả chiều sâu tâm lý của
cộng đồng người sống trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Vì vậy, nó ảnh
hưởng quan trọng đến hoạt động sống của con người, cũng như sự phát triển
kinh tế - xã hội, văn hóa của cả cộng đồng người.
Nam Bộ có lịch sử phát triển hơn 300 năm, là vùng đất mở, năng động,
nơi tụ cư, giao lưu của cư dân nhiều vùng miền, nhiều dân tộc và nhiều luồng
văn hóa khác nhau. Trong đó, cộng đồng người Việt đã trải qua quá trình khai
phá, mở mang bờ cõi và khẳng định chủ quyền dân tộc ở Nam Bộ; quá trình
tổ chức đời sống, hình thành xóm ấp; quá trình sản xuất, kinh doanh; quá trình
đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giữ gìn chủ quyền lãnh thổ và tham gia phát
triển đất nước. Chính trong thực tiễn xã hội đó đã hình thành nên triết lý sống
biểu hiện qua văn hóa ứng xử, phản ánh phong cách tư duy và lối sống trọng
nghĩa, phóng khoáng, tự do, táo bạo, năng động sáng tạo, dễ tiếp thu cái mới,
trọng thực tế và hiệu quả của cộng đồng người Việt ở Nam Bộ.
Trải qua 30 năm đổi mới và hội nhập, vùng đất Nam Bộ đã có nhiều
đổi thay và phát triển vượt bậc, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
không ngừng được cải thiện, nâng cao. Điều này có sự tác động nhất định từ
những ưu điểm tích cực trong triết lý sống của người dân Nam Bộ. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình phát triển của vùng đất Nam Bộ
bộc lộ những hạn chế, nghịch lý và cả tiêu cực. Đó là phát triển kinh tế chưa
thật sự gắn với phát triển văn hóa - xã hội và con người, chưa tương xứng với
tiềm năng và nguồn lực vốn có của vùng; tăng trưởng kinh tế chưa đi đôi với
thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, chưa gắn với bảo vệ môi trường và
nâng cao chất lượng sống của người dân; nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân



2
lực chất lượng cao thiếu về số lượng, thấp về chất lượng, chưa đáp ứng nhu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa;…
Tình trạng nói trên cũng có nguyên nhân từ triết lý sống, phản ánh
trong thực tế rằng tư duy và lối sống của một bộ phận người Việt ở Nam Bộ
có những điểm hạn chế, thậm chí có cả yếu tố tiêu cực như: tản mạn, cục bộ,
thiếu căn bản lý luận và tri thức khoa học, kinh nghiệm chủ nghĩa, lối sống
thực dụng, cá nhân,… Những hạn chế này là vật cản đối với yêu cầu đổi mới,
hội nhập phát triển của vùng đất Nam Bộ và cả nước.
Để phát huy những ưu điểm tích cực, khắc phục những hạn chế như đã
nói trên, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực phục vụ cho quá trình đổi mới và hội nhập ở Nam Bộ, cần thiết phải
nghiên cứu cộng đồng người Việt ở Nam Bộ về biểu hiện triết lý nhân sinh
trong văn hóa ứng xử, phản ánh tư duy và lối sống truyền thống, những giá trị
tích cực và hạn chế của nó trước yêu cầu đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay.
Đó cũng là lý do chúng tôi lựa chọn đề tài “Triết lý nhân sinh trong
văn hóa ứng xử của người dân Nam Bộ” làm luận văn thạc sĩ triết học.
2. Lịch sử nghiên cứu
Chủ đề “Triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử của người dân Nam
Bộ” chưa được nghiên cứu một cách trực tiếp, có hệ thống và toàn diện. Vấn
đề triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ mới được nhận diện, đề cập qua
một số bài viết của:
Đặng Trường Sơn, Nguyễn Thị Mỹ Hòa (2014), “Triết lý nhân sinh
trong đờn ca tài tử Nam Bộ”, Tạp chí khoa học Cần Thơ, (4), tr. 35-36. Trong
bài viết này, ngoài việc đề cập sơ lược nguồn gốc hình thành và phát triển của
đờn ca tài tử Nam Bộ, tác giả tập trung phân tích những triết lý nhân sinh tiêu
biểu qua việc khảo cứu lời của một số bài bản đờn ca tài tử, từ đó chỉ ra
những giá trị triết lý trong đời sống hiện thực của người dân Nam Bộ. Những



3
triết lý nhân sinh tiêu biểu mà tác giả đã nhận diện và đề cập trong bài viết là:
triết lý nhân sinh trong tình cảm bạn bè; triết lý nhân sinh thể hiện qua tình
cảm vợ chồng, tình yêu đôi lứa; triết lý nhân sinh trong tính cách của người
dân Nam Bộ; và triết lý nhân sinh trong tình yêu quê hương đất nước.
Lê Văn Tùng, Nguyễn Thị Kim Ngân (2014), “Triết lý nhân sinh của
cư dân Nam Bộ qua một số công trình khảo cứu của Sơn Nam”, Tạp chí Khoa
học Trường Đại học An Giang, (2), tr. 109-114. Trong bài viết này, tác giả
phân tích những tư tưởng của Sơn Nam về triết lý nhân sinh của cư dân Nam
Bộ được thể hiện trong một số công trình khảo cứu của ông. Bên cạnh việc
làm rõ những nét sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của Sơn Nam, tác giả đã
phác thảo một số nét cơ bản trong tính cách cư dân Nam Bộ như: thẳng thắn,
bộc trực, dám nghĩ dám làm, trọng nghĩa, thực tế, năng động, bao dung, hài
hòa và tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm. Đồng thời đưa ra quan điểm
về sự chi phối của điều kiện tự nhiên - xã hội đặc thù đối với đời sống và tập
quán của cư dân Nam Bộ, cũng như nêu lên giá trị nhân sinh tích cực của cư
dân Nam Bộ cần được giữ gìn và phát huy trong giai đoạn hiện nay.
Võ Văn Thắng, Nguyễn Khánh Hoàng (2016), “Triết lý nhân sinh của
người dân Nam Bộ”, Triết lý nhân sinh trong văn hóa Việt Nam, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, tr. 356-364. Trong bài viết này, tác giả đã đi vào phân tích
nội dung triết lý nhân sinh của cư dân Nam Bộ một cách tương đối có hệ
thống. Cụ thể, tác giả trình bày khái quát cơ sở hình thành triết lý nhân sinh
của cư dân Nam Bộ; tập trung phân tích, làm rõ ba đặc trưng cơ bản triết lý
nhân sinh của cư dân Nam Bộ, gồm: quan điểm sống hòa hợp, bình dị với tự
nhiên; quan điểm sống chan hòa, hào phóng, trọng nghĩa và yêu quê hương,
đất nước; tính mở trong triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ. Đồng thời
rút ra kết luận về giá trị cốt lõi trong triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ
là tính mở, sống hòa hợp với tự nhiên và quan niệm đối nhân xử thế.



4

Trên thực tế, có không nhiều những tài liệu nghiên cứu trực tiếp về triết
lý nhân sinh của người dân Nam Bộ một cách hệ thống và tương đối hoàn
chỉnh. Những tài liệu trên đây bước đầu nhận diện những đặc trưng cơ bản về
triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ, phản ánh tư duy và lối sống mang
nét văn hóa đặc thù thể hiện trên một số lĩnh vực của đời sống. Tuy nhiên, các
nghiên cứu này chưa có tính nhất quán cao, do đó cũng chưa có hệ thống giải
pháp đồng bộ để phát huy, phát triển các mặt ưu điểm trong triết lý nhân sinh
của người dân Nam Bộ, nhất là ảnh hưởng của nó đối với vấn đề đào tạo
nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Từ những kết quả nghiên cứu bước đầu nêu trên, chúng tôi kế thừa và
tiếp thu có chọn lọc để tiếp cận nghiên cứu về “Triết lý nhân sinh trong văn
hóa ứng xử của người dân Nam Bộ”.
Thực ra, đề cập về triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ, ngoài các
bài nghiên cứu đã nêu ở trên, chúng tôi còn tìm thấy bài viết của Lê Quang
Hiền (2014), “Vài suy nghĩ về triết lý sống của người dân Nam Bộ”, Tập san
Nghiên cứu văn hóa Đồng Nai và Cửu Long, (9). Trong đó, người viết đưa ra
một số nét đặc thù của con người Nam Bộ gồm: vì lợi ích con người; thực
tiễn, thực dụng; coi trọng tương quan; năng động, sáng tạo; đoàn kết, đùm bọc
nhau; dung hợp, hài hòa; yêu nước. Để minh chứng cho tư duy, cách ứng xử
mang nét đặc thù của người Nam Bộ, người viết đã lấy trường hợp của
Nguyễn Đình Chiểu, Petrus Trương Vĩnh Ký, Phan Thanh Giản làm tiêu biểu.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, giá trị học thuật của bài viết này không cao và
chúng tôi cũng bác bỏ hoàn toàn những quan điểm cá nhân mà người viết đưa
ra. Bởi vì, những quan điểm cá nhân của tác giả bày viết này mang yếu tố
xuyên tạc hiện thực một cách có chủ ý. Do đó, chúng tôi xác định loại bỏ bài
viết này ngay từ đầu, đồng thời cảnh báo những ai tiếp cận với bài viết này,
dù với mục đích gì, cần hết sức tỉnh táo.



5
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ biểu hiện triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử
giúp hiểu rõ hơn đặc điểm tư duy và lối sống của người dân Nam Bộ, phần
nào giải thích các vấn đề khúc mắc nảy sinh trong các mặt đời sống văn hóa xã hội hiện tại, góp phần bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc trong quá trình
hội nhập ở khu vực Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Văn hóa ứng xử của người dân Nam Bộ.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử của người dân Nam Bộ.
5. Giả thuyết khoa học
Hiểu đặc điểm tư duy và lối sống của người dân Nam Bộ được phản
ánh qua triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử, xác định được những mặt ưu
điểm để tiếp tục phát huy, những hạn chế để khắc phục sẽ góp phần quan
trọng vào sự nghiệp xây dựng con người và phát triển nguồn nhân lực phục
vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển ở vùng
đất Nam Bộ hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn sự hình thành triết lý nhân sinh
trong văn hóa ứng xử của người dân Nam Bộ;
Trình bày và phân tích các biểu hiện triết lý nhân sinh trong văn hóa
ứng xử của người dân Nam Bộ;
Đánh giá những giá trị, hạn chế và đưa ra các giải pháp khuyến nghị để
phát huy giá trị tích cực về triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử của người
dân Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay.



6

7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong vùng văn hóa Nam Bộ
giai đoạn hiện nay; với chủ thể chính được đề cập là tộc người Việt.
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử; phương pháp phân tích và tổng hợp, khái quát hóa, đối chiếu, so sánh…
kết hợp sử dụng thêm tư liệu lịch sử, văn hóa học, văn học (thơ, truyện ngắn,
ca dao,…) để làm rõ các luận giải đề cập trong nội dung nghiên cứu.
9. Luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
9.1. Các luận điểm chính của luận văn
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội đặc thù có ảnh hưởng quan
trọng đến sự hình thành triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử của người dân
Nam Bộ.
Triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử của người dân Nam Bộ với
môi trường tự nhiên, tính chất hòa hợp và thích nghi có phần nổi trội hơn so
với tính chất chế ngự và thống trị.
Triết lý nhân sinh trong văn hóa ứng xử giữa người với người của
người dân Nam Bộ thể hiện đậm nét tinh thần trọng nghĩa, chân thành, giản
dị, thực tế và phóng khoáng.
Trong quan hệ ứng xử với cộng đồng xã hội của người dân Nam Bộ nổi
bật lên triết lý sống dung hòa và tinh thần yêu nước sâu sắc.
Với giá trị nhân bản đậm nét, những ưu điểm triết lý nhân sinh trong
văn hóa ứng xử của người dân Nam Bộ cần thiết được phát huy trong giai
đoạn hiện nay nhằm xây dựng và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cho
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
9.2. Đóng góp mới của luận văn
9.2.1. Về mặt lý luận
Cung cấp căn cứ lý luận, góp phần nâng cao nhận thức về lịch sử hình

thành và phát triển của cộng đồng người Việt ở Nam Bộ, từ đó có cái nhìn


7
tổng quát, toàn diện hơn về vùng đất Nam Bộ trên các lĩnh vực: lịch sử, tự
nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là triết lý nhân sinh phản ánh tư duy
và lối sống của người dân Nam Bộ.
9.2.2. Về mặt thực tiễn
Góp phần cung cấp cơ sở thực tiễn cho việc hoạch định các chính sách
phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa trên vùng đất Nam Bộ. Đặc biệt là góp phần
cung cấp cơ sở khoa học về đặc điểm tư duy, lối sống, tâm lý, tính cách con
người Nam Bộ cho việc đổi mới nhận thức, nội dung và phương pháp đào tạo
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỰ HÌNH THÀNH
TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG VĂN HÓA ỨNG XỬ
CỦA NGƯỜI DÂN NAM BỘ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm văn hóa và văn hóa ứng xử
1.1.1.1. Văn hóa
Văn hóa vốn có nguồn gốc từ ý thức. Ý thức là sản phẩm gắn liền với
hoạt động não bộ của con người, có chức năng cơ bản vừa phản ánh thế giới
chung quanh, vừa là nhân tố sáng tạo ra toàn bộ những gì làm cho đời sống
con người và xã hội loài người ngày càng trở nên hoàn thiện và tốt đẹp hơn.

Trong đó, có điều kiện sống, có những thế ứng xử phù hợp. Thông qua những
phương thức hoạt động khác nhau của ý thức, bao gồm lý trí, tình cảm, tâm
linh mà khoa học, kĩ thuật, công nghệ, nghệ thuật, tín ngưỡng, tôn giáo, đạo
đức, lối sống… ngày càng phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, văn hóa
được hình thành và phát triển.
Văn hóa là sản phẩm của ý thức, xuất hiện và phát triển cùng với sự hình
thành và phát triển của xã hội loài người, làm cho con người trở thành người
và ngày càng người hơn. Do đó, văn hóa trở thành một hiện tượng phổ biến
gắn liền với mọi mặt của đời sống, tạo nên sự phát triển toàn diện trong bản
thân từng con người, bao gồm: thể lực, trí lực, tâm lực, mọi mối quan hệ với
gia đình, xã hội, tự nhiên, ước mơ, lý tưởng, niềm tin…
Như vậy, khẳng định ý thức là nguồn gốc của sự hình thành, phát triển
văn hóa, là nguồn gốc cơ bản của sự hình thành, phát triển yếu tố người
trong con người thì cũng có nghĩa là, nơi nào và lúc nào đang tồn tại sự vô
ý thức thì có thể sẽ dẫn đến tình trạng mất văn hóa. Rõ ràng, ở đâu có sự


9
tác động có ý thức của con người thì ở đó có văn hóa. Vì vậy, quanh chúng
ta đâu đâu cũng có thể thấy sự tồn tại của văn hóa. Tuy nhiên, văn hóa
không phải bản thân sự vật, hiện tượng cụ thể, mà là cái nằm bên trong sự
vật, hiện tượng mang tính trừu tượng. Do đó, muốn nói rõ cái nằm bên
trong mang tính trừu tượng như vậy là không đơn giản. Thực tế, văn hóa là
một khái niệm rộng, được xem xét dưới nhiều góc độ, rất khó để định nghĩa
một cách nhất nghĩa.
Có vô số cách định nghĩa khác nhau về văn hóa, với nhiều cách lý giải
khác nhau. Mỗi định nghĩa được hình thành trên cơ sở xem xét văn hóa thuộc
một lĩnh vực cụ thể nhất định, mỗi định nghĩa vạch ra các phương diện riêng
biệt của hiện tượng đa chiều đa khía cạnh này.
Nguyễn Nghĩa Trọng, khi phân tích khái niệm văn hóa đã dẫn lại định

nghĩa đã được nêu trong Từ điển Triết học, Nxb Chính trị, Matxcơva, 1972,
như sau: “Văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần, được nhân loại
sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội; các giá trị ấy
nói lên trình độ phát triển của lịch sử loài ngoài” [91, tr.8]. Đồng thời trích
dẫn thêm quan điểm của Fedefico Maygor Zaragoza, nguyên Tổng giám đốc
UNESCO: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá
khứ và trong hiện tại - Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành
nên một hệ thống giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác
định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [91, tr.8].
Phạm Xuân Nam, trong công trình nghiên cứu Sự đa dạng văn hóa và
đối thoại giữa các nền văn hóa - Một góc nhìn từ Việt Nam có nêu lại định
nghĩa văn hóa trong Tuyên bố chung được thông qua tại Hội nghị thế giới về
chính sách văn hóa của UNESCO vào tháng 8-1982: “Theo nghĩa rộng nhất
của nó, ngày nay văn hóa có thể được xem là toàn bộ phức thể những nét nổi
bật về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay


10
một nhóm xã hội. Nó không chỉ gồm nghệ thuật, văn học mà còn cả lối sống,
các quyền cơ bản của con người, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín
ngưỡng” [48, tr.20].
Đào Duy Anh cho rằng: “Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất
cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: Văn
hóa tức là sinh hoạt” [1, tr.13].
Phan Ngọc đưa ra quan điểm: “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới
biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít
nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn
tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là
văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng
của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của các cá nhân hay các

tộc người khác” [60, tr.17].
Trần Ngọc Thêm cho biết: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và
xã hội của mình” [77, tr.27].
Giáo sư Trần Quốc Vượng, trong công trình Cơ sở văn hóa Việt Nam đã
nhắc lại quan điểm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng về văn hóa như sau:
“Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao
gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người
trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử…
cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và cao đẹp nhất
của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm
chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý
thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức
chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [99, tr.21-22].


11
Có thể thấy, tùy vào quan điểm và góc độ tiếp cận mà mỗi định nghĩa
nhấn mạnh một khía cạnh nào đó của văn hóa. Song, các định nghĩa đều cho
thấy bản chất của văn hóa chính là làm cho hành vi, cuộc sống của con người
đẹp hơn lên. Và với ý nghĩa đó, có thể nói văn hóa, hiểu một cách bao quát
chính là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích
lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, qua mối quan hệ giữa con người với
con người, con người với môi trường tự nhiên và xã hội bằng ý thức và sự tự
giác cao nhất của mình.
Từ những phân tích trên đây, chúng tôi chọn cách hiểu về văn hóa theo
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt

hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp ở mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [45, tr.431]. Quan điểm này
có phần cụ thể hơn, cho thấy nét nổi bật một trong những đặc trưng quan
trọng nhất của văn hóa là tính nhân sinh. Hơn nữa, quan niệm này cũng khá
gần gũi với cách hiểu về văn hóa trong đời thường. Theo đó, văn hóa được
hiểu đơn giản là cách chúng ta sống, sinh hoạt, ứng xử nói chung. Và vì thế,
sử dụng quan điểm này sẽ thuận tiện trong việc nghiên cứu của luận văn.
Bản thân văn hóa là một vấn đề phức tạp, vừa có tính bảo thủ, lại vừa
liên tục thay đổi. Sự chọn lựa khái niệm văn hóa như trên là cơ sở để chúng
tôi nghiên cứu và phân tích những vấn đề tiếp theo của luận văn.
1.1.1.2. Văn hóa ứng xử
Ứng xử là từ ghép của hai từ ứng và xử. Ứng là sự phản ứng, ứng phó,
đáp ứng, ứng biến. Xử là xử sự, đối xử, xử thế, xử lý. Như vậy, ứng xử trong


12
các mối quan hệ của con người với tự nhiên, xã hội, với người khác và với
chính bản thân mình là phản ứng của người đó trước mọi tác động trong tình
huống cụ thể. Thế nên ông cha ta mới có câu đối nhân xử thế. Trong truyền
thống văn hóa Việt, ông cha ta rất chú ý đến vấn đề giao tiếp ứng xử. Những
lời dạy được truyền khẩu từ thế hệ này sang thế hệ khác như: lời nói chẳng
mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau; học ăn, học nói, học gói, học
mở; ăn coi nồi, ngồi coi hướng;… cho thấy nét đẹp trong ứng xử luôn được
ông cha ta coi trọng giữ gìn.
Văn hóa ứng xử theo quan niệm của Triệu Thùy Dương là “hệ thống
tinh tuyển những nếp ứng xử, khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực ứng xử, trong
mối quan hệ ứng xử giữa con người và các đối tượng khác nhau, thể hiện qua
ngôn ngữ, hành vi, nếp sống, tâm sinh lý… trong quá trình phát triển và hoàn

thiện đời sống, đã được tiêu chuẩn hóa, xã hội hóa, trở thành chuẩn mực của
cá nhân, nhóm xã hội, toàn xã hội; phù hợp với đời sống xã hội, với đặc
trưng, bản sắc của văn hóa một dân tộc, một quốc gia… được cá nhân, nhóm
xã hội, cộng đồng, toàn xã hội, thừa nhận và làm theo” [24, tr.34].
Ta thấy, ứng xử văn hóa của cá nhân phụ thuộc vào sự hiểu biết, kinh
nghiệm và yếu tố văn hóa của xã hội mà cá nhân đó đang sống. Đó là tập hợp
thái độ, hành vi, lời nói thích hợp trong quan hệ giao tiếp giữa người với
người, giữa người với thiên nhiên; là phản ứng của con người trước sự tác
động của người khác hay môi trường tự nhiên trong tình huống cụ thể; là biểu
hiện bản chất nhân cách của mỗi cá nhân thông qua ngôn từ, cử chỉ, thái độ,
hành vi trước sự tác động của các yếu tố bên ngoài. Thế ứng xử của con người
không diễn ra một cách tùy tiện, ngẫu hứng ở mỗi cá nhân mà được lặp lại
thường xuyên bởi nhiều người trong cả không gian lẫn thời gian, tạo thành
những khuôn mẫu nhất định, thường gọi là khuôn mẫu ứng xử.
Khuôn mẫu ứng xử là sự thống nhất về hành động và cảm nghĩ được


13
thực hiện ở đa số người, là thế ứng xử được tổng quát hóa, tiêu chuẩn hóa,
hợp thức hóa làm chuẩn mực phân biệt hành vi (ứng xử) chấp nhận được và
hành vi không chấp nhận được trong cộng đồng. Như vậy, ứng xử theo khuôn
mẫu có thể xem là ứng xử có văn hóa. Vì, khuôn mẫu ứng xử là sự khách thể
hóa những kiến thức, tư tưởng, tình cảm đã được đạt, mong muốn đạt được và
đã được tiêu chuẩn hóa, hợp thức hóa trong một nền văn hóa nhất định. Nói
cách khác, khuôn mẫu ứng xử là yếu tố then chốt để làm căn cứ cho sự xếp
loại, đánh giá cách ứng xử, và là những tiêu chuẩn trong các mối quan hệ để
đảm bảo sự hiện tồn và phát triển của xã hội. Vì thực tế, trong đời sống hằng
ngày, trên cơ sở các quan hệ vật chất, các cá nhân và các nhóm xã hội phải
ứng xử với nhau và ứng xử với tự nhiên theo những quy tắc nào đó để tồn tại
và phát triển. Và trong vô số thế ứng xử đó, con người sẽ tổng quát hóa, tuyển

chọn, điều chỉnh, bổ sung thành những khuôn mẫu, tức tiêu chuẩn hóa thế ứng
xử phù hợp để trở thành mô hình chung cho toàn xã hội.
Như vậy, thế ứng xử của con người chứa đựng và phản ánh trí tuệ, tư
duy và lối sống, yếu tố nhân văn được kết tinh trong đó. Nó không phải là sự
phản xạ tâm sinh lý đơn thuần mà nó có tính xã hội, vì thông qua ứng xử, bản
chất văn hóa được bộc lộ. Hay nói cách khác, tính chất và ý nghĩa văn hóa xã hội trong hành vi ứng xử của con người được hình thành khi văn minh phát
triển ở một cấp độ nào đó nhằm diễn đạt cách ứng xử của con người đối với
môi trường tự nhiên, xã hội và đối với chính mình.
Từ các phân tích nói trên có thể thấy văn hóa ứng xử là một bộ phận cấu
thành của văn hóa, là một thành tố của văn hóa tinh thần, thể hiện khía cạnh
trí tuệ, triết lý sống và yếu tố nhân văn, phản ánh đời sống tình cảm của cá
nhân và cộng đồng trong hoạt động thực tiễn. Đó là hệ thống các hành vi
nhằm thực hiện những khuôn mẫu kết tinh những giá trị và chuẩn mực mà cá
nhân và cộng đồng hướng tới; là phương diện thể hiện nhân cách và bản chất


14
con người trong hoạt động thực tiễn, gắn liền với trình độ văn hóa được tích
lũy và kinh nghiệm xử lý các tình huống xảy ra trong thực tiễn xã hội.
Như vậy, văn hóa ứng xử theo cách hiểu của chúng tôi là tập hợp các nét
đẹp được thừa nhận về thái độ, hành vi ứng xử mang tính khuôn mẫu, thể hiện
triết lý sống, lối suy nghĩ và hành động của cá nhân, cộng đồng người trong
việc giải quyết các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với
tự nhiên và xã hội được tiêu chuẩn hóa trở thành chuẩn mực phù hợp với đời
sống, với đặc trưng của một cộng đồng xã hội. Hay nói ngắn gọn, văn hóa
ứng xử là sự hiểu biết để từng bước làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm
chủ bản thân. Trong đó, hiểu biết để làm người, hiểu biết xử sự và xử thế là
biểu hiện đẹp nhất của văn hóa ứng xử.
1.1.1.3. Đặc điểm của văn hóa ứng xử
Từ cách hiểu về văn hóa ứng xử như trên, chúng ta có thể thấy văn hóa

ứng xử có những đặc điểm sau:
- Tính giá trị: văn hóa ứng xử miêu tả những hành vi được chấp nhận hay
không được chấp nhận trong xã hội. Tính giá trị để phân biệt giữa giá trị với
phi giá trị, là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.
- Tính cộng đồng xã hội: văn hóa ứng xử không thể tồn tại do chính bản
thân nó mà phải dựa vào sự tạo dựng, tác động qua lại, củng cố và vun đắp
của mọi thành viên trong xã hội. Tính xã hội quy định sự phổ quát chung các
khuôn mẫu ứng xử mang tính chuẩn mực, được cộng đồng xã hội thừa nhận
và tôn trọng, cung cấp mọi phương diện cần thiết để mỗi cá nhân ứng xử với
môi trường tự nhiên và xã hội.
- Tính nhân sinh: tính nhân sinh cho phép phân biệt ứng xử như một hiện
tượng xã hội với các giá trị tự nhiên. Do có tính nhân sinh, văn hóa ứng xử trở
thành sợi dây nối liền con người với con người, liên kết các thành viên trong
cộng đồng xã hội lại với nhau.


15
- Tính địa phương (vùng, miền): văn hóa ứng xử phản ánh nếp suy nghĩ
và cảm nhận của cộng đồng cư dân mỗi vùng, miền mà người thuộc vùng,
miền khác không dễ gì thấu hiểu hết được. Nhưng tính địa phương không trái
với tính dân tộc. Dân tộc là một cộng đồng, cố kết với nhau ở giai đoạn dân
tộc (quốc gia) được hình thành. Những sắc thái địa phương có nét riêng và nét
chung đều hợp lại với nhau và nâng lên thành sắc thái dân tộc, bảo lưu cái
riêng mà tôn thêm cái chung.
- Tính lịch sử: do văn hóa ứng xử là sản phẩm của một quá trình và được
tích lũy qua nhiều thế hệ cho nên nó mang tính lịch sử cao và tương đối bền
vững. Tính lịch sử tạo cho văn hóa ứng xử có bề dày và chiều sâu. Chính vì
vậy, những quan niệm trong văn hóa ứng xử không dễ gì phá bỏ được trong
một sớm một chiều dù cho bối cảnh xã hội có đổi thay.
- Tính kế thừa và tiến hóa: văn hóa ứng xử là sản phẩm của một quá

trình, được tích lũy qua nhiều thế hệ, mỗi một thế hệ đều kế thừa lại di sản
của thế hệ trước, bổ sung thêm cái mới của thế hệ mình để tiếp tục truyền lại
cho thế hệ tiếp theo. Theo thời gian, những cái mới được bổ sung, những cái
cũ có thể bị điều chỉnh, loại trừ và tạo nên phong cách ứng xử mang tính
quảng đại, phù hợp với tình hình mới và trình độ mới.
- Tính chủ quan: đặc điểm này thể hiện ở chỗ, ở cùng một sự việc, hiện
tượng, cư dân ở mỗi vùng văn hóa khác nhau có cách suy nghĩ và đánh giá
khác nhau. Có sự việc, hiện tượng được chấp nhận ở nơi này nhưng không
được chấp nhận ở xứ khác.
- Tính khách quan: văn hóa ứng xử phản ánh nếp suy nghĩ và cảm nhận
chủ quan của từng cộng đồng, mỗi dân tộc nhưng lại có cả một quá trình hình
thành mang tính lịch sử - xã hội không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
con người. Ngay khi con người biết sống thành bầy đàn, tuân theo một kỷ luật
nhất định là đã hình thành một tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu)


16
chi phối cách ứng xử và sự giao tiếp trong một cộng đồng, khiến cộng đồng
ấy có đặc thù riêng. Chính vì vậy, các chuẩn mực văn hóa ứng xử tồn tại
khách quan ngay cả với những thành viên trong một cộng đồng, chỉ có thể
học hỏi, chấp nhận chứ không thể biến đổi chúng theo ý muốn chủ quan.
- Tính cụ thể: lịch sử không bao giờ lập lại y như nó đã từng diễn ra. Vì
vậy, mỗi cách ứng xử chỉ áp dụng cho từng hoàn cảnh, tình huống cụ thể nhất
định, không có thế ứng xử nào gọi là vạn năng. Do đó, con người ngoài vốn
văn hóa có được từ nơi mình sinh ra và lớn lên, còn có thể và phải học hỏi,
tiếp thu thêm vốn văn hóa mới từ nơi khác để thích ứng, hợp tác, tồn tại và
phát triển.
1.1.2. Khái niệm triết lý nhân sinh và nội dung cơ bản của triết lý
nhân sinh
1.1.2.1. Triết lý

Trong Hán Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh, triết lý được hiểu là
“Đạo lý về triết học” [3, tr.863]. Trong Từ điển tiếng Việt của Việt Ngôn ngữ
học, triết lý được hiểu theo hai nghĩa: một là “Lí luận triết học”; hai là “Quan
niệm chung của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội” [94, tr.1069].
Đề cập về triết lý trong bài nghiên cứu “Triết lý nhân sinh của Nguyễn
Bỉnh Khiêm trong tác phẩm Bạch vân quốc ngữ thi tập”, PGS.TS Nguyễn Thị
Thọ nêu lại định nghĩa triết lý của GS Hoàng Trinh như sau: “Triết lý là những
nguyên lý đầu tiên, những tư tưởng cơ bản được dùng làm nền tảng cho sự tìm
tòi và suy lý của con người về cội nguồn, bản chất và các hình thái tự nhiên, xã
hội và bản thân, làm phương châm cho sự xử thế và xử sự của con người trong
các hành động sống hàng ngày… có những dân tộc đã có những triết lý từ lâu
mặc dầu chưa có triết học với hệ thống khái niệm của nó” [84, tr.13]. Đồng
thời, PGS.TS Nguyễn Thị Thọ cho rằng: “Hầu như, tất cả mọi quốc gia, dân
tộc trong tiến trình lịch sử lâu dài của mình thường bao giờ cũng có ít hoặc


17
nhiều những bộ óc thông thái thuộc các lĩnh vực khác nhau đó là nhà văn, nhà
thơ, nhà sử học, nhà hoạt động chính trị xã hội,… và cả những trí thức bình
dân thông tuệ. Ở những giai đoạn phát triển của lịch sử, triết lý là sự suy
ngẫm, đúc kết, tổng kết những điều cơ bản nhất về các mối quan hệ trong đời
sống thực tế, mọi mặt của cộng đồng, sự chiêm nghiệm rút ra những quy luật
khách quan của tự nhiên, phục vụ cho thực tiễn của đời sống” [84, tr.14].
Dân tộc Việt Nam có triết lý, và có cả triết lý bình dân. Nền triết lý bình
dân ấy không khác về nội dung so với triết bác học của những nhà tư tưởng có
bộ óc thông thái, mà chỉ khác về trình độ và ngôn ngữ (nói đúng hơn là
phương thức diễn đạt). Vì sao nói như vậy? Vì triết lý bình dân của dân tộc
Việt Nam tìm cái phi thường trong những cái rất bình thường. Chỉ bằng chiếc
bánh chưng bánh giày rất bình thường và quen thuộc mà người Việt Nam có
thể diễn đạt được cả đạo trời, đạo đất, đạo người. Đó chính là khả năng diễn

đạt cái phi thường bằng những cái rất bình thường mà không cần dùng đến từ
ngữ lý luận bác học. Đó là giá trị ẩn sâu rất khó để nhận ra nếu chỉ lướt qua,
vì nó là triết lý của sự chiêm nghiệm, thấu hiểu và nhập thế một cách sâu sắc.
Cũng giống như học triết là việc ai cũng có thể làm được nhưng để diễn đạt
kiến thức triết học bằng lời lẽ giản dị, đơn sơ hoặc bằng những hình tượng
gần gũi thì rất ít người làm được.
Triết lý là hình thức biểu hiện cho sự tư duy có ý thức của con người về
các khía cạnh của đời sống xã hội, về các quy luật thường hằng trong mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội. Triết lý được rút ra từ quá trình
tư duy có ý thức đó phản ánh cái bản chất, chân lý và những giá trị cốt lõi
trong các mối quan hệ mà con người bắt gặp hàng ngày. Đó là những tri thức,
quan điểm, tình cảm của con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt
động thực tiễn. Nó là một hình thái ý thức xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì ý thức xã hội nảy sinh


18

từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội, mà triết lý là một hình thái ý thức
xã hội, vậy triết lý được nảy sinh từ tồn tại xã hội và là sự phản ánh tồn tại xã
hội của con người. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng khẳng định
tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, đồng thời thừa nhận ý thức xã hội có
tác động trở lại tồn tại xã hội, có nghĩa là thừa nhận tác dụng tích cực của ý
thức xã hội trong đời sống xã hội. Như vậy, triết lý với vai trò là một hình thái
ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và có tác động trở lại tồn tại xã hội. Tác
dụng tích cực của triết lý trong đời sống xã hội là định hướng cho con người
về lối sống, cách sống, cách ứng xử, lối suy nghĩ và hành động để giải quyết
một cách đúng đắn các mối quan hệ của hoạt động thực tiễn trong những hoàn
cảnh nhất định.
Đối với người Việt Nam, triết lý cũng có nghĩa là đạo lý. Người Việt

thường bảo nhau cái “đạo lý ở đời” là phải như thế này như thế kia, đạo làm
cha, đạo làm con, đạo vợ chồng,… và phải sống sao cho phải đạo. Những đạo
lý để khuyên răn, dẫn lối cho con người trong cuộc sống chính là triết lý được
đúc kết từ quá trình suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhiều thế hệ. Những đạo lý
ấy thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến trong cộng đồng xã hội,
được chứng minh tính đúng đắn bằng chính thực tiễn đời sống xã hội nên
được chấp nhận một cách tự nhiên của đại đa số.
Đến đây chúng ta có thể tạm kết luận rằng, triết lý là những quan niệm
cơ bản, cốt lõi nhất về cuộc sống được đúc kết từ sự tư duy, suy ngẫm, chiêm
nghiệm trong hoạt động thực tiễn đa dạng của con người trong xã hội, thể
hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm của một cộng đồng, khẳng định những
chân giá trị và có tác dụng định hướng cho cách ứng xử, phương châm sống,
suy nghĩ và hành động của con người trong đời sống xã hội.
1.1.2.2. Triết lý nhân sinh
Trong Hán Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh, nhân sinh là “Đời


×