Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Công tác xã hội nhóm đối với trẻ mồ côi từ thực tiễn Làng trẻ em SOS thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUANG HƯNG

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI
TỪ THỰC TIỄN LÀNG TRẺ EM SOS THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Trung Hải

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành luận văn “Công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi từ thực tiễn
Làng trẻ em SOS Hà Nội“ là một quá trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc của bản
thân. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân dưới sự hướng dẫn
khoa học của TS. Nguyễn Trung Hải.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trung thực và không trùng lặp với các công
trình nghiên cứu đã được công bố trước đó.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng

năm 2017



Tác giả luận văn

Nguyễn Quang Hưng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI

TRẺ EM MỒ CÔI. ................................................................................................... 10
1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu..................................................................10
1.2. Các khái niệm công cụ.........................................................................................13
1.3. Các vấn đề chung của công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi..........................19
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động CTXH nhóm với trẻ em mồ côi................31
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI

VỚI TRẺ EM MỒ CÔI TẠI LÀNG TRẺ EM SOS HÀ NỘI..........................37
2.1. Mô tả địa bàn nghiên cứu và khách thể nghiên cứu ............................................ .37
2.2. Hoạt động công tác xã hội tại Làng trẻ em SOS Hà Nội ..................................... 41
2.3. Đánh giá thực trạng và nhu cầu của nhóm trẻ em mồ côi tại Làng trẻ em SOS Hà
Nội. .............................................................................................................................. 46
Chương 3. VẬN DỤNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG VIỆC NÂNG

CAO NĂNG LỰC HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CHO TRẺ EM MỒ CÔI TỪ
THỰC TIỄN LÀNG TRẺ EM SOS THÀNH PHỐ HÀ NỘI...........................54
3.1. Hồ sơ nhóm thân chủ .......................................................................................... ..54
3.2. Vận dụng tiến trình công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi tại Làng trẻ em SOS
Thành phố Hà Nội ....................................................................................................... 55
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động CTXH nhóm đối với trẻ em mồ côi

tại Làng trẻ em SOS Thành phố Hà Nội .................................................................... .74

KẾT LUẬN............................................................................................................... .76
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................ 77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTXH

Bảo trợ xã hội

CBNV

Cán bộ nhân viên

CTXH

Công tác xã hội

LĐTBXH

Lao động thương binh xã hội

NXB

Nhà xuất bản

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội


NVXH

Nhân viên xã hội

TECHCĐB

Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt

TEMC

Trẻ em mồ côi

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ và chăm sóc trẻ em mồ côi luôn cần sự quan tâm, góp sức của toàn thể
xã hội. Từ đó rất nhiều mô hình, đề án và chương trình hành động nhằm giúp đỡ
nhóm TECHCĐB và trẻ em mồ côi được ra đời. Đó là các trung tâm bảo trợ xã hội,
các mái ấm tình thương, các Làng trẻ em SOS trên toàn quốc...Trong các mô hình
đó, mô hình chăm sóc gia đình thay thế của tổ chức Làng trẻ em SOS là một mô
hình lí tưởng hoạt động dựa trên bốn nguyên tắc sư phạm là bà mẹ, anh chị em, gia
đình và cộng đồng Làng. Mô hình này thể hiện ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc
giúp trẻ mồ côi tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản nhằm giảm bớt những nỗi đau mà
các em gặp phải.
Làng trẻ em SOS Hà Nội là một trong những địa chỉ đã từng giúp đỡ nhiều

mảnh đời bất hạnh song trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục vẫn còn
gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt công tác hỗ trợ, tham vấn tâm lý cho trẻ còn thiếu
tính chuyên nghiệp, việc tổ chức các hoạt động nhóm giúp trẻ bớt mặc cảm tự ti,
hòa nhập và gắn kết với nhau còn nhiều hạn chế do thiếu vắng đội ngũ NVXH
chuyên nghiệp. Vì vậy, nhiều trẻ trong Làng còn thiếu tự tin vào bản thân để kết bạn
và hòa nhập cộng đồng, hơn nữa các em còn chưa được trang bị đầy đủ các kỹ năng
để đối phó với mọi khó khăn trong cuộc sống.
Công tác xã hội nhóm được coi là một trong những phương pháp can thiệp
chính của ngành công tác xã hội chuyên nghiệp. Công tác xã hội nhóm ra đời dựa
trên niềm tin hoạt động nhóm là một biện pháp tích cực xây dựng tính cách và thúc
đẩy sự phát triển của con người, đặc biệt là những người yếu thế. Những hoạt động
nhóm sẽ giúp từng cá nhân nâng cao khả năng hoàn thành các nhiệm vụ, giảm bớt
những căng thẳng, lo âu và nhận ra giá trị bản thân mình từ đó giúp thân chủ nâng
cao khả năng giải quyết vấn đề và ngăn ngừa nảy sinh ra những vấn đề xã hội
nghiêm trọng khác.
Từ những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Công tác xã hội nhóm

1


đối với trẻ mồ côi từ thực tiễn Làng trẻ em SOS thành phố Hà Nội” với hy vọng
áp dụng phương pháp CTXH nhóm, vận dụng những kiến thức, kỹ năng trong tiến
trình trợ giúp nhóm trẻ em mồ côi giải quyết vấn đề của nhóm (nâng cao tính cố kết
nhóm) và nâng cao năng lực của mỗi thành viên trong nhóm (sự tự tin và kỹ năng
sống) hướng đến giải quyết vấn đề của nhóm thân chủ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là đối tượng nhận được nhiều sự quan tâm của
các nhà nhà nghiên cứu. Trong phạm vi nghiên cứu là trẻ em mồ côi sống tại cơ sở
bảo trợ xã hội tôi lựa chọn một số công trình nghiên cứu và báo cáo tiêu biểu.
Nhóm các công trình, tài liệu nghiên cứu về trẻ em mồ côi

Chuyên đề “Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng
đồng những cơ sở xã hội và thách thức” năm 2005, của tác giả Nguyễn Hồng Thái.
Chăm sóc thay thế trẻ em đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng - chuyển đổi tư cách
tiếp cận trên cơ sở Quyền của trẻ em. Chăm sóc trẻ đặc biệt khó khăn tại trung tâm
bảo trợ xã hội và những trở ngại có thể có trong quá trình thực hiện Quyền trẻ em.
Thách thức và trở ngại của chiến lược chăm sóc trẻ em đặc biệt khó khăn dữa vào
cộng đồng.
Nghiên cứu “Chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: cơ
sở lý luận và thực tiễn pháp lý dân sự ở Việt Nam hiện nay” năm 2008, của tác giả
Dương Hải Yến đã phân tích các quy định của pháp luật về bảo vệ chăm sóc trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt để đưa ra giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt
động bảo vệ chăm sóc TETHCĐB trong thực tiễn.
Dự án: “Chăm sóc TEMC không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em tàn
tật nặng, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học và trẻ em nhiễm HIV/AIDS dựa
vào cộng đồng giai đoạn 2005 - 2010” với mục tiêu trợ giúp tất cả TETHCĐB hòa
nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống và có cơ hội thực hiện các Quyền của trẻ em
theo quy định của pháp luật; từng bước thu hẹp khoảng các chênh lệch về mức sống
giữa TETHCĐB với trẻ em bình thường tại nơi cư trú trên cơ sở huy động các
nguồn lực xã hội, phát triển các hình thức chăm sóc TETHĐB dựa vào cộng đồng..

2


Trong tài liệu Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em: Đánh giá pháp luật và
chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam của
Vụ Pháp chế, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2011), đã tập trung đề cập đến
các văn bản pháp luật đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, so sánh với các chuẩn
mực quốc tế, trên cơ sở đó kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, đảm bảo từng bước hài hòa với
chuẩn mực và pháp luật quốc tế. Đặc biệt, tài liệu cũng chỉ ra nhiều vấn đề cần khắc

phục như: chưa có khung pháp lý về công tác đánh giá một cách hệ thống và chuyên
nghiệp đối với trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi để quyết định mô hình chăm sóc
nào sẽ phù hợp với lợi ích của các em.
Năm 2011 tác giả Nguyễn Thị Bích Hằng đã có bài „Đánh giá tình hình chăm
sóc trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi tại Việt Nam trong thời gian qua“. Bài viết đã
đưa ra các số liệu về thực trạng chăm sóc trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi tại Việt
Nam và các chính sách hỗ trợ cho trẻ em mồ côi và những định hướng cụ thể cho
hoạt động chăm sóc trẻ em mồ côi ở nước ta hiện nay. Đây là những số liệu để các
nhà quản lý xem xét để có thể hoàn thiện hơn cơ chế chăm sóc trẻ em mồ côi, trẻ
em bị bỏ rơi.
Tài liệu „Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn“của
nhóm tác giả trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương năm 2012 đã chỉ ra các quyền
trẻ em, các nhu cầu thực trạng, nguyên nhân và hậu quả của tình trạng trẻ em trong
hoàn cảnh đặc biệt từ đó nhóm tác giả đã chỉ ra các yếu tố tác động làm gia tăng tỷ
lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nhất là nhóm trẻ em không nơi nương tựa, lang
thang, trẻ bị bạo hành. Trên cơ sở đó nhóm tác giả đã đưa ra những hướng giải
quyết theo phương pháp công tác xã hội vào tiến trình can thiệp đối với nhóm trẻ có
hoàn cảnh đặc biệt.
Nghiên cứu “Tình hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và các dự báo đến năm
2020” năm 2014, của tác giả Lê Thu Hà. Đã phản ánh thực trang TETHĐB khó
khăn ở Việt Nam đang cần rất nhiều hỗ trợ để hạn chế gia tang số lượng của nhóm
này trong giai đoạn mới.

3


Nghiên cứu “Khả năng hòa nhập cộng đồng của trẻ em mồ côi tại Làng thiếu
niên Thủ Đức“ của nhóm tác giả Phan Thị Việt Nga, Võ Kim Chi năm 2014 - Trường
Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Kết
quả nghiên cứu làm phong phú thêm hệ thống lí luận và lí thuyết của vấn đề này đồng

thời giúp các em củng cố thêm niềm tin vào cuộc sống đồng thời kết quả cũng giúp
những nhà quản lí đề ra chính sách giúp đỡ trẻ em mồ côi được tốt hơn.
Luận văn “Tổ chức và hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em mồ côi từ thực
tiễn Làng trẻ em SOS Hà Nội” năm 2016 của tác giả Nguyễn Văn Sinh đã phản ánh
thực trạng công tác chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em mồ côi từ đó đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ giúp các em phát triển toàn diện về thể
chất, tâm sinh lý, nhận thức để từng bước tái hòa nhập cộng đồng.
Nhóm các công trình, tài liệu nghiên cứu về CTXH nhóm với trẻ em mồ côi
Tài liệu “social woth children” (CTXH với trẻ em) năm 1998, NXB
Macmilian Press LTD, đã được tác giả Nguyễn Thị Nhẫn (dịch), viết về hoạt động
và kỹ năng làm việc với trẻ em, trong đó có vận dụng phương pháp CTXH nhóm
trong quá trình trợ giúp, tài liệu cũng làm rõ hơn những đặc điểm tâm lý và nhu cầu
của trẻ trong mỗi giai đoạn phát triển, qua đó định hướng những biện pháp trợ giúp
cho NVXH.
Khóa luận tốt nghiệp “Ứng dụng phương pháp CTXH nhóm nhằm nâng cao
năng lực cho trẻ em mồ côi“ tại Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Hòa Bình của tác giả
Nguyễn Văn Sơn năm 2008. Nghiên cứu đã đưa ra một số phương pháp can thiệp,
thực hành CTXH nhóm đối với hoạt động nâng cao năng lực cho trẻ em mồ côi từ
đó giúp cho nhóm trẻ nâng cao sự tự tin và kĩ năng làm việc theo nhóm đồng thời
chỉ ra vai trò của NVXH trong việc trợ giúp nhóm thân chủ.
Ở Việt Nam các hoạt động sinh hoạt nhóm đã bắt nguồn từ khá sớm trong văn
hóa tương thân tương ái của người Việt. Những nhóm điển hình tiêu biểu như hoạt
động của nhóm Hoa Phượng ở Hải Phòng, nhóm Hoa Sữa ở Hà Nội, nhóm đồng
đẳng hỗ trợ các thân chủ Xã hội bị bạo hành gia đình, nhóm đồng đẳng sau cai
nghiện của những người lạm dụng ma túy ở nhiều địa phương giúp nhau sinh hoạt
và phát triển kinh tế. Mặc dù đã có các hoạt động nghiên cứu và thực hành CTXH
4


nhóm dưới nhiều hình thức khác nhau, song vẫn còn thiếu những nghiên cứu can

thiệp vừa mang ý nghĩa thực tiễn (trợ giúp thân chủ), vừa mang ý nghĩa lý luận (bổ
sung, làm rõ lý thuyết, phương pháp và kỹ năng can thiệp trong thực tiễn).
Như vậy, có thể thấy có nhiều hoạt động nghiên cứu và thực hành nhằm nâng
cao năng lực cho một số nhóm xã hội có hoàn cảnh khó khăn, song vẫn chưa nghiên
cứu can thiệp nào đi sâu vào nghiên cứu ứng dụng phương pháp CTXH nhóm nhằm
nâng cao năng lực cho TEMC tại Làng trẻ em SOS Hà Nội. Do đó việc nghiên cứu
tập trung vào phương pháp CTXH nhằm nâng cao năng lực cho TEMC tại Làng trẻ
em SOS Hà Nội là rất hữu ích và cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đánh giá thực trạng khó khăn, nhu cầu của trẻ em mồ côi và các hoạt
động CTXH tại làng trẻ em SOS Hà Nội. Từ đó đưa ra các giải pháp hỗ trợ phù hợp
nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động can thiệp trong CTXH nhóm với nhóm trẻ
em mồ côi tại Làng trẻ em SOS Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tình hình hoạt động công tác xã hội với trẻ em
mồ côi tại Làng trẻ em SOS Hà Nội.
- Nghiên cứu thực trạng về nhu cầu vận dụng phương pháp công tác xã hội
nhóm trong việc nâng cao kỹ năng giao tiếp và sự tự tin cho đối tượng trẻ em trong
Làng trẻ em SOS Hà Nội.
- Vận dụng tiến trình công tác xã hội nhóm, lựa chọn một nhóm đối tượng
thân chủ cụ thể tiến hành can thiệp nhằm giải quyết vấn đề của nhóm, và nâng cao
năng lực cho đối tượng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi Làng trẻ em SOS Hà Nội.

5



4.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Phạm vi không gian: Làng trẻ em SOS Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: 2016 - 2017.
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu các hoạt động và vận dụng tiến trình CTXH
nhóm với trẻ em mồ côi.
- Phạm vi khách thể: 10 trẻ mồ côi từ 13 đến 15 tuổi, đại diện cán bộ nhân
viên, lãnh đạo
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng; quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục trẻ em và các học thuyết phục vụ cho
việc nghiên cứu đề tài như thuyết nhu cầu của Maslow, thuyết xung đột xã hội và
thuyết học tập xã hội. Việc sử dụng các thuyết trên vào nghiên cứu giúp chúng ta có
cơ sở để hiểu về tâm sinh lý cũng như quá trình phát triển con người và những yếu
tố có thể ảnh hưởng, tác động tích cực, tiêu cực tới quá trình phát triển đó.
Quá trình thực hiện nghiên cứu, tôi đã sử dụng tư liệu từ các công trình, báo
cáo, văn bản như: Báo cáo tóm tắt phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam, báo cáo
hoạt động của một số mô hình bảo vệ trẻ em không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi:
trung tâm, làng trẻ, mái ấm tình thương, gia đình thay thế…, báo cáo hoạt động
chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em ở Hà Nội, báo cáo tình hình hoạt động chăm sóc nuôi
dưỡng trẻ em mồ côi tại Làng Trẻ em SOS Hà Nội năm 2016.
Ngoài ra còn có các tài liệu Văn bản pháp lý như: Công ước Liên hiệp quốc về
Quyền trẻ em năm 1990, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi năm
2004, Luật Nuôi con nuôi năm 2010, Luật Phòng chống mua bán người, Nghị định
136/2013/NĐ-CP về chính sách trợ giúp xã hội, Chương trình hành động quốc gia
vì trẻ em giai đoạn 2001-2010, chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011
- 2015, Các công trình nghiên cứu, đánh giá về trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn, trẻ em mồ côi, mô hình nuôi dưỡng trẻ em mồ côi của nhiều nhà khoa học,
học giả trong cả nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

6


Phương pháp công tác xã hội nhóm
Công tác xã hội nhóm là phương pháp nghiên cứu áp dụng việc giải quyết vấn
đề trực tiếp cho nhóm đối tượng trẻ em mồ côi tại Làng trẻ em SOS Hà Nội. Nghiên
cứu được triển khai dựa trên vận dụng kỹ năng, tổ chức, điều phối buổi sinh hoạt
nhóm, kỹ năng lãnh đạo, giao nhiệm vụ, tổ chức các trò chơi…
Phương pháp phân tích tài liệu
Nhằm thu thập các tài liệu liên quan, xem xét các thông tin có sẵn trong các
bài viết, các báo cáo, sách, hay các cuộc nghiên cứu liên quan đến hoạt động hỗ trợ
nâng cao năng lực cho nhóm đối tượng hoặc tài liệu mà cơ quan cung cấp về nhóm
đối tượng để đáp ứng cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp phỏng vấn sâu
Mục đích nhằm thu thập những thông tin cần thiết về hoàn cảnh, môi trường
tác động, đặc điểm tâm sinh lý, tiềm năng sẵn có cũng như nhu cầu của nhóm thân
để có những phương pháp can thiệp hiệu quả giúp nâng cao năng lực cho nhóm.
Đối tượng phỏng vấn sâu: phỏng vấn sâu cán bộ tại Làng trẻ em SOS Hà Nội
(bao gồm ban Lãnh đạo, trưởng các bộ phận, nhân viên giáo dục viên tại Làng);
phỏng vấn bà mẹ trực tiếp nuôi dạy trẻ; phỏng vấn trẻ đại diện cho trẻ em mồ côi
đang được nuôi dưỡng tại Làng trong đó có nhóm thân chủ. Với phương pháp này ở
nội dung phỏng vấn cán bộ tại Làng tôi thu thập thông tin về tình hình hoạt động
công tác xã hội tại Làng, nhu cầu vận dụng phương pháp công tác xã hội trong hoạt
động trợ giúp đối tượng, những thuận lợi, khó khăn…
Đối với các mẹ - người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, tập trung phỏng vấn
sâu họ những câu hỏi như: Những nhu cầu hiện tại trong việc chăm sóc trẻ; theo họ
nhận thấy những nhu cầu nào là quan trọng thiết yếu đối với trẻ cũng như những
khó khăn mà họ gặp phải trong quá trình trợ giúp trẻ...
Đối với nhóm trẻ trong Làng, sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu nhằm tìm
hiểu xem trẻ cảm thấy như thế nào khi sống tại Làng; trẻ được tham gia vào những

hoạt động gì tại đây; được cung cấp những dịch vụ nào; nhu cầu chung hiện nay của
trẻ là gì; những khó khăn mà đối tượng đang gặp phải…
Phương pháp quan sát
7


Phương pháp quan sát được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu nhằm
mục đích thu thập những thông tin thực nghiệm cho nghiên cứu. Nhân viên công tác
xã hội quan sát những hành động, hành vi ứng xử và thái độ hàng ngày cũng như
hành vi thái độ của trẻ khi tham gia sinh hoạt nhóm bên cạnh đó quan sát thái độ,
phương pháp quản lý, giáo dục trẻ của cán bộ tại Làng nhằm mô tả chi tiết về nhóm
thân chủ (hành vi, thái độ, đặc điểm của từng cá nhân và đặc điểm nhóm) từ đó làm
cơ sở dữ liệu để nhân viên xã hội lập kế hoạch hoạt động cụ thể và phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý của nhóm.
Ngoài ra nhân viên xã hội còn sử dụng phương pháp quan sát để đánh giá mức
độ tiến bộ của các thành viên và nhóm thân chủ sau mỗi buổi sinh hoạt cũng như
lượng giá lại mục tiêu cụ thể của tiến trình hoạt động.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Nghiên cứu vận dụng các lý thuyết (lý thuyết nhu cầu của Maslow, thuyết
xung đột xã hội và lý thuyết học tập xã hội…) và một số kỹ năng chuyên nghiệp
trong công tác xã hội nhằm phân tích và giải thích vấn đề của các thành viên trong
nhóm và vấn đề chung của cả nhóm trẻ em mồ côi ở Làng trẻ em SOS Hà Nội. Trên
cơ sở đó tiến hành thực hiện các biện pháp can thiệp cụ thể để giải quyết một số vấn
đề của các thành viên trong nhóm.
Nghiên cứu ứng dụng phương pháp công tác xã hội nhóm nhằm nâng cao năng
lực cho nhóm trẻ em mồ côi, bổ sung về mặt lý luận cho việc ứng dụng phương
pháp nghiên cứu và thực hành với trẻ em nói chung và trẻ em mồ côi nói riêng.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn về lợi ích và vai trò của hoạt động công

tác xã hội tại các cơ sở xã hội mà cụ thể ở đây là Làng trẻ em SOS Hà Nội. Từ đó
vận dụng phương pháp công tác xã hội nhóm đối với nhóm trẻ em mồ côi còn thiếu
tự tin, mặc cảm và nhút nhát thông qua tiến trình công tác xã hội nhóm làm thay đổi
nhận thức thái độ và hành vi để cá nhân hòa nhập tốt hơn với cộng đồng.

8


Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
những người quan tâm đến lĩnh vực công tác xã hội nói chung và phương pháp công
tác xã hội nhóm nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội
dung chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi.
Chương 2: Thực trạng hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi
tại Làng trẻ em SOS Hà Nội.
Chương 3: Vận dụng công tác xã hội nhóm trong việc nâng cao năng lực hòa
nhập cộng đồng cho trẻ em mồ côi từ thực tiễn Làng trẻ em SOS Hà Nội.

9


Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM
ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI
1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.1.1 Lý thuyết nhu cầu cuả MasLow
Nhu cầu cấp thấp:

- Nhu cầu sinh lý: Là những nhu cầu cơ bản để con người duy trì cuộc sống
như nước, không khí, thức ăn, nhà ở, tình dục…
- Nhu cầu an toàn: Là những nhu cầu tránh sự nguy hiểm về thân thể và sự đe
dọa về mất việc làm, mất nhà, mất tài sản.
Nhu cầu cấp cao:
- Nhu cầu xã hội: Con người luôn có nhu cầu được yêu thương, gắn bó, được
giao tiếp và phát triển.
- Nhu cầu được tôn trọng: Khi con người được thỏa mãn nhu cầu xã hội thì họ
có xu thế tự trọng và muốn được người khác tôn trọng. Nhu cầu này dẫn con người
tới sự thỏa mãn như quyền lực, uy tín, địa vị và lòng tự tin.
- Nhu cầu tự hoàn thiện: Đây là nhu cầu cao nhất trong phân cấp nhu cầu của
Maslow. Con người nhận thấy bản thân cần thực hiện một công việc nào đó và chỉ
khi công việc đó được thực hiện tốt thì họ mới cảm thấy hài lòng.
Như vậy, theo Maslow khi con người thỏa mãn các nhu cầu bậc thấp đến một
mức độ nhất định sẽ nảy sinh những nhu cầu ở bậc cao hơn. Chính vì thế việc vận
dụng thuyết nhu cầu của Maslow sẽ giúp chúng ta đối chiếu với trẻ em mồ côi xem
các em đã được đáp ứng những gì và những gì còn thiếu hụt từ đó đưa ra những giải
pháp can thiệp phù hợp nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đề ra.
1.1.2. Thuyết xung đột xã hội
Thuyết xung đột nhấn mạnh mâu thuẫn là một phần không tránh được trong
mối quan hệ con người với nhau. Đồng thời, thuyết cũng cho rằng xung đột và mâu
thuẫn đóng góp vào sự thay đổi không ngừng của xã hội.
Thuyết xung đột trong công tác xã hội nhóm
Trong suốt giai đoạn phát triển của nhóm cũng như tiến trình công tác xã hội
nhóm, xung đột do mâu thuẫn về lợi ích, quan điểm, giá trị niềm tin, văn hóa, sự phân
10


chia vai trò chức năng, các nhu cầu hoặc vấn đề ưu tiên luôn xảy ra trong các thành
viên hoặc các nhóm với nhau. Biết được nguyên nhân của xung đột sẽ hỗ trợ cho

thành viên nhóm giải quyết chúng tốt hơn. Vì mỗi kiểu mâu thuẫn từ các nguyên
nhân khác nhau sẽ được tiếp cận với các chiến lược cụ thể khác nhau. Trong nhóm
nhỏ, mâu thuẫn thường xuất hiện từ việc hiểu nhầm trong giao tiếp hoặc thiếu thông
tin. Loại mâu thuẫn này dễ giải quyết hơn kiểu mâu thuẫn do sự khác biệt trong giá trị
niềm tin. Mâu thuẫn do vấn đề cơ cấu lại khó khăn hơn so với mâu thuẫn vì sự khác
biệt trong nhu cầu và mong muốn. Nắm bắt được điều này, nhân viên xã hội sẽ có
những kế hoạch và cách ứng xử phù hợp, cũng như cách giải quyết khôn ngoan cho
các trường hợp xung đột khác nhau xuất hiện trong nhóm, giúp các thành viên trưởng
thành hơn tạo điều kiện tăng cường sự cố kết nhóm sau mỗi xung đột.
Dựa vào thuyết xung đột xã hội, trong quá trình tổ chức hoạt động cho nhóm
trẻ mồ côi NVXH cần phải có những ứng xử phù hợp và giải quyết các xung đột
xuất hiện trong nhóm một cách hợp lý. Để làm được điều đó NVXH cần có được
kiến thức, sự hiểu biết về xung đột, các nguyên nhân dẫn đến xung đột, những thói
quen hay được sử dụng trong việc giải quyết các tình huống xung đột. Bên cạnh đó,
cần phải biết kỹ năng và cách thức điều chỉnh xung đột một cách sáng tạo. Quan
trọng hơn, NVXH trong quá trình giúp đỡ nhóm trẻ mồ côi cần giúp tất cả thành
viên nhóm hiểu được các kỹ năng cơ bản, cách thức giải quyết mâu thuẫn để các em
tự điều chỉnh hành vi của mình. Từ đó, vấn đề có thể được giải quyết và vẫn đảm
bảo duy trì tốt các mối quan hệ vẫn ngay cả khi nhóm có mâu thuẫn.
1.1.3. Thuyết học tập xã hội (Social learning theory)
Thuyết học tập được bắt đầu từ quan điểm học tập của Tarde (1843 - 1904).
Trong quan điểm của mình, Tarde nhấn mạnh về ý tưởng học tập xã hội thông qua
ba quy luật bắt chước: đó là sự tiếp xúc gần gũi, bắt chước người khác và sự kết hợp
cả hai. Cá nhân học cách hành động vừ ứng xử của người khác qua quan sát hoặc
bắt chước.
Thuyết học tập được ứng dụng vào công tác xã hội vào những năm 80 của thế
kỷ XX. Thuyết được sử dụng để giải thích cho hành vi tội phạm liên quan đến việc
đột nhập và phá hoại hệ thống máy tính tại các trường đại học (hacker máy tính).
Thuyết học tập xã hội còn được sử dụng để điều chỉnh hành vi. Ví dụ: việc bố trí,
sắp xếp một học sinh có hành vi lệch lạc ngồi cạnh một học sinh có hành vi tốt. Như

11


vậy, cách cư xử của học sinh tốt sẽ giúp cho học học sinh kia nhận thấy hành vi
đúng và chỉnh sửa. Tuy nhiên, học sinh có hành vi tốt có thể sẽ bị nhiễm hành vi
lệch lạc của học sinh kia, đây chính là kết quả trái ngược không mong đợi.
Thuyết học tập trong công tác xã hội nhóm
Theo cách tiếp cận cổ điển của thuyết học tập, hành vi của thành viên nhóm có thể
xuất hiện khi nó được kích thích. Ví dụ như nhân viên xã hội nhắc nhở (điều kiện
kích thích) thành viên A khi anh ta lấn át các thành viên khác khi tham gia thảo
luận. Nhờ có sự nhắc nhở này mà thành viên A đã thay đổi hành vi của mình. Đây
là kết quả của việc đưa ra kích thích thay đổi hành vi của thân chủ trong nhóm. Một
phương pháp học tập theo thuyết này khá phổ biến ứng dụng trong công tác xã hội
tạo ra môi trường có điều kiện. Đơn cử như hành vi của thành viên A sẽ lặp lại hành
vi của chính mình, nếu như hành vi đó nhận được phản ứng tính cực của các thành
viên trong nhóm. Như thế tạo ra môi trường có điều kiện để thành viên A tiếp tục
củng cố được hành vi. Ngược lại, nếu một nhân viên làm việc nhóm nhận được sự
phản hồi khó chịu từ các thành viên trong nhóm về một hành vi nào đó của bản
thân, anh ta sẽ cố gắng tránh có các biểu hiện kiểu đó trong tương lai. Bên cạnh đó,
thuyết học tập xã hội có thể giúp giải thích cho các hiện tượng lây chuyền hành vi
từ thành viên này sang thành viên khác, nếu như hành vi của thành viên đó được các
thành viên hưởng ứng.
Khi vận dụng thuyết học tập xã hội trong công tác xã hội nhóm, người điều
phối phải lưu ý tới việc sử dụng các kỹ thuật để khuyến khích những hành vi được
coi là chuẩn mực, chẳng hạn như việc khen thưởng, khích lệ mỗi cá nhân đúng lúc;
hoặc có các hình thức phạt để nhắc nhở nhóm viên tránh lặp lại những hành vi
không phù hợp với chuẩn mực của nhóm. Ngoài ra, nhân viên xã hội cũng cần phải
biết vận dụng các kỹ năng và tạo cơ hội để các khuôn mẫu hành vi tích cực của các
thành viên nhóm xuất hiện và lặp đi lặp lại, giúp các thành viên nhóm nhận thức
được khuôn mẫu về thời gian để thực hành.

Tóm lại, cho dù vẫn còn những tranh cãi, thuyết học tập ảnh hưởng tới phương
pháp thực hành công tác xã hội nhóm. Điều này thể hiện qua từng bước của tiến
trình công tác xã hội, việc lập kế hoạch cụ thể và lập kế hoạch trị liệu từng bước, kết
quả trị liệu có thể đo lường được và đánh giá từng phần. [12, tr.84]

12


Đối với trẻ mồ côi khi tham gia hoạt động nhóm sẽ có những em rụt rè, thiếu
tự tin nhưng bên cạnh đó có những em tự tin, bạo dạn. Trong quá trình hoạt động
những em thiếu tự tin quan sát thấy các bạn khác tích cực dần dần các em sẽ học tập
các hành vi đó. Như vậy thuyết học tập trong sinh hoạt nhóm sẽ giúp cho các nhóm
viên thay đổi hành vi không tương hợp (hành vi lệch chuẩn) và củng cố hành vi
tương hợp.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Công tác xã hội nhóm
* Khái niệm công tác xã hội
Theo các nhân viên xã hội Mỹ - NASW đưa ra năm 1970: “Công tác xã hội là
một hoạt dộng mang tính chuyên môn nhằm giúp đỡ những cá nhân, nhóm và cộng
đồng trong hoàn cảnh khó khăn để họ tự phục hồi chức năng xã hội là tạo ra các
điều kiện thuận lợi cho họ đạt được những mục đích cá nhân”.
Theo hiệp hội nhân viên xã hội quốc tế - IFSW năm 2000: “Công tác xã hội
chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội, việc giải quyết vấn đề trong các mối
quan hệ con người với sự tăng quyền lực và giải phóng người dân nhằm giúp cho
cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi
và hệ thống xã hội, công tác xã hội can thiệp ở các điểm tương tác giữa con người
với môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản
của nghề công tác xã hội”.
Theo nhóm tác giả Việt Nam (2010): “Công tác xã hội là một nghề, một hoạt
động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao

năng lực, đáp ứng nhu cầu và tang cường chức năng xã hội đồng thời thúc đẩy môi
trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình,
cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã
hội”. [19, tr19]
* Khái niệm nhóm và nhóm xã hội:
- Khái niệm nhóm:
Định nghĩa về nhóm có rất nhiều quan điểm dựa trên các cách tiếp cận và lĩnh
vực nghiên cứu khác nhau. Nghiên cứu lựa chọn khái niệm nhóm theo quan điểm
13


của Xã hội học: “Nhóm là một thành tố của hệ thống xã hội mà mối quan hệ ý nghĩa
của nó được xác định qua những quan hệ thành viên trực tiếp và phân tán cũng như
qua tính bền lâu tương đối”. [19, tr.299]
Nhìn chung nhóm là hai hay nhiều người có mối quan hệ tương hỗ nhau về
mặt tinh thần, hoạt động như một tập thể, có những mối quan tâm chung, sử dụng
việc tương tác mặt đối mặt để chia sẻ, nhất trí và làm việc để đáp ứng nhu cầu, các
vấn đề thuộc về giá trị chung của họ hoặc của người khác.
Các yếu tố hình thành một nhóm: Có cùng chung mục đích và chia sẻ trách
nhiệm để đạt được mục đích đó. Có mối quan hệ tác động qua lại thông qua giao
tiếp, có ảnh hưởng lẫn nhau. Sinh hoạt theo quy tắc và tiêu chuẩn riêng. Và mỗi
thành viên có một hay nhiều vai trò tùy theo tình huống nhất định.
- Nhóm xã hội:
“Nhóm xã hội là một tập hợp những cá nhân được gắn kết với nhau bởi những
mục đích nhất định. Những cá nhân có những hoạt động chung với nhau trên cơ sở
cùng chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau nhằm đạt được những mục đích cho mọi thành
viên”. [19, tr.305]
Trong công tác xã hội nhóm việc thành lập một nhóm thân chủ để can thiệp
trợ giúp được coi là một nhóm xã hội. Chẳng hạn với nhóm thân chủ là trẻ em mồ
côi thì mục đích của nhóm là tạo ra môi trường hòa thuận giữa các thành viên, các

em có thể chia sẻ với nhau những tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, ước mơ và tham
gia các hoạt động chung của nhóm, qua đó nâng cao năng lực cho từng nhóm và
thành viên trong nhóm.
* Khái niệm công tác xã hội nhóm:
“CTXH nhóm trước hết phải được coi là một phương pháp can thiệp của CTXH.
Đây là một tiến trình trợ giúp mà trong đó các thành viên trong nhóm được tạo cơ
hội và môi trường có các hoạt động tương tác lẫn nhâu, chia sẻ những mối quan tâm
hay những vấn đề chung, tham gia vào các hoạt động nhóm và hướng đến giải tỏa
những vấn đề khó khăn. Trong hoạt động CTXH nhóm, một nhóm thân chủ được
thành lập, sinh hoạt thường kỳ dưới sự điều phối của người trưởng nhóm (có thể là

14


nhân viên xã hội cũng có thể là thành viên của nhóm) và đặc biệt là sự trợ giúp, điều
phối của nhân viên xã hội”. [17, tr.34]
“CTXH với nhóm (còn gọi là làm việc với nhóm) là quá trình mà nhân viên
CTXH sử dụng tiến trình sinh hoạt nhóm để giúp đỡ nhóm và từng cá nhân tăng
cường khả năng tự giải quyết vấn đề nhằm thỏa mãn nhu cầu”. [28, tr.9].
* Nhân viên xã hội
- Khái niệm Nhân viên xã hội (Social worker)
Theo Zastrow (1996) Nhân viên xã hội là người được đào tạo về công tác xã
hội. Họ sử dụng kiến thức và kỹ năng để cung cấp các dịch vụ xã hội cho các cá nhân
và gia đình, nhóm, cộng đồng, tổ chức, xã hội. Nhân viên xã hội giúp đỡ con người
tăng cường năng lực đối phó và giải quyết vấn đề, tìm kiếm các nguồn lực cần thiết,
tạo điều kiện cho sự tương tác giữa cá nhân và con người với môi trường, thúc đẩy
trách nhiệm của xã hội với con người vừa tác động đến các chính sách xã hội.
DuBois and Miley (2005) lại nhận định Nhân viên xã hội là những nhà chuyên
nghiệp, có nền tảng kiến thức chuyên môn, có kỹ năng cần thiết, tuân thủ những
tiêu chuẩn và đạo đức của nghề công tác xã hội.

Trong văn bản quy định chức danh nghề CTXH ở Việt Nam có quy định:
Nhân viên xã hội, công tác xã hội viên, công tác xã hội viên chính. Trong tài liệu
này xin gọi chung là nhân viên xã hội.
- Nhiệm vụ của nhân viên xã hội
Thúc đẩy, phục hồi, duy trì và tăng cường chức năng của cá nhân, gia đình và
cộng đồng thông qua hoạt động trợ giúp, phòng ngừa, phát huy nguồn lực trong xã hội.
Xây dựng, hoạch định và thực thi các chính sách xã hội, chương trình hành
động, hệ thống dịch vụ xã hội, nguồn lực xã hội cần thiết để đáp ứng nhu cầu của
con người và trợ giúp sự phát triển năng lực của con người.
Theo dõi, kiểm soát các chính sách, chương trình thông qua hoạt động biện hộ,
hoạt động chính trị để tăng năng lực cho những nhóm yếu thế hay nhóm người yếu
thế và thúc đẩy công bằng, bình đẳng về mặt kinh tế cũng như xã hội.
Phát triển những kiến thức kỹ năng của công tác xã hội để đảm bảo mục tiêu
nghề nghiệp của mình.
15


- Vai trò của nhân viên xã hội.
Vai trò là người vận động nguồn lực: Là người trợ giúp các đối tượng (cá
nhân, gia đình, cộng đồng…) tìm kiếm nguồn lực (nội lực, ngoại lực) cho giải quyết
vấn đề. Nguồn lực có thể bao gồm về con người, về cơ sở vật chất, về tài chính, kỹ
thuật, thông tin, sự ủng hộ về chính sách, chính trị và quan điểm…
Vai trò là người kết nối - còn gọi là người trung gian: nhân viên xã hội là
người có được những thông tin về các dịch vụ, chính sách và giới thiệu cho đối
tượng các chính sách, dịch vụ, nguồn tài nguyên đang sẵn có từ các cá nhân, cơ
quan tổ chức để họ tiếp cận với những nguồn lực, chính sách, tài chính, kỹ thuật để
có them sức mạnh trong giải quyết vấn đề.
Vai trò là người biện hộ: là người bảo vệ quyền lợi cho đối tượng để họ được
hưởng những dịch vụ, chính sách, quyền lợi cho đối tượng, cổ vũ tuyên truyền. Ví
dụ như sự vận động cho quyền lợi của những người khuyết tật được hưởng chính

sách hòa nhập.
Vai trò là người giáo dục: là người cung cấp kiến thức kỹ năng liên quan tới
vấn đề của họ cần giải quyết, nâng cao năng lực cho cá nhân, gia đình, nhóm hay
cộng đồng qua tập huấn, giáo dục cộng đồng để họ có hiểu biết, tự tin và tự mình
nhìn nhận vấn đề đánh giá vấn đề phân tích và tìm kiếm nguồn lực cho vấn đề cần
giải quyết.
Vai trò người tạo sự thay đổi: người nhân viên xã hội được xem như người tạo
ra sự thay đổi cho cá nhân, giúp họ thay đổi suy nghĩ, thay đổi hành vi tiêu cực
hướng tới những suy nghĩ và hành vi tốt đẹp hơn.
Vai trò là người tham vấn, tư vấn: nhân viên xã hội tham gia như người cung
cấp thông tin tư vấn cho các đối tượng cần có thông tin như thông tin về chăm sóc
sức khỏe sinh sản, thông tin về bảo vệ môi trường, dinh dưỡng cho trẻ em hay
người già. Vai trò của người tham vấn: NVXH trợ giúp gia đình và cá nhân tự mình
xem xét vấn đề, tự thay đổi. Ví dụ như NVXH tham gia tham vấn giúp trẻ em bị
xâm hại tình dục hay phụ nữ bị bạo hành vượt qua khủng hoảng.
Vai trò là người trợ giúp xây dựng và thực hiện kế hoạch cộng đồng: trên cơ
sở nhu cầu của cộng đồng đã được cộng đồng xác định, NVXH giúp cộng đồng xây
16


dựng chương trình hành động phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, tiềm năng của cộng
đồng giải quyết vấn đề của cộng đồng.
Vai trò là người cung cấp các dịch vụ trợ giúp cho những cá nhân, gia đình
không có khả năng tự đáp ứng nhu cầu của mình và giải quyết vấn đề.
Vai trò là người nghiên cứu xử lý dữ liệu: Với vai trò này, NVXH nhiều khi
phải nghiên cứu, thu thập thông tin và phân tích thông tin trên cơ sở đó tư vấn cho
đối tượng để họ đưa ra những quyết định đúng đắn.
Vai trò là người quản lý hành chính: NVXH khi này thực hiện những công
việc cần thiết cho việc quản lý các hoạt động, các chương trình, lên kế hoạch triển
khai kế hoạch các chương trình dịch vụ cho cá nhân, gia đình và cộng đồng.

Người tìm hiểu, khám phá cộng đồng: NVXH đi vào cộng đồng để xác định
vấn đề của cộng đồng để đưa ra những kế hoạch trợ giúp, theo dõi, giới thiệu
chuyển giao những dịch vụ cần thiết cho các nhóm đối tượng trong cộng đồng.
1.2.2. Trẻ em mồ côi
* Khái niệm trẻ em
Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc công bố năm 1989 xác
định “Trong phạm vi công ước này, trẻ em có nghĩa là dưới 18 tuổi, trừ trường hợp
luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định
“Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi vận dụng khái niệm trẻ em theo Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. Cụ thể, trong phạm vi nghiên cứu của
đề tài là những trẻ em mồ côi dưới 16 tuổi tại Làng trẻ em SOS Hà Nội.
* Khái niệm trẻ em mồ côi
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi năm 2004 quy định trẻ em
mồ côi được hiểu là những trẻ em có hoàn cảnh như sau: Mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc
bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng và không còn người thân thích ruột thịt (ông, bà
nội, ngoại; bố, mẹ nuôi hợp pháp; anh, chị) để nương tựa.
Mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại (mẹ hoặc cha) mất tích theo quy định
của Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng (như tàn tật
17


nặng, đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại cải tạo), không có nguồn
nuôi dưỡng và không có người thân thích để nương tựa.
Theo Luật Nuôi con nuôi ban hành năm 2010 thì: Trẻ em mồ côi là trẻ em mà cả
cha mẹ đẻ đã chết hoặc một trong hai người đã chết và người kia không xác định được.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi xác định, trẻ em mồ côi là
những em dưới 16 tuổi và có hoàn cảnh như: cả cha lẫn mẹ đã chết hoặc cha hoặc
mẹ đã chết; cả cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đã mất tích theo qui định của pháp luật.

1.2.3. Công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi
* Công tác xã hội với trẻ em
“Công tác xã hội với trẻ em là công tác xã hội có đối tượng tác động là trẻ em,
nhằm phát hiện và can thiệp để ngăn ngừa các em tránh rơi vào hoàn cảnh đặc biệt
hoặc trợ giúp các em đã rơi vào hoàn cảnh đặc biệt vượt qua hoàn cảnh của mình để
có thể hòa nhập với gia đình và cộng đồng. [13, tr.10]
* Công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi
Từ khái niệm về CTXH nhóm cũng như cách hiểu về nhóm trẻ em mồ côi có
thể hiểu: CTXH nhóm với trẻ em mồ côi là quá trình nhân viên CTXH sử dụng
phương pháp CTXH nhóm tác động đến nhóm đối tượng là trẻ em mồ côi. Thông
qua tiến trình trợ giúp mà trong đó các thành viên nhóm là trẻ em mồ côi được tạo
cơ hội và môi trường có các hoạt động tương tác lẫn nhau, chia sẻ những mối quan
tâm hay những vấn đề chung tham gia vào các hoạt động nhóm và hướng đến giúp
đỡ nhóm và từng cá nhân tăng cường khả năng tự giải quyết vấn đề nhằm thỏa mãn
nhu cầu.
Như vậy tiến trình trợ giúp mà nhân viên sử dụng là tiến trình sinh hoạt nhóm
gồm bốn giai đoạn chính:
- Giai đoạn chuẩn bị và thành lập nhóm
- Giai đoạn nhóm bắt đầu hoạt động
- Giai đoạn can thiệp
- Giai đoạn kết thúc và lượng giá
Các mô hình vận dụng trong CTXH nhóm với trẻ em mồ côi:
- Mô hình phòng ngừa:
18


- Mô hình chữa trị:
- Mô hình phát triển:
1.3. Các vấn đề chung của công tác xã hội nhóm
1.3.1. Mục đích, ý nghĩa

CTXH nhóm ra đời và phát triển với mục đích thông qua hoạt động của nhóm
giúp các cá nhân giải quyết vấn đề và thoả mãn các nhu cầu được an toàn, chia sẻ,
cảm thông, được công nhận, được yêu thương gắn bó, được khẳng định mình và
nâng cao năng lực phát huy tiềm năng.
CTXH nhóm là môi trường tốt tạo cơ hội cho các cá nhân phát triển, học hỏi
và hàn gắn tổn thương, vì vậy, Klein (1972) đã đưa ra các mục đích của CTXH
nhóm như sau:
- Phòng ngừa: là việc dự đoán những khó khăn trước khi xảy ra và cung cấp những
biện pháp cần thiết đáp ứng nhu cầu con người. Ví dụ như việc trang bị kiến thức,
kỹ năng giúp trẻ em hiểu về các quyền của mình để ngăn ngừa việc bị lạm dụng,
ngược đãi.
- Phục hồi: là quá trình khôi phục cho thân chủ năng lực trước đây của họ. Phục hồi
trong CTXH nhóm là hỗ trợ thân chủ có đủ sức mạnh trở lại giải quyết những khó
khăn, vấn đề về tâm lý, tình cảm và hành vi của họ. Ví dụ như việc những thân chủ
sau những tổn thương về tâm lý xã hội, mất đi khả năng giao tiếp và hoà nhập cộng
đồng, CTXH nhóm giúp họ có được sự tự tin, kỹ năng giao tiếp và hòa nhập cộng
đồng trở lại.
- Chỉnh sửa: là việc giúp đỡ các thành viên chỉnh sửa lại hành vi lệch chuẩn như vi
phạm pháp luật, quy luật, giá trị cuộc sống. Chẳng hạn như việc giáo dục pháp luật
và kỹ năng sống cho các em vi phạm pháp luật thông qua hoạt động nhóm để các
em hiểu và sửa đổi hành vi của mình.
- Xã hội hoá hay còn được gọi là hoà nhập xã hội: là việc tạo ra môi trường nhóm
hỗ trợ thân chủ học được những gì xã hội mong đợi và sống hoà đồng với những
người khác. Trong nhiều trường hợp, thân chủ có những suy nghĩ và hành vi không
phù hợp với gia đình, cộng đồng và môi trường xã hội, CTXH nhóm sẽ giúp họ
nhận diện được vấn đề và thay đổi để hoà nhập cuộc sống xã hội.
19


- Hành động xã hội: là tiến trình khuyến khích hoạt động xã hội giúp mọi người học

cách thay đổi môi trường và đối phó, điều chỉnh bản thân.
- Giải quyết vấn đề và các giá trị xã hội: là việc hỗ trợ thân chủ sử dụng nhóm hoàn
thành nhiệm vụ, đưa ra quyết định và giải quyết các vấn đề xã hội. Bên cạnh đó
khuyến khích thân chủ có được các giá trị xã hội.
Như vậy, mục tiêu của công tác xã hội nhóm bám sát mục tiêu trao quyền,
tăng năng lực các thân chủ tham gia hoạt động công tác xã hội nhóm. Từ đó các
thành viên học được cách ứng phó với vấn đề của mình gặp phải.
1.3.2. Đặc trưng công tác xã hội nhóm
Cùng với các phương pháp khác trong chuyên môn công tác xã hội, CTXH
nhóm được sử dụng trong nhiều hoạt động của quá trình giúp đỡ thân chủ. Tuy
nhiên, để trả lời cho câu hỏi khi nào sử dụng phương pháp này là phù hợp, chúng ta
cần xem xét các đặc trưng của CTXH nhóm. Theo tổng hợp từ nhiều tài liệu, CTXH
nhóm có ba đặc trưng cơ bản sau:
- Đặc trưng thứ nhất là ở đối tượng tác động của phương pháp này là toàn nhóm.
Khác với CTXH cá nhân, CTXH nhóm tác động đến toàn bộ các thành viên trong
nhóm. CTXH nhóm đi theo cách tiếp cận nhóm như một tổng thể tác động không
phải chỉ là phép cộng đơn thuần của từng thành viên. Điều này có thể được hiểu qua
các hoạt động thực tiễn của CTXH nhóm hướng đến toàn thể các thành viên trong
nhóm. Nhóm và ảnh hưởng của nhóm được dùng để giải quyết vấn đề của cá nhân
và của nhóm.
- Đặc trưng thứ hai là công cụ tác động của nhóm chính là mối quan hệ, sự tương
tác giữa các thành viên trong nhóm. CTXH nhóm nhấn mạnh vào sự tác động qua
lại, tương tác giữa các thành viên trong nhóm để xây dựng và củng cố nhân cách
của các thành viên trong nhóm. Đặc trưng này khác biệt với phương pháp CTXH cá
nhân khi công cụ tác động thay đổi cá nhân là quá trình trợ giúp của người nhân
viên xã hội.
- Đặc trưng thứ ba là ở vai trò của nhân viên xã hội trong tiến trình giúp đỡ nhóm
thân chủ. Khác với cách tiếp cận trực tiếp của NVXH trong phương pháp CTXH cá
nhân, trong phương pháp này, NVXH chủ yếu đóng vai trò tổ chức, điều phối,
20



hướng dẫn, định hướng sinh hoạt của nhóm. Ảnh hưởng của NVXH trong hoạt
động nhóm chủ yếu mang tính gián tiếp thông qua việc tạo môi trường lành mạnh
thúc đẩy các tương tác nhóm hướng đến sự thay đổi và hỗ trợ trưởng nhóm điều
hành nhóm. Vai trò NVXH giảm dần và tương đối gián tiếp để các thành viên trong
nhóm có ảnh hưởng tích cực lên nhau. Tuy nhiên ở những nhóm trị liệu, khi yêu cầu
trị liệu sâu hơn, cần nhiều kiến thức và kỹ năng chuyên môn hơn thì vai trò của
nhân viên xã hội trực tiếp hơn.
Những đặc trưng trên đã gợi mở cho chúng ta những vấn đề nào có thể sử
dụng CTXH nhóm. Trước hết đó là những vấn đề liên quan đến việc giải quyết nhu
cầu tương đối giống nhau của nhiều người. Ví dụ như sử dụng CTXH nhóm cho
những trẻ em lang thang dạy các em kỹ năng sống và cách tránh xa những tệ nạn xã
hội tại thành phố nơi các em đến kiếm sống. Hầu hết các trẻ em lang thang này ở
nông thôn do những hoàn cảnh khác nhau phải bỏ nhà tìm đến thành phố kiếm việc
làm gửi tiền về hỗ trợ cho gia đình. Các em lúc bỏ nhà đi còn nhỏ lại đến một môi
trường thành thị vốn có rất nhiều khó khăn và cạm bẫy, nên các em có nhu cầu bổ
xung nhiều kiến thức và kỹ năng sống, đặc biệt là nhu cầu cần bảo vệ mình tránh xa
khỏi các tệ nạn xã hội. Vì vậy, CTXH nhóm là cách tốt nhất để hỗ trợ các em đáp
ứng các nhu cầu chung về kỹ năng sống và cách bảo vệ bản thân.
Bên cạnh đó, CTXH nhóm cũng có thể được sử dụng trong việc xử lý những
vấn đề nảy sinh trong mối tương quan giữa hai hay nhiều người. Đơn cử như việc
cải thiện các mối quan hệ giao tiếp trong các thành viên trong nhóm thân chủ tại
trung tâm, các cơ sở nuôi dưỡng tập trung. CTXH nhóm được sử dụng đáp ứng nhu
cầu chung nào đó của một số thân chủ ví dụ như đáp ứng nhu cầu giải trí, nhu cầu
nâng cao nhận thức về các quyền, sinh sản vị thành niên,... CTXH nhóm còn được
sử dụng khi xuất hiện yêu cầu công việc hỗ trợ một cách gián tiếp thân chủ như yêu
cầu vận động chính sách (biện hộ) và tổ chức các dịch vụ.
1.3.3. Vai trò
CTXH nhóm được coi là một trong những phương pháp can thiệp chính của

nghề công tác xã hội chuyên nghiệp trên thế giới. NVXH hiểu được những tác động
tích cực và có hiệu quả của tiến trình nhóm giúp cá nhân nâng cao chức năng xã
21


×